Khóa luận Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs của Đài Loan và giải pháp phát triển SMEs của Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 1

Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ 3

I. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3

1. Khái niệm 3

2. Tiêu chí xác định SMEs ở Đài Loan và một số nước. 4

2.1. Đài Loan 4

2.2. Nhật Bản 7

2.3. Khu vực ASEAN 8

2.4. Mỹ 8

2.5. Liên minh Châu Âu (EU). 9

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. 9

II. Đặc điểm chung và vai trò của SMES ở một số nước trên thế giới 11

1. Đặc điểm chung của các SMEs. 11

1.1. Ưu thế: 11

1.2. Hạn chế: 12

2. Vai trò của SMEs ở một số nước trên thế giới. 12

2.1. Vai trò của các SMEs ở Nhật Bản. 14

2.2. Vai trò của các SMEs trong nền kinh tế Mỹ. 17

2.3. Vai trò của các SMEs ở CHLB Đức 20

Chương 2: Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs tại Đài Loan 24

I. Quá trình phát triển của SMEs ở Đài Loan và nội dung hệ thống chính sách hỗ trợ. 24

1. Quá trình phát triển của các SMEs 24

1.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1952. 24

1.2. Giai đoạn từ 1953 đến năm 1962. 25

1.3. Giai đoạn từ 1963 đến năm 1972. 25

1.4. Giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1980. 27

1.5. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1997. 28

1.6. Giai đoạn từ năm 1998 đến nay 30

2. Nội dung các chính sách hỗ trợ phát triển SMEs của Đài Loan. 31

2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng. 32

2.2. Chính sách hỗ trợ về quản lý 34

2.3. Chính sách hỗ trợ công nghệ sản xuất: 36

2.4. Hỗ trợ về nghiên cứu và phát triển: 38

2.5. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế. 39

2.6. Giúp đỡ các SMEs thích ứng với hệ thống pháp lý, tham gia vào các công trình công cộng và hoạt động mua sắm của Chính phủ. 40

2.7. Kiểm soát ô nhiễm môi trường. 41

2.8. Trợ giúp lẫn nhau và hợp tác. 42

II. Thành tựu và kinh nghiệm phát triển SMES ở Đài Loan và định hướng phát triển giai đoạn 2001 đến 2010. 44

1. Những thành tựu đạt được của các SMEs 44

1.1. Về đặc điểm. 44

1.2. Thành tựu của các SMEs của Đài Loan. 47

2. Những kinh nghiệm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển SMEs của Đài Loan. 53

3. Định hướng phát triển SMEs của Đài Loan trong vòng 10 năm tới kể từ khi gia nhập WTO 55

3.1. Cải thiện môi trường kinh doanh cho các SMES 55

3.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các SMEs 56

3.3. Nguồn vốn vay từ phía Chính phủ được khai thác hiệu quả dành cho các SMEs. 57

3.4. Ngoài ra, các SMEs của Đài Loan còn được tham gia vào các chương trình phát triển chiến lược đặc biệt 57

Chương 3: Các giải pháp phát triển SMEs của Việt nam có liên hệ tới đài loan 59

I. Thực trạng của các SMEs ở Việt nam 59

1. Khái niệm và tiêu chí xác định SMEs ở Việt Nam. 59

1.1. Khái niệm. 59

1.2. Tiêu chí xác định SMEs. 59

2. Thực trạng các SMEs của Việt Nam. 61

2.1. Về số lượng cơ cấu theo ngành của SMEs 61

2.2. Vốn của các SMEs. 64

2.3. Công nghệ, thiết bị của các SMEs. 65

2.4. Lao động và đội ngũ lao động của các SMEs. 66

2.5. Môi trường thể chế ở Việt Nam. 67

II. Vai trò và sự cần thiết phải phát triển SMES ở Việt nam 71

1. Vai trò của SMES ở Việt Nam 71

1.1. SMEs có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế 71

1.2. SMEs góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người LĐ 72

1.3. SMEs góp phần làm năng động, linh hoạt và tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế. 73

1.4. SMEs thu hút được khá nhiều vốn trong dân cư. 73

1.5. Vai trò SMEs trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 73

1.6. SMEs góp phần đáng kể vào thực hiện đô thị hoá phi tập trung. 73

1.7. SMEs là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp. 74

2. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển các SMEs ở Việt Nam. 74

3. Phương hướng phát triển SMEs ở Việt Nam 75

3.1. Về ngành nghề: 75

3.2. Về sở hữu 75

3.3. Chú trọng phát triển SMEs ở các vùng nông thôn. 76

3.4. Phát triển các SMEs với công nghệ cao: 76

3.5. Thúc đẩy phát triển mối liên kết kinh tế giữa các SMEs với các doanh nghiệp lớn theo mô hình "Vệ tinh - Trung tâm". 76

III. Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ phát triển khu vực SMEs ở Việt Nam 77

1. Nhóm giải pháp về môi trường pháp lý và quản lý nhà nước. 77

1.1. Đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý. 77

1.2. Quản lý nhà nước đối với SMEs 77

1.3. Hình thành và phát triển các tổ chức hỗ trợ. 78

2. Nhóm giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô 80

2.1. Chính sách đất đai 80

2.2. Chính sách thuế 81

2.3. Chính sách thị trường 81

3. Nhóm giải pháp hỗ trợ tài chính cho SMEs 82

4. Nhóm giải pháp hỗ trợ về công nghệ và nguồn nhân lực. 86

4.1. Nâng cao trình độ công nghệ của SMEs 86

4.2. Giải pháp phát triển nhân lực hỗ trợ SMEs. 87

4.3. Tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ các SMEs trực tiếp đào tạo và sử dụng lao động 89

Kết Luận 91

 

doc95 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2003 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs của Đài Loan và giải pháp phát triển SMEs của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa các nhà máy trung tâm và vệ tinh, hỗ trợ việc thành lập hệ thống đảm bảo chất lượng toàn bộ trong toàn hệ thống và hỗ trợ việc hợp lý hoá chi phí sản xuất và đào tạo chuyên gia. Khuyến khích nâng cấp công nghệ: Bao gồm các biện pháp sau Giảm thuế nhập khẩu các phương tiện sản xuất hay công nghệ cho tự động hoá và miễn thuế nhập khẩu các máy móc thiết bị không sản xuất được trong nước. Tiền bản quyền công nghệ được miễn thuế thu nhập. Cho phép khấu hao nhanh các thiết bị dùng trong nghiên cứu và phát triển. Cho vay với lãi suất thấp để cải tiến công nghệ sản xuất. Được sự hỗ trợ, hướng dẫn và khuyến khích của Chính phủ, phần lớn các SMEs đã cải thiện chất lượng sản phẩm từ các sản phẩm công nghệ thấp lên sản phẩm công nghệ cao như thiết bị viễn thông, máy tính và các thiết bị ngoại vi, hàng điện tử tiêu dùng, bán dẫn, máy móc chính xác,... Với chất lượng tốt, các sản phẩm này đã có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Hỗ trợ về nghiên cứu và phát triển: Việc nâng cấp công nghệ có thể thực hiện thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, để công nghệ chuyển giao trở thành công nghệ của chính các SMEs, cần đầu tư lớn về vốn và nhân lực cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Do hạn chế về nhân lực và vốn của các SMEs, do những khó khăn phát sinh trong quá trình tiếp cận với các thông tin về công nghệ nên các SMEs có bộ phân nghiên cứu và triển khai không nhiều. Các SMEs thuộc ngành điện, điện tử, dược phẩm hoá chất, máy chính xác, bia, nguyên vật liệu cơ khí-hoá chất và giao thông vận tại có nhiều nỗ lực hơn trong nghiên cứu và triển khai so với các SMEs ở các ngành khác. Những nỗ lực trong nghiên cứu và triển khai có thể không phải lúc nào cũng cho kết quả tốt. Tuy nhiên, về dài hạn, nghiên cứu triển khai là một bước không thể bỏ qua đối việc nâng cấp công nghệ, gia tăng sản lượng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để khuyến khích các SMEs tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai, nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống trợ giúp và hướng dẫn các SMEs là giúp họ thực hiện nghiên cứu và triển khai các sản phẩm có công nghệ mới. Ngoài ra, cũng khuyến nghị quỹ phát triển các SMEs phân bổ vốn không chỉ để khuyến khích các SMEs cam kết đổi mới nghiên cứu, mà còn có những phần thưởng cho các SMEs cam kết nỗ lực lâu dài, liên tục trong việc đổi mới và nghiên cứu có kết quả. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã phân bổ ngân sách để lập các trung tâm nghiên cứu có liên quan đến các doanh nghiệp và các tổ chức chuyên nghiệp. Những trung tâm đó là trung nghiên cứu và kiểm tra ôtô, Trung tâm nghiên cứu và phát triển máy chính xác, Trung phát triển công nghệ cho ngành dược phẩm, Trung phát triển công nghệ chất dẻo, Trung tâm công nghệ ngành in, Trung tâm phát triển công nghệ thiết kế giày, Trung tâm phát triển vật liệu hoá dầu... Những trung tâm này đã góp phần hình thành một mạng lưới dịch vụ kỹ thuật toàn diện, cung cấp, hướng dẫn và chuyển giao công nghệ cần thiết cho các SMEs. Những ngành nhận được sự trợ giúp đã có tiến bộ vượt bậc bao gồm: cơ khí nông nghiệp, xử lý chất dẻo, dược phẩm, hoá chất đặc biệt, cao su, vật liệu tổng hợp, dệt, đồ điện gia dụng, giầy dép, vật liệu xây dựng, gạch men trang trí, Container cách nhiệt, chế biến thực phẩm, phụ tùng ôtô, xe đạp, ngành in và nguyên liệu hoá dầu. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế. Do quy mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiêu so với thị trường trong nước nên việc thiết lập và kiểm soát các kênh xuất khẩu đã trở thành một vấn đề rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Kênh xuất khẩu chủ yếu của các SMEs là những đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn trong nước và các khách hàng nước ngoài. Những doanh nghiệp không có ưu thế về hoạt động Marketing quốc tế thì cũng không có khả năng phân phối sản phẩm trên thị trường quốc tế. Để trợ giúp những SMEs trong việc xây dựng các kênh phân phối trên thị trường quốc tế, Chính phủ đã khuyến khích một cách tích cực việc tự do hoá và quốc tế hoá thị trường tài chính và đã thành lập Hội đồng phát triển Ngoại thương Trung Hoa (CETRA) để hình thành mạng lưới thông tin quốc tế giúp các SMEs tiếp cận tốt hơn những thông tin của thị trường quốc tế và nắm lấy những cơ hội kinh doanh. CETRA cũng thường xuyên tổ chức các loại hình triển lãm thương mại ở trong và ngoài nước để thu hút những khách hàng nước ngoài. CETRA cũng đã tổ chức những chuyến khảo sát nhằm mục đích thương mại trên toàn thế giới để xúc tiến bán những sản phẩm sản xuất tại Đài Loan cũng như thu thập những thông tin về kinh doanh và biên soạn những báo cáo về thị trường làm tài liệu tham khảo cho các nhà kinh doanh. Việc trợ giúp các SMEs đào tạo nhân viên làm công tác thương mại quốc tế và nâng cao hình ảnh của các sản phẩm đã trở thành những hoạt động chủ yếu của CETRA. Đồng thời, trong phân công lao động quốc tế, các SMEs của Đài Loan đã đóng vai trò của các nhà sản xuất lành nghề vì họ có thể đáp ứng tốt các hợp đồng thầu phụ quốc tế. Hệ thống các hợp đồng thầu phụ quốc tế này là một kênh chủ cho các nước phát triển khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, do các sản phẩm chế tạo qua hệ thống thầu phụ này được bán theo tên của các công ty đặt hàng và do không có chỗ đứng trên thị trường quốc tế cho nên mức giá trị gia tăng mà các SMEs thu được là rất ít. Do đó, biện pháp quan trọng để khắc phụ tình trạng này là dùng những khoản vay có lãi suất khuyến khích các SMEs tạo dựng nhãn hiệu của riêng họ và thành lập những trung tâm dịch vụ thương mại ở những khu vực quan trọng trên toàn thế giới để trợ giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường của họ ở nước ngoài. Biện pháp này có thể giúp cho các SMEs giải quyết những vấn đề về xuất khẩu, giành được nhiều lợi thế hơn trong việc tiếp thị và tăng lợi nhuận. Hiện nay, Đài Loan đã đặt các văn phòng đại diện, các phòng thương mại và các trung tâm dịch vụ thương mại ở Trung Đông, Châu Phi, Châu á, Châu Mỹ và Châu Âu để trợ giúp các SMEs thu thập các thông tin kinh doanh, thu xếp các cuộc gặp gỡ nhằm mục đích kinh doanh và đóng vai trò như các đầu mối tạm thời làm công tác tiếp thị. Tóm lại, việc tạo ra hệ thống và các kênh tiếp thị quốc tế cho các SMEs không thể đạt được trong một thời gian ngắn. Nó tuỳ thuộc vào những nỗ lực phấn đấu của các SMEs và việc tận dụng các nguồn lực của Chính phủ để dành lấy những vị trí thích hợp có khả năng sinh lợi trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Giúp đỡ các SMEs thích ứng với hệ thống pháp lý, tham gia vào các công trình công cộng và hoạt động mua sắm của Chính phủ. Để trợ giúp các SMEs xóa bỏ những trở ngại do hệ thống pháp luật gây ra, SMEA đã tiến hành các biện pháp để giúp các SMEs thích ứng với hệ thống luật pháp. SMEA yêu cầu các cơ quan nhà Quản lý nhà nước có liên quan chú ý đến đặc điểm của SMEs trong khi ban hành các văn bản liên quan tới các SMEs, tổ chức các cuộc hội thảo về các văn bản pháp luật áp dụng đối với các doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh hiện hành để thu thập ý kiến của các SMEs và các cơ quan liên quan, qua đó SMEA có thể nắm được các quy định của pháp luật đã lạc hậu; mời các học giả và những chuyên gia lập ra một nhóm nghiên cứu để thực hiện những nghiên cứu sâu hơn về các văn bản pháp luật hiện hành trong kinh doanh, sau đó đưa ra những kiến nghị sửa đổi để bảo vệ quyền lợi của các SMEs. Sau khi tiến hành những công việc trên đây, SMEA công khai những vấn đề sửa đổi đối với các văn bản pháp luật cụ thể và yêu cầu các cơ quan đó có trách nhiệm giải thích muc tiêu của hệ thống luật pháp đó. Hiện nay, các cơ quan của Chính phủ đang tiến hành những biện pháp để hạn chế các tác động xấu cuả các luật và quy định đến hoạt động của các SMEs nhằm làm cho môi trường pháp lý cho hoạt động của các SMEs hợp lý hơn và tạo ra mối quan hệ qua lại tốt giữa Chính phủ và các SMEs. Mục tiêu của việc trợ giúp các SMEs tham gia vào các dự án công cộng và hoạt động mua sắm của Chính phủ là để tạo ra cơ hội cạnh tranh công bằng cho các SMEs, thúc đẩy hoàn thiện hoạt động chuyên môn và nâng cao chất lượng hoạt của các SMEs. Nội dung của các biện pháp này bao gồm: Thuyết phục Chính quyền ở tất cả các cấp đưa ra các tiêu chuẩn và các hệ thống đăng ký đấu thầu cho các SMEs để đảm bảo chất lượng của dự án và chất lượng mua sắm cho Chính phủ. Khi cần thiết, các cơ quan hướng dẫn các SMEs có thể được yêu cầu giúp đỡ các SMEs cải tiến trình độ chuyên môn của họ để đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Cung cấp cho các SMEs những thông tin về các dự án công cộng và mua sắm của Chính phủ để họ tham khảo. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa các SMEs để tăng cường năng lực của từng SMEs, khuyến khích hoạt động liên kết trong quá trình thực hiện các công trình công cộng và mua sắm cuả Chính phủ. Thực hiện hoạt động bảo lãnh tín dụng và tài chính cần thiết cho các SMEs tham gia vào các dự án cộng và việc mua sắm của Chính phủ. Tiếp tục sửa đổi luật và các quy định có liên quan, tạo ra môi trường trong đó các SMEs bình đẳng về cơ hội trong việc tham gia vào dự án công cộng và mua sắm của Chính phủ. Kiểm soát ô nhiễm môi trường. Việc kiểm soát ô nhiễm công nghiệp đòi hỏi phải có công nghệ cao, tốn kém về tài chính gây khó khăn cho các SMEs. Chính phủ đã tiến hành những biện pháp để hạn chế phát triển các ngành gây ô nhiễm cao và bắt buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành toàn bộ việc lập kế hoạch và xử lý ô nhiễm trước khi đi vào hoạt động. Đối với các vùng bị ô nhiễm, biện pháp áp dụng là khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tái sinh các sản phẩm phụ để hạn chế các chất thải gây ô nhiễm. Ngoài ra, Chính phủ cũng trợ giúp các SMEs phát triển công nghệ kiểm soát ô nhiễm, miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị xử lý và chống ô nhiễm. Những ngành nhận được sự trợ giúp kể trên gồm có: ngành ôtô, vật liệu bán dẫn, mạ, nhuộm, giấy, da, nhôm, đồng, gạch lát, thực phẩm đông lạnh và sợi nhân tạo. Hơn nữa, Chính phủ đã tổ chức khoá đào tạo chuyên gia về xử lý và phòng chống ô nhiễm cũng như các khoá về hạn chế chất thải công nghiệp. Các tài liệu hướng dẫn cũng được soạn thảo và xuất bản để phổ biến kiến thức về lĩnh vực này. Trợ giúp lẫn nhau và hợp tác. Sự trợ giúp và hợp tác lẫn nhau sẽ tạo điệu kiện cho các SMEs bổ xung cho và do đó tăng cường được khả năng cạnh tranh, phát triển hơn nữa các cơ hội kinh doanh. Các biện pháp mà Chính phủ đưa ra để tăng cường sự hợp tác lẫn nhau giữa các SMEs bao gồm: Thành lập hệ thống trợ giúp và hợp tác giữa các SMEs bằng cách kết hợp các tổ chức trợ giúp lại, cùng nhau cố gắng xây dựng một hệ thống hợp tác giữa các SMEs. Mặt khác, đẩy mạnh việc thành lập các nhóm trao đổi hợp tác bao gồm các SMEs có cùng lợi ích. Đào tạo các chuyên gia tư vấn cho việc hợp tác giữa các SMEs thông qua việc Chính phủ đứng ra thành lập các khoá đào tạo các chuyên gia phục vụ cho mục đích này để làm tăng lợi ích của các SMEs khi họ cùng nhau hợp tác. Chính phủ cũng mời các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực hợp tác giữa các SMEs tham gia các buổi hội thảo nhằm giúp cho các SMEs học hỏi kinh nghiệm nước ngoài trong việc hợp tác giữa các SMEs. Ngoài ra, hoạt trao đổi, thông tin, tổ chức các buổi Xêmina cho các thành viên của nhóm để trao đổi những vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh và cùng tham gia vào các khoá học về quản lý cũng được chú trọng. Tóm lại, qua phân tích ở trên cho thấy chính sách hỗ trợ phát triển các SMEs của Đài Loan có tính thống nhất và bao trùm lên hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống chính sách này có lịch sử lâu dài và được hoàn thiện từng bước theo thời gian, đã tỏ rõ tính hữu hiệu của nó trong việc trợ giúp các doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt nổi lên ở đây là chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng, chính sách hỗ trợ về công nghệ và chính sách thị trường cho các SMEs. Ba chính sách này đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện và đã kích thích mạnh mẽ các doanh nghiệp phát triển vì nó đã giúp cho các doanh nghiệp này khắc phục hai điểm yếu cơ bản nhất là thiếu vốn và thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình phát triển kinh tế, tuỳ từng giai đoạn cụ thể, tuỳ vào đặc điểm của các doanh nghiệp và thực lực của Chính phủ mà Chính phủ lựa chọn và đưa ra các chính sách phù hợp nhằm giúp và khuyến khích các SMEs phát triển. Với điệu kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam hiện nay: các cơ sở sản xuất nhỏ, manh mún, trình độ công nghệ, quản lý của các doanh nghiệp lạc hậu, vốn đầu tư ít, chất lượng sản phẩm kém, thiếu thị trường tiêu thụ...thì các chính sách hỗ trợ về tài chính, thị trường, quản lý và công nghệ cần được ưu tiên trong quá trình thực hiện. Những chính sách này của Đài Loan hoàn toàn phù với điệu kiện kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nếu chúng ta thực sự quan và mong muốn cho khu vực doanh nghiệp này phát triển. Thành tựu và kinh nghiệm phát triển SMES ở Đài Loan và định hướng phát triển giai đoạn 2001 đến 2010. Những thành tựu đạt được của các SMEs Về đặc điểm. Các SMEs chủ yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại. Biểu 1: Cơ cấu SMEs phân theo ngành kinh tế 2000-2001 Nguồn:Tập san về Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan năm 2002 - VIện Nghiên cứu Trung Hoa Biểu 1 cho thấy, tỷ lệ các SMEs trong lĩnh vực thương mại là lớn nhất, chiếm 64,63% (năm 2000) và 65,18% (năm 2001) trong tổng số các SMEs và năm 2001, con số này là 13,76%, giảm 0,37% so với năm 2000. Đứng thứ ba là lĩnh vực dịch vụ. Năm 2000, các SMEs trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 9,1% trong tổng số các SMEs và năm 2001 chiếm 9,42%, tăng 0,32% so với năm 2000. Lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tăng là do xu hướng phát triển mạnh các ngành sản xuất ứng dụng công nghệ cao. Nhiều SMEs đã tiến hành đầu tư ở nước ngoài, đặc biệt là ở Trung Quốc và các nước Đông Nam á để được hưởng những ưu đãi và tận dụng thế mạnh về nhân công rẻ. Lao động trong các SMEs chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất. Năm 2001, lần đầu tiên trong suốt hơn một thập kỷ, số người lao động giảm (0.1%), trong khi đó, sau khi giảm vài năm, số lao động trong khu vực Nhà nước bắt đầu tăng lên, với con số là 4,634 nghìn người vào năm 200, tương ứng với tỷ lệ là 0,5%. Số lượng lao động làm trong các Doanh nghiệp lớn tăng 08%(8,796 nghìn người), trong khi đó sau vài năm tăng trưởng, số lao động trong khu vực SMEs giảm 1,6%(117,146 nghìn lao động). Tổng số lao động giảm trọng năm 2001 chủ yếu thuộc về khu vực SMEs. Nếu xét riêng về số lao động làm thuê cho các SMEs thì lĩnh vực sản xuất có số lao động làm thuê nhiều nhất và lĩnh vực thương mại có số lao động làm thuê ít nhất, mặc dù lĩnh vực này có nhiều SMEs nhất. Sản lượng của các SMES trong ngành thương mại là lớn nhất Nếu xét riêng trong từng lĩnh vực thì sản lượng của các SMEs trong lĩnh vực thương mại là lớn nhất. Năm 2001, giá trị sản lượng do các SMEs trong lĩnh vực thương mại tạo ra chiếm 42,95% giá trị tổng sản lượng của các doanh nghiệp cùng ngành, tăng 0,75% so với năm 2000. Tiếp theo là lĩnh vực sản xuất chiếm 34,77%, tăng 0,13% so với năm 2000. Ngành xây dựng xếp vị trí thứ 3, chiếm 13,53% giảm 0,9% so với năm 2000. Biểu 2: Tỷ lệ sản lượng của SMEs phân theo ngành (A) Nông, Lâm, Ngư nghiệp (F) Thương mại (B) Khai khoáng (G) Vận tải, viễn thông (C) Sản xuất (H) Tài chính, Bảo hiểm, bất động sản (D) Điện, nước, nguyên liệu (I) Dịch vụ thương mại, sản xuất (E) Xây dựng (J) Dịch vụ xã hội, đời sống Thời hạn hoạt động thường kéo dài từ 10 đến 20 năm Nhìn chung, thời hạn hoạt động của các SMEs ngắn hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Tỷ lệ các doanh nghiệp lớn có thời hạn hoạt động từ 5 năm đến 20 năm cao hơn so với các SMEs có thời hạn tương tự. Trong khi đó, tỷ lệ của các SMEs có thời hạn thấp hơn 1 năm cao hơn gấp 4 lần so với các doanh nghiệp lớn. Bảng 4: Thời hạn hoạt động của các Doanh nghiệp trong năm 2000-2001 Đơn vị:% Tuổi 2000 2001 SMEs DN lớn SMEs DN lớn Dưới 1 năm 9.04 2.60 8.79 2.48 1-2 năm 9.27 5.15 8.68 4.57 2-3 năm 7.86 5.63 7.60 5.25 3-4 năm 6.72 6.20 6.69 5.32 4-5 năm 5.30 5.10 5.85 5.67 5-10 năm 22.57 24.26 21.89 22.99 10-20 năm 23.58 30.80 24.17 31.90 Trên 20 năm 15.66 20.24 16.33 21.81 Các SMEs chủ yếu là loại tư nhân một chủ. Cơ cấu sở hữu của các SMEs chủ yếu là loại sở hữu tư nhân một chủ. Trong lĩnh vực sản xuất, loại hình doanh nghiệp sở hữu tư một chủ này chiếm 44,21% và trong lĩnh vực thương mại chiếm 62,77% trong tổng số các SMES. Thành tựu của các SMEs của Đài Loan. Qua hơn 50 năm phát triển, thành tựu của các SMEs Đài Loan được thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau đây: Số lượng các doanh nghiệp: Tỷ lệ các SMEs so với tổng số doanh nghiệp của Đài Loan năm 2001 là 98,08%, năm 2000 là 98,18% tăng 0,10% nhưng về mặt tuyệt đối, trong cùng thời gian đó, tông số SMEs lại tăng 6940 doanh nghiệp so với năm 2000, lên 1,098,185 triệu doanh nghiệp. Như vậy tỷ lệ các SMES trong tổng số doanh nghiệp cũng như số lượng các SMEs đều không ngừng tăng lên, tạo ra sự năng động, linh hoạt của nền kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và chống sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn. Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đối với Đài Loan, các SMEs đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động . Tỷ lệ thất nghiệp ở Đài Loan trong gần năm thập kỷ qua (kể từ những năm đầu của thập kỳ 50) luôn luôn ở mức rất thấp, khoảng 2,39%. Có được kết quả đó, một phần quan trọng là có sự đóng góp của các SMEs. Biểu 3: Lực lượng lao động làm việc trong các SMEs Biểu 3 cho thấy, tổng số lượng lao động làm thuê trong các Doanh nghiệp năm 2001 là 6,726,627 lao động (bao gồm cả số người lao động trong Chính phủ). Số lao động làm thuê trong các Doanh nghiệp lớn là 1,129,270 lao động (tương ứng với 16.8% trong tổng số) và số lao động làm thuê trọng các SMEs là 4,636,377 lao động (tương ứng với 68.9% trong tổng lao động làm thuê). Trong vòng hơn 10 năm trước, cùng với sự tăng trưởng trong tổng số lượng các Doanh nghiệp, số lượng lao động làm thuê cũng tăng lên ở Đài Loan. Tuy nhiên, tổng số lao động làm thuê trong năm 2001 thấp hơn 2000, giảm 0.22%. Mặc dù số lượng SMEs tăng khoảng 1% nhưng số lượng người lao động làm thuê trong khu vực này lại giảm 0.59%(27,734 lao động), mặc dù trong vòng nhiều năm trước số lao động làm thuê trong SMEs luốn tăng. Dù có nhiều sự biến động từ môi trương kinh tế quốc tế làm cho tổng số các Doanh nghiệp lớn giảm 4% nhưng số lao động làm thuê lại tăng lên ở khu vực này, lên tới 8,360 lao động, tương ứng với con số là 0.75%. Điều này có thể giải thích cho tâm lý bất an của toàn bộ lực lượng lao động khi đứng trước những biến động và rủi ro của nền kinh tế. Đây là những nhân tố giúp các nhà hoạch định chiến lược có thể chú ý và cải thiện. Đóng góp vào giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Biểu 4: Giá trị sản lượng của SMEs 1996-2001 Giá trị tổng sản lượng do các SMEs tạo ra năm 2001 là 6,930 nghìn tỷ NT$, chiếm 30,36% trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP), năm 2000 (là 6,860 nghìn tỷ NT$), chiếm 32,09% GNP và năm 1991(là 4,88 nghìn tỷ NT$ chiếm 40,84% GNP). Điều đó cho thấy giá trị sản lượng của các SMEs không ngừng tăng lên qua các năm và chiếm tỷ lệ lớn trong GNP.(Biểu 4) Tuy nhiên, số liệu đó cho thấy tỷ trọng giá trị tổng sản lượng của các SMEs trong GNP có xu hướng giảm xuống. Năm 1995 con số này là 40,83% nhưng năm 1997 chỉ là 30,36%, giảm 4,57%. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế. Các ngành công nghiệp tập trung vốn và công nghệ cao được chú trọng phát triển. Mặt khác, do sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp lớn trên cơ sở các thế mạnh về vốn và công nghệ là một nguyên nhân quan trọng làm giảm giá trị sản lượng của các SMEs. Như vậy, mặc dù tỷ trọng giá trị sản lương của các SMEs trong GNP có xu hướng giảm xuống nhưng những đóng góp của khu vực này trong GNP vẫn rất lớn, năm thấp nhất cũng chiếm tới 32,11% GNP. Điều đó cho thấy không thể xem nhẹ khu vực doanh nghiệp này trong quá trình phát triển kinh tế và nếu Chính phủ có các chính hỗ trợ hữu hiệu hơn cho khu vực này thì nó sẽ có vai trò lớn hơn nữa trong GNP. Tăng kim ngạch xuất khẩu Biểu 5: Giá trị xuất khẩu của SMEs 2000-2001 Đơn vị: nghìn tỉ NT$ ở Đài Loan, các doanh nghiệp lớn chiếm ưu thế trên thị trường nội địa còn các SMEs chiếm ưu thế trên thị trường quốc tế Tổng giá trị xuất khẩu của tất cả các Doanh nghiệp vào năm 2001 lên tới 6297 tỷ NT$. Các Doanh nghiệp lớn đạt tổng giá trị xuất khẩu là 4996 tỷ NT$, tương ứng với 79,4% trong khi SMEs đạt 1300 tỷ NT$, chiếm 20,7%. Tổng giá trị xuất khẩu của tất cả các Doanh nghiệp giảm 8% trong năm 2001; Giá trị xuất khẩu của SMEs giảm 5,1% (69,55 triệu NT$), trong khi đó các Doanh nghiệp lớn giảm 8,7% (474 tỉ NT$). Tỉ lệ giảm sút của SMEs thấp hơn các Doanh nghiệp lớn, bởi vậy nên tỉ lệ giá trị xuất khẩu của SMEs tăng lên một chút từ 20% trong năm 2000 lên tới 20,7% trong năm 2001.(Biểu 5) Mặc dù tổng giá trị xuất khẩu của tất cả các SMEs giảm 8% trong năm 2001, nhưng rõ ràng là đến năm 2000 nó đã tăng 20,5%. Bởi vậy, mặc dù con số của năm 2001 và năm 1999 (cũng như những năm trước) cho thấy ảnh hưởng của sự suy thoái nền kinh tế lớn đến thế nào. Góp phần thực hiện phân phối lại thu nhập và giảm bớt khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong hơn 4 thập kỷ qua, nền kinh tế Đài Loan đã phát triển với tốc độ rất cao, bình quân hàng năm là 8,95%(số liệu đã dẫn). Đồng thời việc phân phối thu nhập cũng được làm tốt hơn so với các nước phát triển khác. So sánh 20% số dân có thu nhập cao nhất và 20% số dân có thu nhập thấp nhất ở Đài Loan vào thập kỷ 70 và 80 thì tỷ lệ đó là 5:1. Chẳng hạn năm 1980 tỷ lệ giầu nghèo ở Đài Loan là 4,17:1 trong khi đó, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này ở Mỹ là 8,9:1; Canada là 7,5:1; Pháp là 6,5:1; Singapore 9,6:1 và Brazil là 26:1. Như vậy khoảng cách giầu nghèo ở Đài Loan thấp hơn rất nhiều so với các nước khác. Do đặc điểm của các SMEs có khả năng thu hút nhiều lao động, nhất là lao động phổ thông hoặc lao động không được đào tạo chuyên môn nên các SMEs đã tạo điệu kiện tăng thu nhập cho những lao động này, góp phần giảm bớt khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Ngoài ra, các SMEs còn có vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, góp phần làm dân chủ hoá, tăng tính cạnh tranh và năng động trong nền kinh tế... Các SMEs góp phần giúp Đài Loan tránh được những tác động nặng nề của Khủng hoảng tài chính châu á. Trong khi cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng và ảnh hưởng nặng nề tới các nước trong khu vực, thì Đài Loan - một nền kinh tế nằm ngay cạnh trung tâm của cuộc khủng hoảng - đã hạn chế được nhiều tác động xấu từ cuộc khủng hoảng này là một thành công đáng chú ý. Năm 1998, trong khi một số nước như Hàn Quốc, Thái lan, Hong kong, Indonesia... phải chịu tăng trưởng âm thì Đài Loan vẫn duy trì được mức tăng trưởng là 4,7% trong năm 1998 (năm đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng) và tăng lên 5,3% trong năm 1999. Vậy, sự khác biệt của Đài Loan với các nền kinh tế khác là gì ? Lý do tại sao Đài Loan không bị rơi vào khủng hoảng giống các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Nam á. Nhìn lại quá trình phát triển các chính sách kinh tế của Đài Loan ta có thể đưa ra một số nguyên do sau: Một là, Đài Loan đã sớm có chính sách điều chỉnh, cải thiện cơ cấu ngành nghề dẫn đến tăng cường thể chế kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Đồng thời Đài Loan ưu tiên phát triển công nghệ thông tin và trở thành một trong ba nguồn xuất khẩu mặt hàng công nghệ cao hàng đầu thế giới. Tổng giá trị ngành thông tin điện tử năm 2000 của Đài Loan đạt 35,8 tỷ USD (tăng 19,7% so với năm 1999), Giá trị xuất khẩu của ngành này đạt 18 tỷ USD. Hai là, Đài Loan có một cơ chế tài chính lành mạnh và được kiểm soát chặt chẽ cùng với nguồn dự trữ ngoại tệ lớn (hiện nay khoảng trên 100 tỷ USD). Đồng thời việc thúc đẩy mở cửa thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán nhưng lại tiến hành một cách từ từ, từng bước, hạn chế đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài vào thị trường cổ phiếu điều này đã ngăn ngừa được ảnh hưởng của đầu tư tiền tệ quốc tế. Ba là, Đài Loan có chính sách dựa vào tiết kiệm trong nước, tránh được sự lệ thuộc quá mức vào nợ nước ngoài (trong khi nợ nước ngoài chỉ vào khoảng 100 triệu USD, chưa kể hàng trăm tỷ USD dưới dạng tài sản nước ngoài khác). Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng đó là sức mạnh chủ yếu của Đài Loan lại là một hệ thống các SMEs với sức cạnh tranh quốc tế rất cao. Khi so sánh nền công nghiệp Đài Loan với Hàn Quốc, ta sẽ thấy rõ điều này. Kể từ sau chiến tranh, Hàn Quốc đã quyết định xây dựng đất nước mới bằng cách bơm mạnh tín dụng vào một số tập đoàn Chaebol (dựa trên sở hữu của các gia đình tài phiệt) nhằm xây dựng các ngành công nghiệp chiến lược như chế tạo sắt thép, đóng tầu, ôtô. Thông qua mối quan hệ với chính phủ cầm quyền, họ được các ngân hàng cho vay tín dụng một cách dễ dàng với tốc độ chóng mặt. Do đó, các Chaebol đã đầu tư hàng trăm tỷ USD vào đủ mọi lĩnh vực mà họ không lợi thế cạnh tranh, kết quả là tạo nên tình trạng cồng kềnh khó xoay trở, một nền kinh tế cung vượt quá cầu và gây ra các món nợ lút đầu. Trái lại, tại Đài Loan, nhà cầm quyền tự giới hạn khu vực quốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
Tài liệu liên quan