Khóa luận Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh - Hải Phòng phục vụ cho việc phát triển du lịch

Tòa đại đình hàng kênh được kết cấu theo kiểu biếnthể của “ giá

chiêng – chồng rường – con thuận”. Giữa cật con rường thứ nhất là một đấu

vuông trên kê đấu dọc đội thượng lương. Con rường thứ nhất tỳ lực lên con

rường thứ hai qua đấu vuông thót đáy, hai đầu rườngđỡ đôi hoành thứ nhất.

con rường thứ hai được đỡ bởi một đôi trụ trốn. Trụtrốn đứng trên cật câu

đầu qua đấu vuông thót đáy. Từ thân trụ trốn một đôi con thuận vươn ra đỡ

đôi hoành thứ ba. Con thuận tỳ lực lên câu đầu qua một đấu vuông thót đáy.

Đỡ dạ câu đầu tại gian lòng thuyền là những đầu dư chạm khắc hình đầu rồng

ngậm nhọc mang phong cách Hậu Lê.

Vì nách tại gian lòng thuyền được liên kết theo kiểu “ cốn chồng

rường”, các con rường kê trên nhau qua các đấu vuông thót đáy, một đầu

rường ăn mộng vào thân cột cái, một đầu đỡ dép dọc bào soi vỏ măng. Một

chiếc bNy hiên chui qua cột quân tạo thành nghé bNyđỡ dạ xà nách, đầu bNy

vươn ra đỡ tầu mái. Trên cật của bNy là hệ thống ván nong được khoét lõm đỡ

các hoành mái thứ 10-11, đỡ dạ câu đầu tại các gianbên là những nghe kẻ

hiên. Kẻ hiên là một thân gỗ liền, ăn mộng qua cả cột cái và cột quân. Một

đầu kẻ vươn dài ra đỡ mái hiên. Trên cật kẻ là ván nong đỡ hoành mái. Thân

của kẻ cũng được chạm khắc, trang trí liền với ván nong, đề tài vân mây, tia

lửa.

Các xà thượng làm nhiệm vụ đỡ các cột cái, xà trung nối các cột quân.

Đỡ dạ xà thượng tại vị trí mỗi cột cái là hệ thống cốn nách chặm khắc hình

rồng ngậm ngọc tương tự như ở đầu dư. Từ thân xà trung là hệ thống then câu

chốt giữ tầu mái với xà trung. Các then câu này có tác dụng như những thanh

giằng để cho mái khỏi bị xô và tạo sự bền vững cho công trình.

pdf81 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2508 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh - Hải Phòng phục vụ cho việc phát triển du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, ở phía trước đình có hồ bán nguyệt – mang yếu tố âm. Đúng như theo quan niệm xưa âm-dương luôn cân bằng, hài hoà. Đình được xây dựng quay về hướng Tây. Các nhà phong thuỷ xưa đã chọn hướng Tây vì đây là hướng lý tưởng, hướng ánh sáng mặt trời đầy đủ, tinh thần sảng khoái. Có lẽ hướng tây là hướng “đắc địa” với thân thế, sự nghiệp anh hùng, vĩ đại của đức N gô Vương Quyền. Do vậy mà hầu như các nơi thờ N gô Vương ở Hải Phòng đều quay về hướng Tây (đình Kênh, đình Hàng) 2.2.2.2 Kiến trúc các công trình trong di tích * Bố cục mặt bằng tổng thể Từ đường N guyễn Công Chứ đi vào di tích đình hàng kênh là cổng lớn xây kiểu “nhất môn”, mái cổng cấu trúc chồng diêm, hai tầng tám mái. Các mái được lợp ngói mũi hài, tạo đao cong nối cuộn ở bốn góc. Các góc đao trng trí tổ hợp “rồng chầu phượng vũ”. Cổ diêm ngựời ta đắp nổi chữ hán đề tên di tích “N hân Thọ Đình”. Với ý nghĩa là : “N hân” là nhân ái, là lòng yêu thương giữa con người với nhau, “Thọ” là sự bền vững lâu dài. “nhân thọ” là tình thương, tình nhân ái giữa người với người sẽ tồn tại mãi mãi với thời gian. Trước trụ cổng trước và sau được đắp nổi câu đối kiểu chữ hán, có nội dung ca ngợi nơi đình thiêng và sự nghiệp của người anh hùng dân tộc – N gô Quyền. Qua cổng chúng ta sẽ gặp ngay một hồ nước bán nguyệt rộng lớn, nước hồ trong xanh, dịu mát. Hồ đình nằm thẳng theo đường thần đạo của bờ hồ đối diện chính với hồ là N ghi Môn( cổng đình) gồm: Chính môn, tả môn, hữu môn. “Chính môn” xây kiểu “cột đồng trụ” , đắp chỉ khung các câu đối chữ hán. Đầu cột trụ đắp theo kiểu đèn lồng, bốn mặt đèn lồng đắp phù điêu Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 32 Tứ linh ( long, ly, qui, phượng). Đỉnh cột trụ có hai con nghê ngồi trong tư thế trầu vào trông như soi dọi con người đến với đất thiêng. Bên phải và bên trái nghi môn cách một đoạn đường là cổng nhỏ: tả môn, hữu môn, kiểu mái 2 tầng, đao cong, tang trí đầu đao cuộn tròn hình vân cụm. Qua nghi môn vào trong sân đình. N ền đình được lát gạch bát tràng truyền thống. Kích thước sân đình gần như vuông, có chiều cạnh bằng kích thước chiều dài tòa đại bái. Xung quanh sân là hệ thống tường xây thấp, kiểu tường hoa. Tường xây bằng gạch thời Hậu Lê và thời N guyễn. Bên trái và bên phải đình nằm đối xứng nhau qua sân đình là hai nhà Tả Vu và Hữu Vu ( còn gọi là nhà Giải Vũ). N ằm sát tòa đại đình là nhà Văn Từ. Có thể nói các công trình kiến trúc xây dựng trong khuôn viên di tích được đặt dựng, bố trí ở các vị trí rất hợp lí, liên hoàn, có sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa với nhau. Các công trình chính hợp với nhau thành hình thế “hổ phù hàm nguyệt” – hình tượng của ước vọng, hạnh phúc, hòa bình của cư dân trồng lúa nước. *Giá trị kiến trúc Đình Hàng Kênh có bố cục không gian kiểu chữ “Công” ( I ), bao gồm các gian : đại đình, ống muống và hậu cung. N hững tinh hoa, giá trị về mặt nghệ thuật kiến trúc chủ yếu tập trung ở gian Đại Đình. - Đại Đình: là kiến trúc quan trọng nhất trong toàn thể kiến trúc đình + Hệ mái: nhìn từ phía ngoài và từ trên cao xuống ta thấy ngay hệ mái tòa đại đình được chia làm 4 mái. Hai mái hồi nhỏ hẹp, hai mái trước và sau rất rộng lớn. N hìn tổng thể mái đình như xà xuống mặt đất. Mái đình được lợp bằng ngói vảy rồng (ngói mũi hài loại lớn). Các góc đao mái được tạo dáng cong vút như nâng ngôi đình bay lên không trung. Bờ nóc và bờ dải, bờ guột được đắp trang trí hoa chanh – một nét kiến trúc đậm nét Hậu Lê. Đỉnh bờ nóc đắp “lưỡng long chầu nguyệt”, thể hiện ước mơ “mưa thuận gió hòa”, cuộc sống no ấm, hạnh phúc của cư dân nông Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 33 nghiệp lúa nước từ ngàn xưa, thể hiện sự yên bình nơi làng quê. Hai đầu bờ nóc đắp “ hồi long” – rồng quay đầu lại, ngậm bờ nóc. Trên điểm giao nhau giữa bờ dải và bờ guột có đắp hai con lân vuông góc. Một con ở tư thế đứng trên bờ guột trông xuống sân đình, một con ở trong tư thế chuNn bị chạy xuống giữa mái đình, trông rất sinh động. Đường bờ dải, bờ nóc vừa có tác dụng giữ cho mái ngói được chắc chắn, tránh cho ngói bị xô, bị xốc khi gió bão, lại vừa có tác dụng là nơi trang trí cho mái đình thêm sinh động. Bốn góc đao của đại đình đắp tổ hợp các linh vật theo thức đắp tượng tròn với đề tài “ Rồng chầu phượng mớn” khá tinh xảo và đẹp mắt. Trên các linh vật còn được trang trí gắn với mảnh gốm cổ nên linh vật trông rất lung linh, huyền ảo. + Kết cấu khung Tòa đại đình có chiều dài 32m, lòng nhà 13,2m. từ cửa vào hậu cung sâu 25,2m. Chiều cao từ thượng lương đến nền đình là 6,5m. Toàn bộ ngôi đình có 65 cột tròn, riêng tòa đại đình có 40 cột. Đó là những cột gỗ lim nguyên cây và được kê trên bệ đá xanh. Cột cái có chu vi là 2m; cao 5,1m; cột quân cao 3,37m; chu vi là 1,5m. Tòa nhà đại đình là một tòa nhà hình chữ nhật bao gồm 5 gian 2 chái. Việc xây dựng theo số gian lẻ là xuất phát từ quan niệm lâu đời của người Việt. Gian giữa đình Hàng Kênh là gian lòng thuyền( gian không có sàn đình), là gian trọng tâm của tòa đại đình, được lát gạch Bát Tràng. Phần diện tích còn lại của đình đều là hệ thống ván sàn. Sàn cao hơn so với nền đình là 80m, số gỗ làm ván sàn là 20m3. Đình hàng kênh với lịch sử lâu đời đã bảo lưu được hệ thống “ván sàn lòng thuyền”. Xét về mặt công năng sử dụng thì thức kiến trúc này đã tạo ra hai khu vực riêng biệt. Khu vực lòng thuyền dùng để lễ bái, thờ tự. Khu vực ván sàn dùng để hội họp, làm việc của các chức dịch trong làng. Hai khu vực không ảnh hưởng gì đến nhau mặc dù đều ở trong khu vực nội vi của đình. Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 34 Tòa đại đình hàng kênh được kết cấu theo kiểu biến thể của “ giá chiêng – chồng rường – con thuận”. Giữa cật con rường thứ nhất là một đấu vuông trên kê đấu dọc đội thượng lương. Con rường thứ nhất tỳ lực lên con rường thứ hai qua đấu vuông thót đáy, hai đầu rường đỡ đôi hoành thứ nhất. con rường thứ hai được đỡ bởi một đôi trụ trốn. Trụ trốn đứng trên cật câu đầu qua đấu vuông thót đáy. Từ thân trụ trốn một đôi con thuận vươn ra đỡ đôi hoành thứ ba. Con thuận tỳ lực lên câu đầu qua một đấu vuông thót đáy. Đỡ dạ câu đầu tại gian lòng thuyền là những đầu dư chạm khắc hình đầu rồng ngậm nhọc mang phong cách Hậu Lê. Vì nách tại gian lòng thuyền được liên kết theo kiểu “ cốn chồng rường”, các con rường kê trên nhau qua các đấu vuông thót đáy, một đầu rường ăn mộng vào thân cột cái, một đầu đỡ dép dọc bào soi vỏ măng. Một chiếc bNy hiên chui qua cột quân tạo thành nghé bNy đỡ dạ xà nách, đầu bNy vươn ra đỡ tầu mái. Trên cật của bNy là hệ thống ván nong được khoét lõm đỡ các hoành mái thứ 10-11, đỡ dạ câu đầu tại các gian bên là những nghe kẻ hiên. Kẻ hiên là một thân gỗ liền, ăn mộng qua cả cột cái và cột quân. Một đầu kẻ vươn dài ra đỡ mái hiên. Trên cật kẻ là ván nong đỡ hoành mái. Thân của kẻ cũng được chạm khắc, trang trí liền với ván nong, đề tài vân mây, tia lửa. Các xà thượng làm nhiệm vụ đỡ các cột cái, xà trung nối các cột quân. Đỡ dạ xà thượng tại vị trí mỗi cột cái là hệ thống cốn nách chặm khắc hình rồng ngậm ngọc tương tự như ở đầu dư. Từ thân xà trung là hệ thống then câu chốt giữ tầu mái với xà trung. Các then câu này có tác dụng như những thanh giằng để cho mái khỏi bị xô và tạo sự bền vững cho công trình. + Thành phần bao che Hai đầu hồi đại đình đựoc bưng kín bằng những tấm ván đố lụa. Hai mặt trước và sau đại đình là hàng cửa chấn song vuông chạy dài nối tiếp từ hàng cột này đến hàng cột kia. Phần dưới hàng cửa con song đến giáp nền Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 35 đình là bộ phận ván bưng, phiá ngoài được chạm bong kênh các đề tài rồng, mây, hoa lá, nét chạm tinh xảo. Đỡ các đầu đao góc mái là những trụ hình “L”, hay còn gọi là “bức chương góc”. Được xây bằng gạch Bát Tràng. N hững trụ này có tác dụng đỡ đầu đao mái và tôn vinh kiến trúc ngôi đình. Mặt trước đại đình, tại gian giữa( gian lòng thuyền) là hệ thống của bức bàn, có một cửa chính và 2 cửa phụ ở hai bên. Vào phía trong, giáp hai bên cửa chính là 2 hàng lan can con song ô vuông. Hàng lan can này cao hơn nền đình khoảng 1,2 m. Trên cột trụ của lan can có chạm khắc các hình rồng. Bộ phận dưới lan can con song cũng chạm rồng hoặc chia từng ô nhỏ chạm hoa sen cách điệu hoặc lân cong mình chạy ngoái đầu lại, cùng các họa tiết miêu tả rong biển, hoa lá đặc trưng vùng biển. Hai chái hồi tòa đại đình đặt ban thờ Tả Ban (thờ mẫu), hữu ban ( thờ N am Tào, Bắc đNu). Trước hai gian thờ đó là hệ thống chấp kích, đồ thờ quí cùng bài vị của vị thần được thờ. *Tòa ống muống Là gian nối giữa đại đình và hậu cung. Hai bên tòa ống muống là những vách ngăn kiểu ván đố lụa, nền được lát gạch như ở gian lòng thuyền tòa đại đình. Chỉ có phần lối đi vào hậu cung giáp tường ngăn là có ván sàn gỗ. Kết cấu vì kèo tòa ống muống cũng tương tự kết cấu vì kèo tòa đại đình. Tòa ống muống hiện còn bức đại tự lớn “N hân Thọ Đình” như xác định tên gọi chính thức của ngôi đình. Tại đây cũng có một khám gỗ, trong đặt bài vị thờ N gô Quyền. N gày thường dân làng thờ cúng N gô Quyền trước khám ở tòa ống muống coi như hình thức “Lễ vọng”. * Hậu cung Bộ vì kèo tòa hậu cung kết cấu theo kiểu “chồng rường”, vì nách kết cấu theo kiểu “chồng rường trụ trốn” và không trang trí. Xung quanh hậu cung được bưng kín bằng những ván gỗ. Chính giữa hậu cung đặt một sập gỗ, Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 36 trên sập là khám thờ, tượng N gô Quyền đặt trong khám. N goài ra trước khám thờ còn đặt nhiều đồ vật quý: chấp kích, tượng hạc, tượng phượng bằng đồng...Hậu cung là khu vực linh thiêng nhất của ngôi đình và được coi là “nguồn thiêng” của ngôi đình. 2.2.3. Kghệ thuật điêu khắc, trang trí Trang trí, điêu khắc ở đình Hàng Kênh đã đạt đến độ chau chuốt, tinh xảo, phản ánh được phong cách, nghệ thuật đương thời. Qua các mảng chạm khắc còn lại ở đình, ngoài một số mảng chạm mang phong cách nghệ thuật thời N guyễn (bức cửa võng), còn lại phần lớn những mảng chạm thể hiện nghệ thuật thời Hậu Lê. Đề tài chủ đạo trong các trang trí, kiến trúc ở đây chủ yếu là đề tài Rồng. Rồng ở đây cũng mang hai phong cách cơ bản: phong cách nghệ thuật Hậu Lê (thế kỷ XVIII) và phong cách nghệ thuật N guyễn (thế kỷ XIX). N goài đề tài rồng, các đề tài lân, phượng, hoa sen, vân mây, sóng nước rất phong phú, sinh động. 2.2.3.2. Đề tài Rồng Dân tộc Việt N am mang trong mình truyền thuyết về rồng từ rất sớm, người Việt ta coi rồng là biểu tượng cao đẹp nhất và luôn tự hào về nguồn gốc dân tộc là “con rồng cháu tiên”. N hư mọi công trình kiến trúc tôn giáo của người Việt, rồng là đề tài chủ đạo, chiếm số lượng lớn trong tất cả các bộ phận trang trí ở đình Hàng Kênh. Rồng tượng trưng cho sức mạnh, ước muốn vươn lên, rồng tượng trưng cho vương quyền và thần quyền. Chủ đề “rồng mây” gắn với “mưa thuận gió hòa”, mùa màng tốt tươi của cư dân nông nghiệp. Lịch sử dân tộc ta có thời kì trải qua gần 1000 Bắc thuộc. Hình tượng con rồng đã bị phôi pha, cho đến khi giành được tự chủ thì hình ảnh con rồng đã trở lại với giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, trải qua các triều đại phong Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 37 kiến thì hình tượng rồng cũng có nhiều sự thay đổi. N guồn gốc của sự thay đổi này là “tiếp biến văn hóa Trung Hoa”. *Rồng mang phong cách nghệ thuật Hậu Lê Các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hình tượng rồng thời Lê, Mạc (thế kỷ XVII – XVIII) đã nhận thấy những qui định cụ thể sau : mắt quỷ, miệng sói, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, thân rắn, vNy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng, đao mắt bay ra phía trước. Tại đình Hàng Kênh, rồng mang phong cách Hậu Lê được trang trí chủ yếu tại các bức cốn gian giữa đại đình, đầu dư, ván ngạch phía trước cửa sổ chấn song ô vuông. Rồng được chạm nổi bong kênh rất độc đáo, tinh xảo. rồng trên các bức cốn thường là “rồng ổ”, với các tư thế “lưỡng long tranh châu”, “long vân khánh hội”. Chính giữa bức cốn là đầu rồng được chạm theo kiểu “hổ phù”. Hai đao mắt bay ra hai bên và được nâng bởi hai chân trước của rồng. xung quanh mặt hổ phù đó là những con rồng đang uốn lượn, có con đang Nn trong mây, có con như đang ngoái đầu lại phía sau. Rồng có thân uốn khúc mềm mại như thân rắn, đuôi thẳng, sừng nhỏ và nhọn, đuôi mác thẳng và nhọn xuôi về phía sau, chân có 5 ngón, râu vươn dài, chùm qua khuỷu chân trước. Tại phần ván ngạch phía ngoài gian đại đình là những hình rồng được chạm bonh kênh với nhiều kiểu dáng khác nhau. Có con là “đầu rồng thân cá” (cá hóa rồng), có con kiểu “yên ngựa”. Rồng thường trong tư thế đơn lẻ hoặc từng đôi chầu mặt hổ phù. Thân rồng chắc khỏe, mắt tròn lồi, mũi thú, miệng loe rộng, mắt nhìn ngang hoặc quay hai phần ba ra ngoài, miệng ngậm ngọc, đuôi rồng múp và thẳng, điểm xuyết quanh thân rồng là những cụm vân mây trông rất sinh động. * Rồng mang phong cách Rguyễn Rồng mang phong cách N guyễn có nhiều trên các đồ thờ (kiệu, khám), trên các bức cửa võng tại gian lòng thuyền, trên bờ nóc đại đình. Với những Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 38 đặc điểm như : thân mập, uốn lượn mềm mại, đầu rồng dữ tợn, trán dô, trên trán có một cặp sừng nhỏ và ngạch, hàm mở rộng, hai đao mắt xoắn lại. Dọc sống lưng là những chiếc vây đều, nhỏ như những tia lửa, kéo dài tới tận đuôi. Đuôi rồng không thẳng như rồng Hậu Lê mà xoắn tròn lại. Tại chính giữa bờ nóc đại đình được đắp nổi hình “Lưỡng long chầu nguyệt”. N guyên liệu là vôi vữa, thân rồng được ghép bởi các mảnh sành. Đuôi rồng xoắn tròn và có ba túm lông, vây rồng đều, trải dài suốt toàn thân và cứ một tia dài lại xen một tia ngắn. Mắt rồng dẹp, mũi sư tử, trán dô, miệng ngậm một viên ngọc lớn. Việc xuất hiện những con rồng trên bờ nóc đã trở lên khá phổ biến trong các ngôi đình, chùa của người Việt từ nửa sau thế kỷ XIX. Đây cũng là giai đoạn ra đời và phát triển mạnh của các vật liệu xây dựng : gạch, vôi, vữa, xi măng đang dần thay thế nguyên liệu gỗ cổ truyền. * Các đề tài khác N goài đề tài rồng, rất nhiều đề tài : lân, phượng, hoa dây, sóng nước...cũng đã được các nghệ nhân xưa thể hiện và tạo ra sự phong phú trong nghệ thuật trang trí ở đình Hàng Kênh. - Đề tài Lân: Lân là con vật vũ trụ, theo quan niệm xưa lân thương xuất hiện cùng thánh xuống trần “ cứu nhân độ thế”. Lân là biểu tượng của bầu trời, sức mạnh, trí tuệ. Từ thế kỷ XVIII-XIX lân xuất hiện nhiều trong các công trình kiến trúc, tôn giáo. Trên bờ mái đại đình Hàng Kênh có đắp hai con lân vuông góc với nhau. Một con đang trong tư thế lao xuống sân đình, Lân có đầu như sư tử, mình nai, vây lưng là những đao mác nhọn dần và đều nhau. Đôi lân này được đắp bằng vôi vữa và thân mình được đắp bằng mảnh sành và có cùng niên đại với đôi rồng trên bờ nóc. - Đề tài Phượng : phượng là con chim thiêng, tượng trưng cho ước vọng vươn cao của người dân. Phượng có dáng mỏ vẹt, đầu tròn, đình Hàng Kênh, phượng có trên các bức cốn gian giữa xen cùng với rồng. Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 39 Xen kẽ các đề tài rồng, phượng, lân là hình sóng nước, mặt trời, vân mây, hoa dây..như một sự kết hợp hài hòa, tự nhiên. Tất cả chúng đều được tạo lên bởi sự khéo léo của các nghệ nhân đương thời. Các đề tài chạm khắc, trang trí không chỉ có giá trị cao về mặt nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử trong việc xác định niên đại tương đối các di vật mà nó góp phần biểu đạt. Đình Hàng Kênh có bố cục kiểu chữ Công ( I ) với ba phần : đại đình, ống muống, hậu cung. Mỗi phần đều có các đặc trưng về kiến trúc và công năng sử dụng riêng. Giá trị kiến trúc nghệ thuật được tập trung ở tòa đại đình. N guyên liệu chính dựng đình là gỗ lim to, cao làm khung chịu lực. hơn thế nữa, các mảng trang trí lại vô cùng sống động, hài hòa đã tạo nên những đặc trưng riêng của đình. Cả tòa nhà đồ sộ với diện tích mái rất lớn nhưng không tạo cho ta cảm giác nặng nề. chính những đầu đao cong vút, với hình tượng những con rồng đang bay lên đã tạo cho ngôi đình sự thanh thoát, nhẹ nhàng. Đình Hàng Kênh là một trong rất ít đình ở nước ta còn sàn gỗ. Sàn gỗ với công năng sử dụng riêng của nó đã giúp những nhà nghiên cứu hiểu thêm về bước phát triển của đình làng Việt. N ghệ thuật trang trí của đình Hàng Kênh chủ yếu tập trung ở đại đình, với khoảng 500 mảng điêu khắc, trang trí thuộc giai đoạn Hậu Lê và N guyễn đã chứng tỏ sự hài hòa, khéo léo của các nghệ nhân đương thời. N hững mảng chạm ở đây được thể hiện dưới một thể thức nghiêm túc, rất hiếm thấy các mảng chạm thể hiện cảnh sinh hoạt dân gian. Linh vật Rồng chiếm số lượng lớn trong các bộ phận trang trí. Toàn bộ đình có tới 400 con rồng, nhưng đặc biệt không có con nào lẻ loi, đơn độc mà chúng luôn gắn bó với nhau thành “rồng đàn”, “rồng ổ”. Quần tụ bên nhau trong một bầy có trật tự, qua đó thể hiện cộng đồng cùng nguồn cội “con rồng cháu tiên” cùng gắn bó với nhau để sinh tồn. Hình tượng “rồng mây” thể hiện ước vọng “mưa thuận gió hòa” của cư dân nông nghiệp. Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 40 Về kỹ thuật chạm ở đây, ta thấy một thể khối hoàn chỉnh, biểu tượng chắc khỏe, đường nét tinh xảo. Với những lối chạm, thường theo cách chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng. Các nghệ nhân đã tạo nên những mảng chạm có chiều sâu, cho ta cảm giác nhìn được cả ba chiều. có mảng chạm sâu đến 5 lớp: lớp ngoài là mặt mũi, môi, răng; lớp hai là râu tóc; lớp ba là tứ chi; lớp bốn là thân; lớp năm là nền. Hầu hết các mảng chạm đều thuộc mô típ chạm khắc thời Hậu Lê (thế kỷ XVIII) và N guyễn (thế kỷ XIX). 2.2.4. Đồ thờ, di vật có giá trị Đình Hàng Kênh ngoài giá trị về kiến trúc, trang trí đình còn có những giá trị về lịch sử văn hóa nghệ thuật qua hệ thống đồ thờ được bài trí trong đình như : tượng chân dung N gô Quyền, tượng Phỗng, khám thờ, tượng con vật, tượng hạc. Toàn bộ đình có gần 300 di vật, cổ vật có niên đại từ thế kỷ XVIII như: trống, bia đá, kiệu bát cống, đại tự, câu đối. 2.2.4.1 Đồ thờ * Tượng chân dung Rgô Quyền Tại đình Hàng Kênh hiện có hai pho tượng chân dung N gô Quyền. Một pho đặt trong khám thờ ở tòa ống muống, được dùng cho việc cúng tế hàng ngày, coi như một sự “ lễ vọng”. Còn một pho đặt trong long khám ở hậu cung là pho tượng chính và chỉ đên dịp lễ hội thì hậu cung mới được mở cho các bô lão, chức sắc trong làng vào dâng hương tại đây. Cả hai pho tượng này đều giống nhau về kiểu dáng và nghệ thuật tạo tác, nhưng pho tượng đặt trong hậu cung có kích thước lớn hơn. N iên đại pho tượng khoảng thế kỷ XIX. Đây là những tác phNm nghệ thuật của người xưa để lại mà khó có ngôi đình nào ở Hải Phòng có được. Tượng tạc trong tư thế đế vương ngự trên ngai vàng trong các buổi thiết triều. Thần tượng ngồi trong long ngai, đặt trong long khám. N ghệ nhân đã tạc lên một vị thiên tử chạc 50 tuổi, khuôn mặt vuông chữ điền trông rất uy nghi lẫm liệt. Toát lên sức sống mãnh liệt, vẻ tinh anh, tư chất thông minh Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 41 của bậc chính nhân quân tử nhưng lại gần gũi với đời thường. Thần tượng mặc long cổn, đội mũ cánh chuồn. Trên long cổn, chạm nổi đề tài “hổ phù long vân”, trên mũ chạm nổi đề tài “Lưỡng long chầu nguyệt”, điểm xuyết “Cúc mãn khai”. Trước ngai để mô hình một loại thuyền chiến nhỏ, ngoài ra còn có: cơi trầu, bát nước, bộ chén trà, hai bên bày bộ chấp kích loại nhỏ, một bộ rượu gồm 3 mâm và 3 chén để trong 6 đài gỗ, ngoài cùng hai bên đều là tượng phỗng. * Tượng phỗng Theo lịch sử thì vào thời Lý (thế kỷ XI – XIII) các vị vua Đại Việt đã nhiều lần đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Khi chiến thắng, quân Đại Việt đã bắt nhiều tù binh người Chàm, đưa về làm nô lệ trong các cung, phủ, trang, ấp. Hình ảnh phỗng tượng trưng cho nô lệ người Chàm. Tới thế kỷ XVII_XVIII, xã hội phong kiến Việt N am bước vào giai đoạn suy vong, loạn lạc. Các thế lực đều muốn tranh đoạt quyền vị, phô trương thanh thế của mình. Giai đoạn này người ta bắt đầu đưa phỗng vào các điện thờ, đình, chùa và đặt trước các ông vua, các vị thần được thờ như muốn thông qua việc tôn sùng triều đình ( đại diện là nhà vua). Phỗng vừa có tác dụng qui phục vừa có tác dụng răn đe. Đình Hàng Kênh hiện còn hai tượng phỗng đặt đối xứng với nhau trước khám thờ ở hậu cung. Pho bên trái tạc trong tư thế tay nâng chén, pho bên phải hai tay nâng mâm rượu. Cả hai pho tương đều đựơc tạc trong tư thế quì chầu, bụng phệ và để trần, khuôn mặt ngộ nghĩnh, mặt tươi cười, sống mũi cao, mắt sâu mở to, gò má nhô cao. N ói chung khuôn mặt hoàn toàn khác với khuôn mặt của người Việt. * Khám thờ : Tại đình Hàng Kênh hiện còn lưu giữ 2 khám thờ : một ở hậu cung, một ở toà ống muống. Trong mỗi khám thờ đều có tượng N gô Quyền ngự trên long ngai. Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 42 Khám thờ ở toà ống muống là một khối hộp vuông, bốn phía thân khám để trống, có thể nhìn thấy tượng N gô Quyền ở trong. Kích thước dài 108cm, rộng 96cm,cao 107cm. Phần cửa võng trên thân khám và phần cột đều được trang trí những hình “lưỡng long chầu nguyệt”, dải mây, hoa leo...toàn bộ khám được sơn son thiếp vàng và được đặt trên một sập gỗ làm theo kiểu “chân quì dạ cá”. Đề tài trang trí ở sập là các hình rồng, hoa lá cách điệu. sập có chiều dài 2,12m; rộng 1,80m; cao 60cm. *Tượng con vật Khi nghiên cứu các di tích tôn giáo: đình, đền, chùa, miếu có niên đại từ thế kỉ thứ XVII-XIX, các nhà nghiên cứu đã bắt gặp nhiều tượng các con vật: voi, ngựa, hạc..bên cạnh chân dung tượng phật. có những tượng mang tính truyền thuyết tôn giáo “rùa đội hạc”, nhưng có tượng mang tính thực tế, đời thường: voi, ngựa... và chúng đều được bài trí theo cặp đôi, đăng đối qua trục bàn thờ. Đình Hàng Kênh là một di tích có hệ thống tượng thờ đáng kể bên cạnh hệ thống đồ thờ tự khác. - Tượng voi, ngựa N guyên liệu tạo dựng bằng gỗ, được tạo đứng trên bánh xe đNy, để tạo sự di chuyển dễ dàng(đặc biệt trong các cuộc rước tế tại lễ hội). Hai bên trục dọc xe đNy được đẽo tạo hình rồng cách điệu. Tượng ngựa sơn màu trắng, tưọng voi sơn màu đen. Kích thước 2 con vật này to như thật và được đặt chầu vào gian giữa đại đình. N iên đại của đôi tượng này khoảng thế kỷ XIX. Trong mỗi di tích việc thờ voi, ngựa mang một ý nghĩa khác nhau. Trong một số chùa, voi là con vật cõng đức Phổ Hiền, voi là hiện thân của chân lý tuyệt đối của đạo phật. Trong một số đình, miếu (có thờ thánh) voi, ngựa thường gắn với biểu tượng quyền uy, gắn liền với thần linh có võ công. Đình Hàng Kênh thờ voi gỗ, ngựa gỗ với ý nghĩa tưởng nhớ tới chiến công vẻ vang của danh tướng N gô Quyền. Đó là những con vật trung thành, có công phò tá đức N gô Vương, góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng Bạch Đằng vang dội. Khai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch Sinh viên : N guyễn Thị Thoan - VH901 43 Voi gỗ, N gựa gỗ được tham gia vào rước tế thành hoàng N gô Quyền trong mỗi kì lễ hội. - Tượng hạc Tại đình Hàng Kênh có ba đôi hạc( một đôi bằng đồng, hai đôi bằng gỗ), đặt tại toà ống muống và hậu cung. Các đôi hạc này đều được bài trí đăng đối qua khám thờ N gô Quyền. Cũng như phượng, hạc là một con vật thiêng, tượng trưng cho tầng trên, cho sự thanh thoát. Đối với đình Hàng Kênh, sự có mặt của tượng động vật không chỉ mang lại vị trí trang nghiêm mà trong một phạm vi nào đó tạo ra sự hoà hợp, hài hoà giữa thế giới phật và thế giới trần tục, tự nhiên, đời thường. N ghệ thuật tạc tượng thời này khá tinh tế, lấy tính khái quát cao làm chủ đạo, biểu đạt những chuNn mực của nghệ thuật tạo hình. 2.2.4.2. Di vật * Kiệu bát cống Kiệu là một đồ thờ tiêu biểu trong các đình chùa, đền, miếu. Ở nước ta, kiệu xuất hiện sớm nhất vào giữa thế kỷ XVII( chùa Bà Tề, Liên Hiệp, Đan Phượng, Hàt tây). Tới thế kỉ XIX, kiệu trở thành phổ biến với nhổng loại như: kiệu bát cống, kiệu thất cống, kiệu võng... Kiệu bát cống đình Hàng Kênh gồm 4 thanh đòn nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKhai thác giá trị văn hóa của đình Hàng Kênh –Hải Phòng phục vụ cho phát triển du lịch.pdf
Tài liệu liên quan