MỤC LỤC
Lời nói đầu 1,2
Chương I:Chính sách tiền tệ và lãi suất tín dụng 3
I.Chính sách tiền tệ 3
1.Khái niệm 3
2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ 4
3.Công cụ của chính sách tiền tệ 7
II.Lãi suất tín dụng 11
1.Định nghĩa lãi suất 12
2.Phân loại lãi suất 13
3.Vai trò của lãi suất 17
4.Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế 19
5.Các nhân tố tác động vào lãi suất 23
6.Sự điều hành lãi suất tín dụng của NHTƯ 30
Chương II:Thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
1.Giai đoạn từ 1945 đến 1951 34
2.Giai đoạn từ năm 1951 đến 1986 35
3.Giai đoạn cuối năm 1986 đến 1995 37
4.Giai đoạn từ 1/1/1996 đến nửa đầu năm 2000 40
5.Giai đoạn từ 5/8/2000 đến 1/6/2002 50
6.Giai đoạn từ 1/6/2002 đến nay 53
Chương III:Giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay. 57
I.Tác động tích cực và tính tất yếu của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường 57
II.Định hướng của NHNN Việt Nam đối với chính sách lãi suất hiện nay 61
1. Những nguyên tắc cơ bản cần quán triệt khi đổi mới chính sách lãi suất 61
2. Định hướng về chính sách lãi suất 61
III. Những giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam 62
1. Những khó khăn gặp phải trong quá trình chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận 62
2. Những giải pháp 64
Kêt luận 70
Tài liệu tham khảo 71
Phụ lục 1 72
Phụ lục 2 74
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Lãi suất ngân hàng thương mại là một trong những công cụ điều tiết có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t tăng.
f.Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua các công cụ như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị trường mở… sẽ tác động đến cung cầu tiền tệ làm cho cung tiền giảm (hoặc tăng) , do đó giảm (hoặc tăng) cung quỹ cho vay từ đó tác động đến lãi suất.
6. Sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng cuả NHTƯ.
6.1.Nguyên tắc hoạt động của NHTƯ trong thực hiện chính sách lãi suất.
Thứ nhất, NHTƯ không trả lãi tiền gửi cho NHTM, TCTD nào.
Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTƯ luôn là chủ nợ của cả hệ thống ngân hàng. Vị trí chủ nợ đó là cần thiết để NHTƯ có thể điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng cung ứng tiền tệ. Nếu NHTƯ trả lãi tiền gửi, nghĩa là con nợ của NHTM , thì NHTƯ không có khả năng tác động trực tiếp vào sự ra tăng khối lượng tiền tệ, vì bất cứ lúc nào NHTM cũng có thể rút tiền của họ. Mối quan hệ hữu cơ giữa thị trường tiền tệ với thị trường tín dụng bị phá vỡ và NHTƯ mất đi khả năng điều tiết của mình. Chính vì lý do đó các NHTM, Kho bạc Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khác không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTƯ vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của NHTƯ. Các ngân hàng thương mại gửi tiền tại NHTƯ có thể mua tín phiếu NHNN hoặc tín phiếu kho bạc Nhà nước.
Thứ hai, NHTƯ chỉ được phép cho NHTM vay ngắn hạn.
Đây là vấn đề cốt lõi đối với khả năng điều tiết cuả NHTƯ, vì chỉ như vậy NHTƯ mới có thể phản ứng nhanh với những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. Điều đó có nghĩa là chỉ NHTM mới được cấp tín dụng dài hạn. Nếu một khi NHTƯ có những khoản nợ dài hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi khả năng điều tiết của mình và thúc đẩy sự bất ổn của thị trường tiền tệ.
6.2 Các công cụ điều tiết lãi suất thị trường của NHTƯ
Thứ nhất, gọi cho vay theo hình thức đấu thầu .
Đây là hình thức quan trọng để NHTƯ cung ứng tiền tệ trung ương cho các NHTM. Thời hạn cho vay thường ngắn (khoảng 10 đến 15 ngày) và được tổ chức thường xuyên 1 đến 2 lần một tuần. Giả sử sau khi NHTƯ thông báo gọi thầu (chỉ công bố thời hạn cho vay, chứng phiếu thế chấp, không bao giờ công bố lãi suất) và nhận được đơn xin vay của NHTM như sau:
Ngân hàng thương mại 1 xin vay 20 tỷ với lãi suất 10%/năm
Ngân hàng thương mại 2 xin vay 35 tỷ với lãi suất 9,75%/năm
Ngân hàng thương mại 3 xin vay 5 tỷ với lãi suất 9,5%/năm
Ngân hàng thương mại 4 xin vay 10 tỷ với lãisuất 9,4%/năm
Ngân hàng thương mại 5 xin vay 20 tỷ với lãi suất 9,3%/năm
Căn cứ số tiền cần phát hành, NHTƯ quyết định cho vay 30 tỷ với lãi suất 9,5%/năm. Có ba ngân hàng trúng thầu với lãi suất 9,5% nhưng số tiền xin vay là 60 tỷ. Như vậy mỗi ngân hàng sẽ được vay lượng tiền yêu cầu (=30/60 tỷ) với cùng mức lãi suất. Lãi suất 9,5%/năm này cực kỳ quan trọng, qua đó đánh tín hiệu với thị trường rằng NHTƯ không muốn lãi suất giảm xuống dưới 9,5%/năm. Căn cứ vào đó, các ngân hàng thương mại tự định đoạt lãi suất thị trường.
Thứ hai, lãi suất tái chiết khấu hay tạm ứng trên chứng từ.
Hình thức gọi thầu cho vay được thực hiện định kỳ hoặc theo quyết định của NHTƯ với thời hạn cố định, vì vậy không đáp ứng nhu cầu xin vay bất thường với thời gian không qui định trước của các NHTM. Hình thức cho vay tạm ứng trên cơ sở thế chấp chứng từ cho phép khắc phục điều đó. Loại hình cho vay này được thực hiện bất cứ lúc nào với thời hạn thoả thuận giữa NHTƯ và NHTM (thường từ 5 đến 10 ngày), lãi suất cao hơn cho vay đấu thầu 0,5-0,6%. Đây là cánh cửa thường xuyên mở rộng cho các NHTM với điều kiện có chứng từ thế chấp tốt. Đó là lãi suất chỉ đạo thứ hai của NHTƯ.
Với hai hình thức trên, NHTƯ có thể hướng lãi suất thị trường dao động trong khung tạo bởi hai mức lãi suất đó. Lãi suất cho vay đấu thầu(ví dụ là 9,5%)là lãi suất thấp nhất của thị trường, đóng vai trò như lãi suất sàn, còn lãi suất tạm ứng chứng từ(ví dụ trên là 10%) là lãi suất chặn đứng thị trường, đóng vai trò là lãi suất trần. Lãi suất thị trường dao động trong khung mong muốn của NHTƯ theo đuổi lượng cung tiền, tỷ giá hối đoái.
ở một số nước, thị trường tài chính chưa phát triển, NHTƯ có thể trực tiếp qui định lãi suất trần và lãi suất sàn bằng những sắc lệnh của Chính phủ.
Thứ ba, lãi suất can thiệp cụ thể của NHTƯ.
Nếu lãi suất trên thị trường ví lý do không dự kiến được tăng quá cao đột xuất NHTƯ sẽ can thiệp bằng cách thông báo lãi suất thi trường quá mức chặn dươí. NHTƯ sẽ công bố lãi suất cho vay bằng hoặc cao hơn lãi suất chặn trên một chút. Đó là lãi suất can thiệp.
Trong ba hình thức trên, lãi suất cho vay đấu thầu và lãi suất vay tạm ứng là lãi suất quan trọng nhất, đóng vai trò lãi suất chỉ đạo của NHTƯ. Còn lãi suất can thiệp chỉ là phụ và tuỳ thuộc vào diễn biến thị trường. Ngoài ra NHTƯ còn can thiệp vào lãi suất thị trường thông qua kỹ thuật thị trường mở, nghĩa là NHTƯ mua bán các chứng khoán trên thị trường để điều tiết việc bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông.
--> Như vậy thông qua chương I, chúng ta đã có những khái niệm cơ bản về lãi suất, chính sách tiền tệ, và các công cụ của chính sách tiền tệ. Những kiến thức cơ bản này sẽ là nền tảng để chúng ta tiếp tục nghiên cứu chương II.
`Chương II: Thực trạng chính sách Lãi suất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, lãi suất cũng là một trong những công cụ vô cùng quan trọng mà NHNN Việt Nam đã sử dụng để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của mình. Cùng với những biến chuyển tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì chính sách lãi suất cũng có những điều chỉnh thay đổi để hoàn thiện và tiến tới một lãi suất tiền tệ theo hướng tự do lãi suất dựa trên quan hệ cung cầu vốn đúng như bản chất cuả lãi suất.
Từ khi thành lập cho đến nay NHNN Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh chế độ lãi suất của mình. Những thay đổi chính sách lãi suất mang tính tích cực về mặt lý thuyết. Tuy nhiên trong thực tế những thay đổi này có đem lại hiệu quả hay không còn phải xem xét trên nhiều khía cạnh.
Sau đây chúng ta hãy xem xét sự điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn vừa qua của NHNN Việt Nam.
1.Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1951.
Sau ngày 2/9/19945, ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nước ta bị các nước đế quốc và các thế lực phản động quốc tế trong và ngoài nước liên kết với nhau chống phá quyết liệt. Vì vậy bên cạnh việc chuẩn bị về mặt lực lượng để tiếp tục chiến đấu bảo vệ thành quả Cách mạng, bảo vệ Đất nước thì Chính phủ mới thành lập còn phải ổn định tình hình tài chính để ổn định nền kinh tế, đời sống nhân dân, và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Trong giai đoạn từ năm 1946 đến 1951, chúng ta không quốc hữu hoá Ngân hàng Đông Dương và cũng không thành lập NHTƯ của Việt Nam. Lúc này tiền tệ do Bộ tài chính phát hành. Lượng tiền cho lưu thông chủ yếu là do phát hành vì thuế thu được rất ít. Không có một loại hình tín dụng nào trong giai đoạn này. Mãi đến năm 1947 mới có hình thức huy động vốn để cho sản xuất nông nghiệp, nên nhìn chung chính sách lãi suất trong giai đoạn này không có gì đáng nói.
2.Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1986.
Tháng 2 năm 1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Lúc này nó đã có một số chức năng cơ bản sau:
-Độc quyền phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ.
-Điều hoà và mở rộng tín dụng để phát triển sản xuất.
-Quản lý ngân quỹ quốc gia.
-Quản lý ngoại tệ và giao dịch thanh toán với nước ngoài.
-Quản lý kim dung bằng thể lệ hành chính.
-Đấu tranh tiền tệ với địch.
Đây là thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đi vào giai đoạn quyết liệt nên nhu cầu tiền dành cho chiến tranh là rất lớn.Vì vậy NHNN Việt Nam thực hiện chính sách lãi suất cố định, NHNN Việt Nam đã qui định quá chi tiết các mức lãi suất khác nhau. Tại mức lãi suất ban hành theo quyết định số 125/NH- QĐ ngày 04/9/1986 ta thấy có gần 30 mức lãi suất khác nhau. Chúng được phân biệt rõ rệt bởi hình thức sở hữu: quốc doanh và tập thể, bởi ngành nghề, bởi sự thực hiện cái gọi là hạn mức kế hoạch …Và một điều ta không thể không nhận thấy là sự bất hợp lý trong chính sách lãi suất là mức lãi suất tiền gửi và cho vay được qui định ở biểu quá nhỏ bé so với mức lãi suất huy động tiết kiệm, cho vay tư nhân cá thể và nó càng nhỏ bé khi so sánh với tỷ lệ lạm phát của năm 1986 (khỏang 14%/ tháng).(xem phụ lục 1)
Đây là thời kỳ lãi suất thực âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều luật mục lạm phát cao.
Một trong những lý do biện giải cho việc áp dụng chính sách lãi suất cố định, Lãi suất thực âm này là:
-Thời kỳ này nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, chịu ảnh hưởng nặng nề, dập khuôn mô hình kinh tế của Liên Xô cũ. Chính sách lãi suất này là việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô cũ. Nhiều loại cho vay, mức lãi suất cuả ta và Liên Xô cũ là giống hệt nhau, và vì vâỵ chính sách lãi suất không chú ý đến lạm phát.
-Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang rơi vào tình trạng lạm phát phi mã, Nhà nước muốn vực dậy nền kinh tế thì cần huy động và thu hút vốn cho đầu tư nên đã qui định mức lãi suất cho vay thấp để khuyến khích các đơn vị đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Lỗ của ngành ngân hàng sẽ được nhà nước cấp bù.
Trong thời kỳ này, việc ấn định các mức lãi suất là không có cơ sở khoa học. Lãi suất không phát huy được vai trò đòn bẩy phát triển nền kinh tế của mình, ngược lại nó còn kìm hãm hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng không phát huy được vai trò huy động vốn, kinh doạnh tiền tệ cuả mình. Còn Nhà nước thì luôn bị thâm hụt ngân sách do phải bù lỗ cho các ngân hàng và lạm phát thì tiếp tục tăng.
Chế độ lãi suất thực âm không đảm bảo lợi ích cho các bên, điều này được nhiều tác giả miêu tả bằng một hình tượng sinh động như: nếu ta đem gửi một khoản tiền ví như con bò thì sau khi đáo hạn ta chỉ nhận được khoản tiền bằng cái đuôi bò. Vì vậy mà chính sách này không thực hiện được mục tiêu của mình là huy động vốn.
Trong tình trạng nền kinh tế phát triển trì trệ, tỷ lệ lạm phát cao, cơ hội đầu tư có lợi là rất hiếm, lãi suất tiền cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân <lãi suât huy động vốn, điều này dẫn đến tình trạng ăn “không ngồi rồi” của các doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp rồi cho ngân hàng vay với lãi suất cao để ăn chênh lệch và cuối cùng thì sản xuất không phát triển .
3.Giai đoạn cuối năm 1986 đến 1995.
Thực trạng đất nước vào những thập kỷ 80 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan và bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với dự nghiệp cách mạng là, đẻ làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa trên bước đường đi lên.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ sáu của Đảng(1986) đã quyết điịnh xây dựng CNXH trên cả nước theo đường lối đổi mới.
Một điều tất nhiên là hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi mới này.
Cụ thể là bắt đầu 1988 toàn bộ hệ thông ngân hàng 1 cấp chuyển thành hệ thông ngân hàng 2 cấp. Năm 1990 ra pháp lệnh Ngân hàng, pháp lệnh này được sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện hơn vào năm 1997, đó là luật Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng.
Đây là bước đầu tiên đặt nền móng cho những biến đổi mạnh mẽ về sau hoạt động của NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.
Sau năm 1986, đất nước chuyển mình trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì vậy đây là lúc mà vai trò của hệ thông ngân hàng được nâng lên đúng với vị trí của nó.
Sau đại hội Đảng VII, bước sang giai đoạn 1992-1995, một loạt cải cách mới được thực hiện và đã đem lại những kết quả nhất định. Nền kinh tế đã có nhiều biến chuyển tích cực: lạm phát tiếp tục được đẩy lùi và được kiểm soát một cách chặt chẽ hơn, nền kinh tế với mức tăng trưởng tương đối và cũng được duy trì ổn định…Và có thể nói rằng trong đó có sự đóng góp không nhỏ của chính sách lãi suất mới- chính sách lãi suất thực dương. Lãi suất thực dương được duy trì từ cuối năm 1992 với sự biến động phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Cụ thể từ tháng 10/1992 NHNN Việt Nam thực hiện chính sách lãi suất thực dương, hết quý một năm 1993 thì chính sách này được thực hiện một cách đầy đủ.
86-90
1991
1992
1993
1994
1995
Lãi suất tiền gửi bình quân %/tháng
6
2,6
1,9
1,4
1,3
1,4
Lãi suất cho vay bình quân
4,3
3,5
2,5
1,8
1,6
1,7
Lạm phát bình quân tháng
ơmứchai chữ số
5,6
1,93
0,43
1,2
1,06
Tuy nhiên, ở giai đoạn này NHNN Việt Nam vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay, cụ thể có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế:
+ Đối với doanh nghiệp Nhà nước: cho vay với lãi suất thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+Lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
+Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Bắt đầu từ ngày 1/10/1993 theo quyết định 184/QĐ-NH1, Chính sách lãi suất được thực hiện trên cơ sở vừa qui định các mức lãi suất tiền gưỉ và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.
+Qui định cụ thể về lãi suất trần có hai loại:
Lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước:1,8%/ tháng
Lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh:2%/ tháng
kỳ hạn 6 tháng: 0,75%/ tháng
Kỳ hạn 12 tháng: 12%/ tháng
Các mức lãi suất này được áp dụng cho đến tháng 1/1991. Quyết định số 08/QĐ-NH7 ngày 25/1/1992 thay đổi lại như sau: lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ do Tổng giám đốc các ngân hàng được phép hoạt động ngoại tệ qui định trên cơ sở lãi suất tiền tệ quốc tế. Quyết định này cho đến nay vẫn còn hiệu lực thi hành.
Từ tháng 12/1993 NHNN bãi bỏ việc qui định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nghĩa là từ đó tới nay NHNN chỉ còn khống chế mức cho vay ngoại tệ tối đa của các tổ chức tư doanh đối với nền kinh tế, ngoài ra ta thấy mức lãi suất cho vay tối đa ngày càng được điều chỉnh tăng lên để thực hiện chủ trương thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ của NHNN.
* Đánh giá vai trò của qúa trình điều chỉnh chính sách lãi suất từ năm 1992 đến 1995.
-Những mặt tích cực:
Trong giai đoạn này, lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như là một công cụ của chính sách tiền tệ. Việc chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương đã có tác dụng quan trọng, xoá bỏ hẳn tình trạng bao cấp qua tín dụng trước đây và tạo điều kiện cho các ngân hàng thực sự chuyển sang kinh doanh, thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn mạnh mẽ với phương châm: ngân hàng đi huy động để cho vay, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các tổ chức kinh tế, như vậy nguồn vốn huy động đã tăng lên mạnh mẽ và liên tục. Năm 1992 tăng 18,6%, năm 1993 tăng 23%, năm 1994 tăng 59,8%, năm 1995 số dư gấp 3,6 lần năm 1991, chiếm 23% GDP. Trong đó đáng chú ý là lượng vốn huy động trong nước là chủ yếu.
Nhờ có vốn đầu tư mở rộng sản xuất trong 4 năm 1992-1995 nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tương đối toàn diện và rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Chính sách này đã thúc đẩy phát triển tỷ trọng cho vay trung và dài hạn phù hợp với mục tiêu huy động cho vay vốn đối với các doanh nghiệp trong chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu. Trước đây tỷ trọng cho vay trung và dài hạn xây dựng cơ bản không đáng kể nhưng cho đến năm 1994 tỷ trọng này đã chiếm 34% tổng dư nợ trong nền kinh tế. Thực tế này đã góp phần thay đổi cơ cấu tư doanh có lợi cho đầu tư phát triển sản xuất, có tác động tích cực đối với việc thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nâng dần kim ngạch xuất khẩu.
Từ năm 1991 đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt 16,8 tỷ $, tốc độ tăng bình quân là 22,2%.
NHNN điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng đảm bảo lãi suất đã góp phần kiềm chế lạm phát, giảm giá đôla và giá vàng. Năm 1990 tỷ lệ lạm phát là 67,4%, năm 1992 còn 17,6%, năm 93 là 5,2%, năm 94 là 14,4%, năm 95 là 12,7 %. Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức tương đối ổn định.
-Những mặt hạn chế.
Lãi suất cho vay thực tế còn cao so với tốc độ tăng giá, chưa thực sự tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế đẩy mạnh việc vay vốn phát triển sản xuất.
Trong lãi suất thoả thuận, mức chênh lệch giữa lãi suất sàn ( qui định cho tiền gửi) và lãi suất trần (qui định cho tiền vay) là 0,7-1%/tháng. Chênh lệch này đem lại cho các NHTM lợi nhuận lớn, song lại gây nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và người nông dân.
Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8 tháng 8/1995 , cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng (có hiệu lực đến ngày 31/1/1998). Đây là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận.
4.Giai đoạn từ 1/1/1996 đến nửa đầu năm 2000.
Từ tháng 1 năm 1996, NHNN Việt Nam công bố lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Các ngân hàng thương mại được phép qui định mức lãi suất huy động trên cơ sở trần lãi suất cho vay và ấn định mức lãi suất cho vay cụ thể nhưng không được phép vượt quá trần lãi suất cho vay mà NHNN công bố.
Từ ngày 1/1/1996 NHNN bắt đầu khống chế trần lãi suất cho vay và áp dụng chênh lệch lãi suât tiền gửi, tiền vay là 0,35%/tháng. Căn cứ vào địa bàn hoạt động, nhu cầu vốn. Chi phí hoạt động khác nhau, NHNN đã qui định lãi suất trần có sự phân biệt như sau: trần lãi suất cho vay ngắn hạn là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị, trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời hạn dài rủi ro cao hơn, trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn ở thị trấn , trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên là trần lãi suất cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, qui mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao.
Từ tháng 10 năm 1996, lãi suất được khống chế bởi mức lãi suất cho vay cao nhất: 1,8%/tháng đối với doanh nghiệp Nhà nước và 2,1%/tháng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Từ tháng 6/1997, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được hạ xuống. Do khủng khoảng tiền tệ, các nước Đông Nam á phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nước công nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi ra mua $. Để phòng ngừa khủng khoảng tài chính- tiền tệ trong toàn hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trong nước phải giữ lãi suất tiền gửi cao gần như cũ đến mức là chênh lệch giưã lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ còn từ 0,05% đến 0,1%, làm tăng thua lỗ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Khi làn sóng rút tiền gửi đã lắng xuống thì mức tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng thương mại giảm mạnh.
Từ tình hình trên, ngày 21/1/1998 NHNN đã phải nâng trần lãi suất bằng VND lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, 1,25%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn và 1,5%/tháng đối với quỹ tín dụng cho thành viên vay, đồng thời qui định xoá bỏ qui định mức chênh lệch lãi suất tiền gửi-cho vay 0,35%/tháng khiến cho chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi được cải thiện hơn nhưng vẫn còn quá thấp, không đủ đảm bảo lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại.
Đặc biệt trong năm 1999, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế.
Từ ngày 1/2/1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm trần lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại quốc doanh áp dụng với khách hàng khu vực thành thị từ 1,2%/tháng xuống còn 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,25%/tháng xuống còn 1,15%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn, các tổ chức tín dụng khác vẫn thực hiện theo mức trần lãi suất cho vay như điều chỉnh vào 21/1/1998.
Từ ngày 1/6/1999, NHNN Việt Nam thống nhất hai mức lãi suất tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung và daì hạn là một và giảm xuống mức 1,15%/tháng, lãi suất cho vay của hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân là 1,5%/tháng.
Từ ngày 1/8/1999,NHNN tiếp tục giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15% xuống còn 1,05%/tháng và áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng cho vay ngắn, trung và daì hạn ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Riêng trần lãi suất cho vay bằng VND của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho thành viên vay vẫn giữ nguyên mức 1,5%/tháng và trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn giữ ở mức 1,15%/tháng như đã điều chỉnh ngày 1/6/1999.
Từ ngày 4/9/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại quốc doanh ở khu vực thành thị tiếp tục giảm xuống mức 0,95%/tháng, các mức lãi suất khác vẫn giữ nguyên.
Từ ngày 25/10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND áp dụng ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng ở khu vực nông thôn là 1%/tháng, lãi suất cho vay của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/tháng.
*Cơ sở của việc điều chỉnh lãi suất cho vay này là:
Lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 là 1,3 đến 2%, trong đó lạm phát hai tháng 1 và 2 là 3,6% đặc biệt các tháng 3,4,5,6,7 liên tục giảm phát ở mức –0,7%, -0,6%, -0,3%, -0,4%. Lạm phát giảm thấp, đặc biệt là liên tục giảm phát trong vòng năm tháng đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sức mua của thị trường giảm sút.
Tỷ giá ngoại tệ ổn định trong nhiều tháng, đặc biệt là tháng 10/1998 đến nay, nay cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá vào tháng 2/1999 cũng không gây nên sự biến động nào về tỷ giá.
Về hình thành cung cầu vốn tín dụng những tháng đầu năm 1999, tốc độ tăng số dư nợ tiền gửi so với dư nợ cho vay(tính đến tháng 5/1999) tốc độ tăng tiền gửi là 9,3%, trong khi đó tốc độ tăng dư nợ cho vay là 5,2% so với đầu năm 1999.
Mục đích của việc giảm trần lãi suất cho vay là nhằm đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất và tình hình lạm phát hiện nay, giảm bớt khó khăn cho người đi vay, thực hiện các giải pháp khuyến khích đầu tư, phát triển nội lực, khuyến khích phát triển kinh tế, đẩy mạnh việc cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng, tạo cân đối cung cầu vốn tín dụng.
*Đánh giá:
Trên thực tế, việc hạn trần lãi suất cho vay trên có đạt được những mục đích đề ra hay không và nó đã hợp lý hay chưa?
Có thể thấy, việc liên tiếp hạ trần lãi suất cho vay thực ra không hẳn là NHNN đã chủ động điều hành lãi suất ở tầm vĩ mô để định hướng cho việc tăng giảm khối lượng tín dụng mà chỉ chạy theo thực tế, bởi lẽ nhiều ngân hàng thương mại đã hạ lãi suất cho vay xuống mức 1%/tháng để thu hút khách hàng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trước khi NHNN hạ lãi suất cho vay.
Bên cạnh đó, việc điều hành trần lãi suất cho vay của NHNN còn nảy sinh một số vấn đề cần xem xét.
Trước hết ở nhiều nước trên thế giới, khi cần can thiệp sâu và trực tiếp vào việc điều hành lãi suất, các NHTƯ thường áp dụng tương quan lãi suất giữa trần lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay. Cách điều hành lãi suất như vậy là nhằm bảo vệ lợi ích các ngân hàng thương mại, đồng thời có tác dụng răn đe, giải toả tình trạng cạnh tranh qua lãi suất. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định ngược lại: sàn lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay. Điều này có nghĩa là chính sách lãi suất mà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đưa ra quan tâm hơn đến việc bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền và người vay vốn. Trong cơ chế điều hành lãi suất như vậy, lợi ích của các ngân hàng thương mại không được quan tâm đầy đủ. Việc NHNN liên tục hạ trần lãi suất cho vay gây ra các khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc hạ lãi suất đầu vào dẫn đến chênh lệch lãi suất ngày càng thu hẹp. Điều này dường như đã biến các ngân hàng thương mại thành các ngân hàng chính sách, cho vay dưới giá thành, bao cấp cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, vấn đề về bước đi và tiến độ thực hiện hạ trần lãi suất cho vay, biên độ giá trần lãi suất cho vay giữa các lần khá lớn. Khoảng cách giữa các lần hạ lãi suất cho vay quá gần nhau. Điều này làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định sau khi hạ trần lãi suất lần trước đã bị xáo động bởi đợt hạ trần lãi suất lần này. Tình trạng này dẫn đến việc các ngân hàng thương mại rất dè dặt trong việc huy động vốn, nhất là nguồn vốn dài hạn, do lo sợ sẽ tiếp tục lỗ khi hạ trần lãi suất lần tới. Đồng thời tình trạng này còn nảy sinh ở khách hàng tâm lý chần chừ trong việc vay tiền của ngân hàng để chờ lãi suất cho vay hạ thấp hơn. Trên thực tế đã xuất hiện hiện tượng khách hàng vay ở ngân hàng này với lãi suất thấp để trả nợ cũ với lãi suất cao hơn ở ngân hàng khác. Đây là một yếu tố cản trở việc giaỉ toả vốn ứ đọng trong các ngân hàng thương mại và hạn chế việc mở rộng vốn tín dụng.
Trong lần hạ trần lãi suất cho vay ngày 1/8/1999, do có chiếu cố đến mức độ rủi ro và chi phí hoạt động lớn của các ngân hàng thương mại cổ phần nên NHNN chỉ hạ trần lãi suất cho vay đối với các NH quốc doanh, giữ nguyên trần lãi suất cho vay áp dụng đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Đây có vẻ như là một ưu đãi của NHNN đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên vấn đề không đơn giản như vậy, khi các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nh©m ThÞ Hµ Líp A3-CN7.doc