Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa và thực tế giữa các đồng tiền lớn - đôla Mỹ, yên Nhật, các đồng tiền châu Âu trong EMS (từ năm 1999 là đồng Euro) cả trong ngắn hạn và trong trung hạn. Tỷ giá giữa các đồng tiền chính biến động mạnh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (từ 1945 đến 1971). Trong trung hạn, tỷ giá cũng biến động mạnh như giai đoạn lên giá của đồng đôla Mỹ 1980-85, giai đoạn lên giá của đồng yên 1990-95 và giảm giá trong quãng thời gian tiếp sau.
Các nước công nghiệp lớn vẫn chủ trương thả nổi tỷ giá và hạn chế can thiệp trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ những lần căng thẳng và mất cân đối cao độ đe dọa trực tiếp triển vọng kinh tế nước họ.
83 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tác Đông á được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh “ASEAN+3” (10 nước thành viên ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) vào tháng 11 năm 1999, các nước tham dự đã đồng ý “tăng cường đàm thoại chính sách, điều phối và hợp tác trong các vấn đề tài chính, tiền tệ và tài khóa vì lợi ích chung”. Dựa trên nền tảng này, các Bộ trưởng Tài chính khu vực đã đưa ra “Sáng kiến Chiang Mai” (Chiang Mai Initiative) vào tháng
5/2000, với mục đích xây dựng mạng lưới hợp tác tài chính đa phương phù hợp với sự độc lập kinh tế ngày càng tăng của các nước châu á và để đối phó với nguy cơ gia tăng các cú sốc tài chính có thể lây lan trong khu vực. Sáng kiến này nhằm mục đích sử dụng khuôn khổ ASEAN+3 để cải thiện việc trao đổi thông tin về các luồng vốn và vạch ra các bước tiến hướng đến thiết lập một hệ thống kiểm soát kinh tế và tài chính khu vực. Trọng tâm của Sáng kiến Chiang Mai là thỏa thuận hỗ trợ tài chính giữa 13 nước, mục đích là tăng cường cơ chế hỗ trợ trong khu vực để đối phó với khủng hoảng tiền tệ. Thỏa thuận này được xây dựng dựa trên Thoả thuận Swap ASEAN trước đây (ASA), nhằm bổ sung cho cơ chế hợp tác tài chính quốc tế hiện nay và góp phần ổn định tỷ giá trong khu vực.
Thỏa thuận ASA trước đây được lập năm 1977 chỉ gồm 5 nước (Indonesia, Malaysia, Philíppin, Singapore và Thái Lan). Tổng giá trị cam kết theo thỏa thuận là 200 triệu đôla – một con số không thấm vào đâu nếu so với tổng thất thoát dự trữ ngoại hối 17 tỉ đôla của 5 nước từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1997.
Thỏa thuận ASA mới theo Sáng kiến Chiang Mai có thêm Brunei và cho phép 4 nước ASEAN còn lại (gồm Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam) gia nhập dần dần. Yếu tố quan trọng nhất đó là nó bao gồm các thỏa thuận hoán đổi và thỏa thuận mua lại (repurchase) song phương giữa các nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tổng giá trị theo thỏa thuận ASA mới là 1 tỉ đôla. Tuy nhiên các cam kết của 3 nước ngoài ASEAN đối với các thỏa thuận hoán đổi song phương có thể lớn hơn nhiều. Điều này tùy thuộc vào mức độ dự trữ ngoại hối của các nước và giá trị của các hiệp định đầu tiên giữa Nhật Bản với Hàn Quốc (5 tỉ đôla) và giữa Nhật với Malaysia (2,5 tỉ đôla) theo Sáng kiến Miyazawa mới. Điều kiện sử dụng những công cụ này và một số vấn đề kỹ thuật còn cần được nhất trí thông qua thương lượng giữa các nước có liên quan. Nhưng về nguyên tắc, hỗ trợ dưới hình thức thỏa thuận hoán đổi song phương sẽ gắn với hỗ trợ của IMF và bổ sung cho các phương tiện hỗ trợ tài chính quốc tế hiện có.
1.3.2 Tiến triển của Sáng kiến Chiang Mai:
Báo cáo ngày 5/10/2001 của Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết kết quả đàm phán song phương của Nhật với một số nước về các điều kiện của thỏa thuận hoán đổi song phương theo Sáng kiến Chiềng Mai. Tính đến thời điểm trên, Nhật Bản đã ký các hiệp định quan trọng với các nước sau:
(1) Hàn Quốc: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - won giá trị lên đến 2 tỉ đôla ngày 4/7/2001, bổ sung cho thỏa thuận hoán đổi trị giá 5 tỉ đôla theo Sáng kiến Miyazawa mới. Như vậy, nếu xét thấy cần thiết, Bộ Tài chính Nhật Bản có thể cung cấp cho Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc khoản thanh toán lên đến 2 tỉ đôla thông qua hoán đổi đôla - won. Thái Lan: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla-bạt giá trị lên đến 3 tỉ đôla ngày 30/7/2001.
(2) Philíppin: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - pêsô giá trị
lên đến 3 tỉ đôla ngày 27/8/2001.
(3) Malaysia: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - ringgit giá trị lên đến 1 tỉ đôla ngày 5/10/2001, bổ sung cho thỏa thuận hoán đổi trị giá 2,5 tỉ đôla theo Sáng kiến Miyazawa mới.
Ngoài ra, Nhật và Trung Quốc vẫn tiếp tục thương lượng về thỏa thuận hoán đổi yên-nhân dân tệ. Nhật Bản sẽ tiếp tục đàm phán song phương với các nước thành viên để thiết lập mạng lưới thỏa thuận hoán đổi song phương.
Khủng hoảng EMS 1992-93 là một lời nhắc nhở: các thỏa thuận tiền tệ khu vực gắn một số đồng tiền quốc gia thông qua các biên độ tỷ giá có thể gặp phải những khó khăn nghiêm trọng kể cả khi có các thiết chế hỗ trợ. Đối với các nước đang phát triển, không dễ gì lặp lại kinh nghiệm của châu Âu, dù có hay không có sự giúp đỡ của các nước G-3. Tuy nhiên nguy cơ khủng hoảng tài chính, cùng với sự thiếu vắng các tiến bộ thực sự trong cải cách cơ cấu tài chính quốc tế đã đưa việc xây dựng các cơ chế phòng hộ tập thể ở cấp khu vực trở nên cấp thiết ở các thị trường đang nổi, nhất là Đông á. Những sáng kiến và tiến bộ nêu trên của Đông á dù còn khiêm tốn nhưng là một bước đi quan trọng trong nỗ lực hợp tác khu vực để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là những tiền đề quan trọng để tiến tới một cơ chế liên kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai.
1.4 Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với một chính sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất
Trên thực tế, khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập và một đồng tiền thống nhất ở ASEAN chưa có dấu hiệu trở thành hiện thực trong tương lai gần. ý tưởng này mặc dù đã thu hút được một sự quan tâm nào đó và đã được các cuộc họp ASEAN bàn tới nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ "nghiên cứu tính khả thi". Về khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập, ở châu á cũng đã xuất hiện đề xuất thiết lập một Viện tiền tệ châu á, tương tự như Viện tiền tệ châu Âu của EU trước đây. Viện này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp
các chương trình cải cách và phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ giữa các nước thành viên. Đây sẽ là nơi cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước thành viên, tổ chức các chương trình đào tạo, là nơi để các nước thành viên đàm phán các hiệp định chung, đề ra các tiêu chuẩn trong lĩnh vực tài chính. Viện này cũng có thể sẽ tham gia vào việc thanh toán giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một đề xuất của các nhà nghiên cứu mà chưa hề có một biện pháp cụ thể để đưa đề xuất đó thành hiện thực.
Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử
dụng một đồng tiền bản tệ hoặc hình thành một đồng tiền mới.
Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì đồng đôla Singapore được xem là "ứng cử viên sáng giá" nhất, với lý do nền kinh tế Singapore có khả năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại tệ và thặng dư thương mại lớn. Tuy nhiên, một số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ của Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa hoàn toàn chuyển đổi tự do nên khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu vực. Mặt khác, việc khu vực hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông của đồng tiền này lớn hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ. Đây cũng là nguyên nhân mà chính phủ Singapore ngần ngại trong việc chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực.
Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu đồng Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một đồng tiền như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải pháp cho việc triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro mà thôi.
Tóm lại, ASEAN có những tiền đề đầu tiên để hình thành một liên minh tiền tệ. Nếu đứng trên phương diện lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số tổng hợp của một khu vực tiền tệ tối ưu về mức độ tự do di chuyển các yếu tố sản xuất, mức độ linh hoạt của giá cả và tiền lương, mức độ trùng hợp của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng, và mức độ thương mại nội bộ đã cho thấy rằng các chỉ số trên của ASEAN hiện nay tương đương với EU trước khi ký Hiệp ước Masstricht. ASEAN thậm chí còn có mức độ linh hoạt về giá cả và tiền lương cao hơn EU, và do đó khả năng điều chỉnh khi xảy ra khủng hoảng cũng nhanh hơn. Cụ thể là các nước ASEAN thường chỉ mất khoảng 2 năm để điều chỉnh và phục hồi trong khi chỉ một nửa số các cú sốc xảy ra với các nước EU được điều chỉnh trong vòng 2 năm, còn lại phải mất nhiều thời gian hơn. Các nước ASEAN cũng cho thấy có mức độ trùng hợp về chu kỳ kinh tế cao hơn các nước EU. Còn đứng trên phương diện thực tế, một sự so sánh giữa các giai đoạn phát triển của EU và ASEAN, như trên đã phân tích, cũng cho thấy rằng các nước ASEAN hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để tạo dựng một liên minh tiền tệ. Tuy nhiên, con đường để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ rất nhiều khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước trong khu vực phải có những chính sách, biện pháp phù hợp và những bước đi cụ thể. ở thời điểm hiện tại, có thể dự kiến một lộ trình và một số biện pháp sơ bộ như sau.
II.2 Lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung ASEAN
Như phần trên đã phân tích, tiến trình liên kết kinh tế trải qua các giai đoạn từ khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, tất yếu sẽ phát triển lên thành một liên minh kinh tế và tiền tệ. Tuy nhiên, một quá trình như vậy đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của các nước thành viên và có thể kéo dài hàng chục năm. Trong trường hợp của Liên minh tiền tệ châu Âu, những gì các nước châu Âu làm được hôm nay đã là kết quả của hơn 40 năm củng cố và thúc đẩy
các mối liên kết kinh tế, tài chính, tiền tệ và thậm chí là cả chính trị. Với ASEAN, nếu để tiến trình liên kết kinh tế diễn ra một cách tự nhiên thì có thể phải mất một khoảng thời gian dài như hoặc thậm chí dài hơn châu Âu. Nhận thức được xu hướng khách quan và lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung sẽ giúp các nước ASEAN có được những bước đi phù hợp nhằm thúc đẩy sự ra đời của một đồng tiền chung cho khu vực.
2.1 Lợi ích ngăn ngừa, kiểm soát khủng hoảng của khu vực
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ASEAN 1997, việc tăng cường hợp tác giữa các nước ASEAN trong các vấn đề kinh tế đã trở thành một đề tài thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách. Tại cuộc họp các nước ASEAN tại Hà Nội ngày 15,16/12/1998, các nhà lãnh đạo ASEAN đều đồng tình với việc triển khai một dự án nghiên cứu tính khả thi của một đồng tiền chung và một hệ thống tỷ giá hối đoái chung cho ASEAN. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 tại Manila tháng 11/1999 đã chính thức thể hiện sự ủng hộ cho những nỗ lực hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN với nhau cũng như với 3 nước đối thoại trong ASEAN+3 là Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Trên thực tế, mối quan tâm đến vấn đề tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN là kết quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ASEAN
1997, trong đó có các điểm cần chú ý sau:
Điểm đầu tiên là sự lây lan nhanh chóng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997. Thực tế này nói lên rằng tất cả các nước trong khu vực đều không thể thờ ơ trước một cuộc khủng hoảng xảy ra ở một nước thành viên, vì những hậu quả nghiêm trọng của một cuộc khủng hoảng như vậy rất có thể lây lan từ nước này sang nước khác và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đây chính là điều khiến một nước trong khu vực quan tâm đến các chính sách kinh tế vĩ mô
mà các nước khác trong khu vực đưa ra và mong muốn đạt được một sự hợp tác nào đó trong lĩnh vực này.
Nguyên nhân thứ hai là do gần đây các nước ASEAN tăng tỷ lệ thương mại nội bộ và cũng do các sản phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên các thị trường thứ ba. Điều này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Do vậy, các nhà phân tích cho rằng thay vì phá giá để tăng khả năng cạnh tranh cho riêng hàng hoá nước mình, một cơ chế phối hợp tỷ giá hối đoái trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng hợp tác tốt hơn và đem lại lợi ích cho cả hai bên. Sự phối hợp chính sách tỷ giá hối đoái dần dần sẽ thúc đẩy nhu cầu phối hợp trong các lĩnh vực khác nữa, ví dụ như trong việc xây dựng các chính sách tiền tệ.
Một động cơ khác là nhu cầu tiếp cận với các nguồn vốn của các nước láng giềng trong trường hợp xảy ra các cuộc tấn công đầu cơ vào đồng tiền một nước thành viên. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ lực cung cấp không những chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia bị khủng hoảng. Kể từ sau cuộc khủng hoảng, một số nước ASEAN đã chuẩn bị để đối phó với các cuộc tấn công của giới đầu cơ trong tương lai bằng cách tích luỹ các nguồn dự trữ ngoại tệ lớn. Nhưng việc tích luỹ dự trữ như vậy là một việc làm rất tốn kém và các nước ASEAN cho rằng tốt hơn là họ nên tiết kiệm các nguồn vốn đó bằng cách kết hợp các quỹ dự trữ của các nước trong khu vực với nhau.
Các nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á thường có cùng chung một kết luận là cuộc khủng hoảng đã bắt nguồn từ những yếu kém trong lĩnh vực tài chính và khu vực doanh nghiệp và các chương trình cải cách sau khủng hoảng nên tập trung vào các vấn đề trên. Với cùng một căn bệnh và
một phương thuốc mà trong một chừng mực nào đó, có nhiều điểm giống nhau như vậy thì sự hợp tác giữa các nước ASEAN trong lĩnh vực cải cách tài chính sẽ có lợi.
Cuối cùng, nếu các yếu tố nói trên đều góp phần làm tăng sự quan tâm đến việc tăng cường hợp tác tài chính và tiền tệ trong ASEAN thì thành công của châu Âu trong việc thiết lập một liên minh tiền tệ đã là một sự khích lệ to lớn. Kinh nghiệm của châu Âu không chỉ cho thấy rằng các nước có trình độ phát triển khác nhau trong lĩnh vực tiền tệ và tài chính có thể hợp tác thành công ở một trình độ cao, mà còn đưa ra một lộ trình để các nước ASEAN tham khảo trên con đường đạt đến mục tiêu đó.
2.2 Lợi ích ổn định tỷ giá hối đoái:
2.2.1 Có khả năng ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền dự trữ chủ yếu
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa và thực tế giữa các đồng tiền lớn - đôla Mỹ, yên Nhật, các đồng tiền châu Âu trong EMS (từ năm 1999 là đồng Euro) cả trong ngắn hạn và trong trung hạn. Tỷ giá giữa các đồng tiền chính biến động mạnh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (từ 1945 đến 1971). Trong trung hạn, tỷ giá cũng biến động mạnh như giai đoạn lên giá của đồng đôla Mỹ 1980-85, giai đoạn lên giá của đồng yên 1990-95 và giảm giá trong quãng thời gian tiếp sau.
Các nước công nghiệp lớn vẫn chủ trương thả nổi tỷ giá và hạn chế can thiệp trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ những lần căng thẳng và mất cân đối cao độ đe dọa trực tiếp triển vọng kinh tế nước họ.
Việc cố định tỷ giá giữa ba đồng tiền chính đôla, yên và euro rất khó thực hiện vì hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất: nó đòi hỏi chính sách tiền tệ của các nước này phải hướng đến yêu cầu ổn định tỷ giá nên rất dễ mâu thuẫn với các mục tiêu trong nước, trong đó có mục tiêu ổn định giá cả nội địa. Sự ra đời của đồng Euro tháng 1/1999 đem
đến hy vọng về một trật tự tiền tệ ổn định hơn. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu tập trung chủ yếu vào ổn định giá cả khu vực đồng Euro, không phải là tỷ giá hối đoái. Trong nhiều trường hợp, biến động tỷ giá giữa các đồng tiền chính phản ánh chu kỳ kinh tế của các nước này không giống nhất và chính sách tiền tệ không đồng nhất.
Thứ hai: các khu vực tiền tệ chính này không đáp ứng được các tiêu chuẩn để lập nên một vùng tiền tệ tối ưu. Hơn nữa, không có cam kết chính trị và kỷ luật đa phương (như của khu vực đồng tiền chung euro) thì mọi nỗ lực cố định tỷ giá giữa ba đồng tiền sẽ thiếu độ tin cậy và có thể bị thị trường phá vỡ.
Tác động tiêu cực đến bản thân các nước có đồng tiền dự trữ chính (G3) ít hơn (so với các nước đang phát triển) do họ có nền kinh tế lớn, lại ít phụ thuộc hơn vào thương mại quốc tế. Rủi ro tỷ giá đối với các chủ thể kinh tế ở những nước này cũng hạn chế vì họ có thể đi vay và cho vay bằng đồng nội địa. Khi những cải cách cơ chế tỷ giá G-3 còn đang để ngỏ, thì dao động thất thường giữa chúng tiếp tục gây tổn hại đến các nước đang phát triển, nhất là các nước phụ thuộc nhiều vào ngoại thương và mở cửa tài chính.
Tóm lại, có rất nhiều khó khăn cho các nước đang phát triển trong việc tìm giải pháp đơn phương để kiểm soát thị trường tiền tệ và ngăn ngừa khủng hoảng tài chính bởi vì vẫn chưa có các thỏa thuận quốc tế để thiết lập hệ thống tỷ giá ổn định. Một vấn đề đặt ra là: liệu các cơ chế khu vực có thể giải quyết được khó khăn này không? Các nước Đông Nam Á giờ đây đã chú ý nhiều hơn đến khu vực hóa, đó cũng là giải pháp và đồng thời cũng là lợi ích mang đến một cơ chế phòng hộ tập thể trước những bất ổn hệ thống khi hình thành một đồng tiền chung của khu vực .
2.2.2 Khắc phục được những hạn chế của cơ chế thả nổi và neo giá cố định.
Bài học từ khủng hoảng 1997/1998 cho hay cả cơ chế trung gian và cơ chế tuyệt đối đều không phải là giải pháp tốt nhất cho các thị trường đang nổi và các nền kinh tế đang chuyển đổi, nếu không có chính sách hỗ trợ phù hợp.
a. Khắc phục hạn chế của việc neo giá cố định với đồng đôla.
Giữa những năm 80, nhiều nền kinh tế thị trường đang nổi bắt đầu chuyển sang các cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn. Song, một số nước lớn ở châu Á vẫn duy trì neo tỷ giá danh nghĩa với đôla. Có hai lý do lựa chọn cơ chế này: thứ nhất là để đảm bảo ổn định giá cả, và thứ hai là để thu hút vốn nước ngoài (dưới các hình thức nợ ngân hàng, đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài) với phí suất thấp hơn. Cố định tỷ giá có tác động tích cực đến việc giảm chênh lệch lãi suất (đi vay và cho vay) theo hai khía cạnh: giảm kỳ vọng về lạm phát và duy trì niềm tin của các nhà hoạt động thị trường, do vậy giảm rủi ro tổng thể của đầu tư tại nước đó.
Tuy nhiên, cố định tỷ giá với đôla dẫn đến mất tính cạnh tranh của nhiều nước Đông Á sau năm 1995, khi đồng đôla bắt đầu lên giá so với các ngoại tệ mạnh khác. Lựa chọn đồng đôla để neo giá cố định chỉ thích hợp đối với các nền kinh tế mở và nhỏ, đáp ứng được tối thiểu hai điều kiện sau:
-Cơ cấu thương mại và đầu tư tập trung chủ yếu vào khu vực đồng đôla.
-Các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu cũng nằm trong khu vực đồng đôla.
Trong trường hợp này, tính cạnh tranh của đất nước có xu hướng ổn định trước dao động bất kỳ của đôla. Vì thế, chiến lược neo tỷ giá với đôla phù hợp với một số nước nhỏ ở Mỹ Latin hơn là các nước đang phát triển ở Đông Á. Kể từ tháng 1/1995 đến tháng 4/1997, tỷ giá danh nghĩa của đồng đôla tăng 25% so với đồng yên và 17% so với các đồng tiền châu Âu (tương đương với đồng euro sau này). Sự lên giá này đã ảnh hưởng nhiều đến các nước đang phát triển Đông Á do có thị trường xuất khẩu và các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu thuộc các vùng tiền tệ khác nhau. Vì neo theo đôla, các đồng tiền Đông Á cũng lên giá so với
các đồng tiền khác, hay bị đánh giá cao hơn ngang giá sức mua. Đồng tiền bị đánh giá quá cao làm gia tăng thâm hụt hạng mục vãng lai.
Hơn nữa, các chiến lược tỷ giá cố định còn làm tăng rủi ro hệ thống: tỷ giá danh nghĩa được cố định là một sự ngầm đảm bảo đối với các công ty trong nước và các nhà đầu tư quốc tế. Neo tỷ giá cố định với đôla làm tăng độ tin cậy trong cam kết của ngân hàng trung ương về việc duy trì sự ổn định đối ngoại của đồng nội tệ. Một mặt, vì thị trường tài chính trong nước còn kém phát triển nên các công ty trong nước tận dụng chênh lệch về hiệu suất giữa các tổ chức tài chính trong nước với nước ngoài để vay trực tiếp từ các ngân hàng nước ngoài bằng đôla Mỹ mà không bảo hiểm cho khoản vay. Mặt khác, do tin tưởng vào các cam kết ổn định tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài cũng cho vay tràn lan, nhất là kỳ hạn ngắn mà không kiểm tra đầy đủ rủi ro tổng thể cũng như độ tin cậy của người vay.
Cố định tỷ giá danh nghĩa với đôla Mỹ, kết hợp các chính sách bất hợp lý khác đã dẫn đến khủng hoảng và khiến nó lan rộng. Một số nước sau đó đã bỏ cơ chế neo tỷ giá với đôla , trong khi một số khác vẫn duy trì và thực hiện các biện pháp điều chỉnh thắt chặt để hạn chế sự vận động quá mức của các luồng vốn. Một đồng tiền chung cho khu vực tỏ ra có lợi ích hơn nhiều so với những cách làm kể trên .
b.Khắc phục hạn chế của cơ chế "hội đồng tiền tệ".
Các thỏa thuận hội đồng tiền tệ là hình thức chặt chẽ nhất của cơ chế cố định tỷ giá. Một hội đồng tiền tệ cam kết cung cấp hay hoàn trả các nghĩa vụ nợ ở tỷ giá cố định, nghĩa là nó phải nắm giữ dự trữ ngoại hối ít nhất là bằng tổng nghĩa vụ nợ đó. Cơ chế này bãi bỏ ngân hàng trung ương do vậy từ bỏ quyền điều hành chính sách tiền tệ và chức năng người cho vay cuối cùng.
Một số nền kinh tế đang phát triển đã chấp nhận thỏa thuận hội đồng tiền tệ
với đôla Mỹ. Với những ràng buộc về thiết chế, các nước này hy vọng sẽ tăng
được độ tín nhiệm của mình. Nhưng cần nhấn mạnh rằng việc từ bỏ chủ quyền tiền tệ trong nước sẽ có nhiều kiềm chế đối với nền kinh tế. Neo tỷ giá cứng không cách ly nền kinh tế khỏi những cú sốc tài chính và cú sốc thực từ bên ngoài. Việc bảo vệ tỷ giá cố định sẽ dẫn đến giảm sản lượng và việc làm trừ phi nước có đồng tiền được neo tỷ giá cũng trải qua những cú sốc tương tự và có biện pháp chống sốc tương tự. Tính linh hoạt trong nước cao, nhất là trên thị trường lao động, là một điều kiện tiên quyết để đảm bảo điều chỉnh giá cả tương đối và có thể đối phó thành công với những cú sốc từ bên ngoài. Hơn nữa, vì không có người cho vay cuối cùng dẫn đến phải kiểm soát chặt khu vực tài chính để duy trì sự ổn định tài chính. Hội đồng tiền tệ đòi hỏi phải có sự quản lý thận trọng các chính sách cơ cấu và chính sách kinh tế.
Cơ chế này được xem là thích hợp với những nước có lịch sử rối loạn tiền tệ, lạm phát tăng nhanh và không có kỷ luật tài chính. Tuy nhiên, thành công của một số hội đồng tiền tệ gắn với một số đặc trưng sau: quy mô kinh tế tương đối nhỏ, dự trữ ngoại hối đáng kể và quản lý linh hoạt thỏa thuận hội đồng tiền tệ.
Cho dù đáng tin cậy nhưng các thỏa thuận tiền tệ không đảm bảo hoàn toàn chống lại được đầu cơ. Nhìn chung, chưa có bằng chứng lý thuyết nào chứng minh sức mạnh của hội đồng tiền tệ. Cuộc khủng hoảng năm 1998 cho thấy hội đồng tiền tệ vẫn tạo ra các chiến lược đầu cơ trên thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối.
c. Khắc phục hạn chế của cơ chế tỷ giá thả nổi tự do.
Trước khủng hoảng châu Á, chuyển sang cơ chế thả nổi tự do là lựa chọn của nhiều nước. Về mặt lý thuyết, thả nổi tự do có những thuận lợi nhất định. Trước hết, biến động tỷ giá danh nghĩa là một cách giảm các cú sốc từ bên ngoài mà không ảnh hưởng đến các biến số thực như tăng trưởng và việc làm. Thứ hai, nó bảo vệ quyền tự chủ hoàn toàn đối với chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, điểm bất lợi của cơ chế này là dao động mạnh hơn và rủi ro trong các chiến lược tự do.
Một đặc điểm của thị trường ngoại hối là phản ứng của những người tham gia thị trường trước các thông tin kinh tế vĩ mô thường sai lệch. Các bằng chứng thực tế cũng cho thấy dao động tỷ giá danh nghĩa thường vượt quá độ cần thiết để điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Hơn nữa, tính nhạy cảm của thị trường ngoại hối đôi khi bị chi phối bởi niềm tin không có cơ sở của những người tham gia thị trường và những hành vi theo số đông, vì thế khiến tỷ giá dao động quá nhiều.
Biến động tỷ giá dưới cơ chế thả nổi tự do gây nhiều bất lợi cho các nước đang phát triển. So với các nước công nghiệp lớn thì những nền kinh tế thị trường đang nổi phụ thuộc nhiều hơn vào ngoại thương, chủ yếu định giá bằng ngoại tệ. Tính trung bình tỉ trọng thương mại quốc tế trong tổng sản phẩm quốc nội của các nước đang phát triển cao gấp đôi của Mỹ, EU hay Nhật Bản. Do vậy tác động của những biến động tỷ giá lên các điều kiện kinh tế trong nước (như giá cả, sản xuất và việc làm) cũng lớn hơn. Hơn nữa, những nước này có nợ nước ngoài ròng cao hơn, phần lớn được định giá bằng ngoại tệ. Thay đổi mạnh trong tỷ giá hối đoái gây ra nhiều khó khăn trong tính thanh khoản, khả năng trả
nợ ...
Như vậy, chiến lược tỷ giá hối đoái phải được xác định nhất quán với chiến lược tài chính đối ngoại nhằm tận dụng tốt nhất các cơ hội tăng trưởng và phát triển với rủi ro thấp nhất. Các nước nên chọn độ mở cửa tài chính tương ứng với cơ chế tỷ giá. Chẳng hạn, cơ chế thả nổi tự do đặt ra yêu cầu kiểm soát tạm thời đối với luồng vốn trong những trường hợp khẩn thiết, cố định tỷ giá lại đòi hỏi giám sát tài chính chặt chẽ hơn. Quyết định chiến lược tỷ giá phải hòa đồng với tự do hóa tài chính. Hai quyết định này đều phải xác định những mục tiêu dài hạn; các điều kiện và biện pháp để đạt được mục tiêu theo từng bước vững chắc.
Tóm lại, tăng cường phối hợp trong lĩnh vực tiền tệ giữa các nước ASEAN tiến tới một liên minh tiền tệ là một yêu cầu khách quan, và các nước trong khu vực đều nhận thức được rằng điều này sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho họ,
cho dù họ cũng sẽ phải có một sự hy sinh nhất định như mất đi quyền tự chủ trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu các nước ASEAN đã sẵn sàng cho một quá trình như thế hay chưa? Họ đã có những tiền đề gì và còn phải tiếp tục chuẩn bị những gì để giúp liên minh tiền tệ ASEAN sớm trở thành hiện thực.
II.3 Lộ trình của việc ra đời đồng tiền chung ASEAN
3.1 Dự kiến lộ trình chung
Từ kinh nghiệm của EU, có thể dự đoán rằng tiến trình thiết lập một liên minh tiền tệ của ASEAN nhìn chung cũng sẽ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8095.doc