Qua 15 năm, khu vực FDI đã có những đóng góp đáng kểcho sựphát triển của
nền kinh tếnước ta. Thật khó có thểphân định rõ những gì là kết quảriêng ở
Việt Nam trong những năm qua do FDI mang lại. Song có thểkhái lược trên các
mặt sau đây :
Thứnhất, FDI đã góp phần quan trọng bổsung nguồn vốn đầu tưphát triển,
khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế.
Thứhai, FDI giúp điều chỉnh cấu trúc kinh tếtheo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển sức mạnh sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh và hiệu
quảkinh tế.
Thứba, FDI giữvai trò quan trọng trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh
tếquốc tếcủa Việt Nam
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn : Thời báo Kinh tế Việt Nam, số Tết Quý Mùi)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có số dự án
lớn nhất, nhưng số vốn đầu tư và vốn thực hiện được lại không bằng hình thức
liên doanh.
Về đối tác Việt Nam, trong số các hợp đồng hợp tác kinh doanh và các doanh
nghiệp liên doanh đang hoạt động, DNNN tham gia chiếm 92% tổng số các
doanh nghiệp với 96% số dự án và 99% số vốn đăng ký. Trong khi đó, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh có số dự án và số vốn đầu tư chiếm tỷ trọng không
đáng kể.
Như vậy, tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài ở nước ta chủ yếu là khu vực
kinh tế Nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm một tỷ lệ quá nhỏ bé, thể hiện
sự hạn chế về năng lực tài chính và quản lý của khu vực kinh tế này, đây là một
đặc điểm khác biệt cơ bản giữa nước ta và các nước trong khu vực khi tham gia
hợp tác đầu tư với nước ngoài.
2.1.1.2. Về tình hình thực hiện vốn FDI ở Việt Nam thời gian qua
Tính đến hết tháng 12/2002, chỉ tính các dự án còn hiệu lực, số vốn đã thực hiện
của các dự án FDI là 20,739 tỷ USD trong tổng vốn FDI khoảng 39,104 tỷ USD.
Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các
nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động,
thị trường phát triển chưa đầy đủ... thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm các dự
án sau khi được phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay. Do
đó, số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ
những năm trước đó. Nguyên nhân của vấn đề này là do:
- Tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực buộc các nhà đầu tư
32
phải dừng hoặc chấm dứt không thể tiếp tục đầu tư.
- Một số nhà đầu tư khi lập dự án tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi
triển khai gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt quá khả năng tài chính cũng
như các điều kiện cho triển khai dự án.
- Một số nhà đầu tư nước ngoài không đủ năng lực tài chính, nên triển khai
thực hiện dự án chậm, có khi mất cả khả năng thực hiện. Đến hết năm 2001 đã
có gần 1775 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng 58,13% tổng số
dự án còn hiệu lực), 604 dự án đang trong giai đoạn triển khai thực hiện (bằng
19,78% số dự án còn hiệu lực), 437 dự án chưa triển khai nhưng có khả năng
thực hiện (bằng 14,3% số dự án còn hiệu lực), 237 dự án chưa triển khai không
có khả năng thực hiện có thể bị rút giấy phép (bằng 7,76% số dự án còn hiệu
lực).
Có gần 800 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng
vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là hơn 6 tỷ
USD (bằng gần 15% tổng vốn đăng ký và bằng gần 30% số dự án được cấp giấy
phép).
Có 127 dự án hết hạn thực hiện hợp đồng (bằng 3,4% số dự án được cấp giấy
phép). 792 dự án đã bị rút giấy phép trước thời hạn (chiếm 14,77%).
Bên nước ngoài góp vốn chủ yếu bằng tiền mặt và trang thiết bị do đó trong giai
đoạn đầu triển khai dự án, thực hiện các công việc xây dựng cơ bản bị phụ thuộc rất
nhiều vào tiến độ góp vốn của bên nước ngoài. Trong giai đoạn xây dựng cơ bản,
đối tác nước ngoài gần như nắm quyền điều hành toàn bộ các hoạt động của liên
doanh. Do trình độ cán bộ, nên rất ít liên doanh mà trong đó cán bộ của đối tác Việt
Nam giành được tiếng nói chi phối các hoạt động này. Đến hết năm 2001, các đối
tác nước ngoài đã đưa vốn vào thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam là 13.341
triệu USD (gấp gần 6 lần số vốn của Việt Nam tham gia vào hoạt động này).
Đối tác Việt Nam góp vốn tham gia liên doanh chủ yếu bằng giá trị quyền sử
33
dụng đất và giá trị thiết bị, nhà xưởng hiện có. Tất cả nguồn vốn này thường
được chuyển một lần ngay vào thời điểm bắt đầu triển khai thực hiện dự án đầu
tư, do đó nếu theo giấy phép đăng ký thì bên Việt Nam góp 21,9% bên nước
ngoài góp 68,7%. Số vốn góp của bên Việt Nam ở thời điểm này gồm 74% bằng
giá trị quyền sử dụng đất; 15% bằng giá trị nhà xưởng, thiết bị, và 11% là bằng
tiền mặt, nguyên vật liệu và các dịch vụ.
Số vốn của bên nước ngoài gồm 76,6% bằng tiền mặt và 15,4% bằng giá trị thiết
bị, máy móc, phần còn lại là bằng các dịch vụ tư vấn, công nghệ...
Nếu xét trên tổng thể hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam (không
phân chia theo hình thức đầu tư) thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần
lớn 85% trong tổng số vốn hoạt động. Không những thế, tỷ trọng vốn nước
ngoài đang có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng vốn của bên Việt Nam đã thấp lại
đang có xu hướng giảm xuống đáng kể.
2.1.2. Những mặt tác động tích cực và các hạn chế của hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1.2.1. Những tác động tích cực của hoạt động FDI ở Việt Nam
Qua 15 năm, khu vực FDI đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của
nền kinh tế nước ta. Thật khó có thể phân định rõ những gì là kết quả riêng ở
Việt Nam trong những năm qua do FDI mang lại. Song có thể khái lược trên các
mặt sau đây :
Thứ nhất, FDI đã góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển,
khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế.
Thứ hai, FDI giúp điều chỉnh cấu trúc kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển sức mạnh sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh và hiệu
quả kinh tế.
Thứ ba, FDI giữ vai trò quan trọng trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam.
34
Thứ tư, cùng với đầu tư trong nước, FDI đã góp phần quan trọng trong việc
hình thành hệ thống 67 khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước, góp phần
phân bố lại công nghiệp một cách hợp lý, xử lý môi trường tốt hơn, nâng cao
hiệu qủa đầu tư và hiệu lực quản lý.
Thứ năm, FDI góp phần nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp
trong nước.
Thứ sáu, FDI tạo ra tiềm lực kinh tế quan trọng cho việc phát triển kinh tế
quốc gia.
Thứ bảy, FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ cho người lao
động, nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ đóng góp của hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP thời kỳ 1990 - 2001
Chỉ tiêu 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01
Tốc độ tăng GDP
(%)
5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 9,0 6,5 5,6 6,7 6,8
Tỷ lệ đóng góp của
FDI trong GDP (%)
- - 2,0 3,6 6,1 6,9 7,7 8,6 9,5 10,3 12,2 13,5
Nguồn: - Niên giám thống kê Việt Nam năm 1998 của NXB Thống kê Hà Nội
1999
- Báo cáo về tình hình FDI năm 1999- 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá
Các nhóm ngành trong nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đều tăng lên nhưng
với tốc độ khác nhau nên đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong GDP.
Tính trung bình trong thời kỳ 1990 - 1997 nông nghiệp tăng 4,4% thấp hơn
nhiều so với tốc độ tăng chung là 8,2%, tỷ trọng trong GDP của ngành nông
nghiệp giảm 9,6% trong vòng 5 năm (1990 - 1995). Thời kỳ 1996 - 1998 giảm
2% và từ chỗ là ngành có tỷ trọng cao nhất trong GDP trở thành ngành có tỷ
35
trọng thấp nhất.
Nhóm ngành công nghiệp có tốc độ tăng cao nhất, trung bình 12,8% một năm, tỷ
trọng GDP tăng 7,4% thời kỳ 1990 - 1995; còn thời kỳ 1996 - 1999 tăng 12% và
đã trở thành nhóm ngành có tỷ trọng đứng thứ hai.
Nhóm ngành dịch vụ có tốc độ tăng khá, bình quân 9% một năm, cao hơn tốc độ
tăng chung, tỷ trọng trong GDP thời kỳ 1990 -1995 tăng 3,3% còn thời kỳ 1996
- 1999 tăng 1,9%.
Tỷ trọng các ngành trong GDP của Việt Nam năm 1999 Nông - Lâm - Ngư
nghiệp 26%; Công nghiệp, Xây dựng 32,7% và Dịch vụ 41,3%.
Riêng năm 1998 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm: 100% sản lượng khai
thác dầu thô; 70% sản lượng xe có động cơ; 50% sản lượng thép; 49% sản lượng
hàng điện tử dân dụng; 32% sản lượng giầy da xuất khẩu; 18% sản lượng thực
phẩm, đồ uống; 16% sản lượng hàng may mặc; 14% sản lượng sản phẩm hoá
chất
FDI góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Với lợi thế về vốn, công nghệ và mối quan hệ với thị trường quốc tế, khu vực có
vốn ĐTNN có lợi thế trong xuất khẩu và đã góp phần tăng nhanh kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Tỷ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI
trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 2,5% năm 1991, 4,3%
năm 1992 tăng lên 22,4% năm 1999.
Điều đáng chú ý là trong giai đoạn vừa qua nhiều doanh nghiệp FDI đang trong
quá trình xây dựng, chuẩn bị sản xuất hoặc sản xuất thử nên khu vực này vẫn
còn tình trạng nhập siêu. Hai năm 1995 - 1996 mỗi năm nhập siêu trên 1 tỷ
USD, năm 1997 là 900 triệu USD, năm 1998 là 686 triệu USD và năm 1999 là
825 triệu USD. Tỷ trọng nhập siêu của khu vực FDI thường chiếm trên dưới
30% so với tổng nhập siêu của Việt Nam. Song xu hướng chung sẽ là tăng xuất
khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu và sẽ có xuất siêu khi các doanh nghiệp
36
FDI đi vào hoạt động.
Khu vực FDI đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách.
Nộp ngân sách của khu vực này năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1995 là 195
triệu USD, năm 1996 là 263 triệu USD, năm 1998 là 320 triệu USD và năm
1999 là 271 triệu USD. FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách hàng
năm là trên 1/4 tổng thu ngân sách của cả nước. Thu nhập bình quân của người
lao động hiện nay ở khu vực này là 84 USD/ người/ tháng năm 1996, tạo ra
khoảng 300 triệu USD thu nhập cho người lao động hàng năm.
2.1.2.2. Những hạn chế trong hoạt động FDI ở Việt Nam trong thời gian qua
Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan và đóng góp không nhỏ cho sự phát
triển của nền kinh tế nước ta trong nhiều lĩnh vực, nhưng qua 15 năm hoạt động,
FDI đã bộc lộ một số vấn đề cần giải quyết:
Thứ nhất, tốc độ thu hút và thực hiện nguồn vốn FDI đã bị chững lại và có xu
hướng giảm từ 1997 đến nay. Cả năm 1997 chỉ có 331 dự án được cấp phép đầu
tư với số vốn đăng ký là 4,649 tỷ USD, bằng 89% về tổng số dự án và chỉ tương
đương 53% về số vốn đăng ký so với năm 1996 và số vốn thực hiện là 3,250 tỷ
USD. Năm 1998, FDI đăng ký mới đạt 3,897 tỷ USD, thấp hơn năm 1997
khoảng 16% và vốn thực hiện chỉ đạt 1,900 tỷ USD giảm tới 42% so với năm
1997. Năm 1999, vốn FDI đăng ký chỉ bằng 40,2% so với năm 1998.
Thứ hai, cơ cấu vốn FDI chưa đáp ứng tốt nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Việt Nam. Vốn FDI vào lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp còn quá nhỏ
bé. Vì vậy, việc phát huy lợi thế tiềm năng của đất nước là đất đai, lao động còn
rất hạn chế. Vốn FDI phân bố mất cân đối lớn giữa các vùng và địa phương.
Thứ ba, việc chuyển giao công nghệ chưa đạt như mong muốn, chuyển giao
công nghệ chưa gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường. Đây là vấn đề đáng kể mà
FDI đã gây ra trong những năm qua. Trong quá trình góp vốn thực hiện không ít
những công nghệ và thiết bị lạc hậu đã bị thải loại được nhập vào Việt Nam với
37
giá đắt hơn giá thị trường từ 15 đến 20%.
Thứ tư, người lao động bị khai thác và đối xử không đúng qui định của pháp
luật. Các chủ đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật, sự yếu kém
trong quản lý điều hành và thậm chí cả sự tha hoá của một số cán bộ phía Việt
Nam để khai thác nguồn lao động. Thí dụ:
- Vi phạm về trả lương: Theo qui định mức lương tối thiểu (trước tháng 5/
1992) là 35 USD/ người/ tháng, sau đó đã điều chỉnh lên 45 USD. Thế nhưng
đến nay nhiều chủ xí nghiệp vẫn trả lương dưới mức tối thiểu 35 USD cho công
nhân lao động giản đơn và cho cả những người lao động kỹ thuật.
- Vi phạm về ký kết hợp đồng và sử dụng lao động: Theo điều tra đến nay vẫn
còn 30 - 40% doanh nghiệp chưa ký hợp đồng lao động, hoặc ký hợp đồng với
nội dung sơ sài, không rõ ràng để giới chủ lợi dụng gây thiệt thòi cho công nhân.
Có hơn 10% số doanh nghiệp được kiểm tra vi phạm thời gian lao động và nghỉ
ngơi của công nhân, đặc biệt trong các doanh nghiệp ngành may, giày da.
- Vi phạm về nhân phẩm: Trong nhiều doanh nghiệp giới chủ tự đưa ra những
kỷ luật hà khắc, vô đạo lý như: phạt tiền quá cao, không có chế độ nghỉ ốm đau,
thai sản, nghỉ tang lễ... nhiều chủ doanh nghiệp còn xỉ nhục đánh đập công nhân.
Những vi phạm của giới chủ đã là nguyên nhân dẫn đến nhiều cuộc đình công
của công nhân ở các doanh nghiệp FDI.
Thứ năm, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI chưa
theo đúng yêu cầu của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Năm
1999, trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nhóm mặt hàng nông lâm
thuỷ hải sản đạt 4,4 tỷ USD chiếm 38,2%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu
thủ công nghiệp đạt 4,243 tỷ USD, chiếm 36,8%, còn nhóm hàng công nghiệp
nặng, khai thác dầu thô và than đá đạt 2,880 tỷ USD chiếm 25%. Như vậy cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là các mặt hàng khai thác lợi
thế so sánh tĩnh và tài nguyên rừng, biển và sức lao động. Giá trị kim ngạch xuất
khẩu các sản phẩm có hàm lượng chế biến sâu còn rất khiêm tốn. Theo thống kê
38
chính thức của Bộ Thương Mại, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của FDI là
2,577 tỷ USD so với doanh thu 4,600 tỷ USD thì tỷ lệ giá trị kim ngạch xuất
khẩu chiếm 56% so với doanh thu. Nhưng trong tổng kim ngạch xuất khẩu thì
xuất khẩu dầu thô là 2,019 tỷ USD. Như vậy tỷ lệ xuất khẩu các mặt hàng còn
lại 0,558 tỷ USD chỉ đạt 21,6%. Như vậy gần 80% sản phẩm (trừ dầu thô) của
các doanh nghiệp FDI được tiêu thụ trên thị trường nội địa.
Thứ sáu, vấn đề tài chính và ngoại hối trong khu vực có vốn FDI còn có
những vấn đề bất cập. Việc định giá quá cao các thiết bị máy móc, công nghệ
chuyển vào Việt Nam dưới hình thức góp vốn, đã gây ra sự thiệt hại của bên Việt
Nam. Nhiều dự án, đặc biệt là các dự án liên doanh bị thua lỗ, tình trạng trốn
thuế kê giá để thu trước lợi nhuận chuyển về công ty mẹ, lãng phí, trong việc trả
lương với mức không bị hạn chế cho người nước ngoài làm việc tại liên doanh
với chức danh “chuyên gia”, trong việc quảng cáo nhằm tạo ra uy tín thương
mại, chủ động đẩy “giá đầu vào” ... để thu trước lợi nhuận. Điều đó tất yếu dẫn
tới thua lỗ, đến mất hết vốn pháp định của doanh nghiệp.
Những điều trên là những thách thức đối với công tác quản lý Nhà nước, kể cả
đối với công tác lựa chọn đối tác trong hoạt động FDI.
2.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC ĐỐI TÁC FDI Ở VIỆT NAM
2.2.1. Mục đích thực hiện FDI của các đối tác nước ngoài
Theo nghiên cứu cho thấy, ngoài mục đích chung có tính nguyên tắc khi thực
hiện FDI ra nước ngoài là thu lợi nhuận, các chủ đầu tư còn nhằm thực hiện
những mục tiêu chiến lược riêng có phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước họ thông qua các hoạt động FDI.
Ví dụ, mục đích của các nhà đầu tư Nhật Bản đối với các nước Đông Nam Á nói
chung và đối với Việt Nam nói riêng là nhằm duy trì sự ổn định của nguồn cung
cấp nguyên liệu, lao động rẻ và các yếu tố đầu vào khác. Theo kết quả một cuộc
điều tra của Ngân hàng EXIMBANK (Nhật Bản) vào năm 1996 đối với một số
39
lượng lớn các công ty Nhật Bản có vốn FDI cho thấy mục đích FDI của Nhật
Bản vào Việt Nam chủ yếu là nhằm vào việc đảm bảo cung cấp nguồn lao động
rẻ (65,3%), tiếp đó là phát triển thị trường mới (61,1%), xuất khẩu sang nước
thứ ba (28,4%), tái xuất khẩu về Nhật Bản (25,3%), phát triển thêm cơ sở sản
xuất (24,2%), duy trì và phát triển thị phần (22,1%), cung cấp các chi tiết lắp ráp
(12,6%), và cuối cùng là tránh rủi ro hối đoái (chỉ 8,4%). Mục đích này của Nhật
Bản có sự khác biệt giữa các nước trong cùng khu vực.
Trái với Nhật Bản và một số NICs nhằm chủ yếu vào nguồn lao động rẻ ở Việt
Nam, đầu tư của các nước Âu - Mỹ vào Việt Nam chủ yếu là thu được lợi nhuận
từ việc khai thác một cách triệt để thị trường tiêu dùng tiềm năng với số dân
tương đối lớn.
2.2.2. Phương châm thực hiện FDI của các đối tác nước ngoài
Phương châm chung của các nước thuộc Đông Á cũng như Đông Nam Á khi
vào Việt Nam là thực hiện FDI theo cơ cấu ngành, tuỳ theo trình độ phát triển và
thực lực của mỗi nước về vốn, trình độ công nghệ kỹ thuật cũng như chiến lược
FDI của cả hai phía đối tác đầu tư.
Đối với Nhật Bản phương châm thực hiện FDI theo cơ cấu ngành được thể hiện
theo hướng đầu tư vào lĩnh vực khai thác đối với những nước giàu nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đầu tư vào ngành chế tạo đối với những nước có cả nguồn
tài nguyên thiên nhiên và nhân lực dồi dào với giá rẻ, đầu tư vào lĩnh vực
thương mại và dịch vụ đối với những nước phát triển hoặc những nước mới
công nghiệp hoá với nền công nghiệp có trình độ cao.
Các NICs Đông Á và ASEAN cũng có phương châm đầu tư theo cơ cấu ngành
tương tự như Nhật bản. Tuy nhiên, ngay cả khi thực hiện cùng một phương
châm theo cơ cấu ngành nhưng chiến lược của các đối tác khác nhau cũng dẫn
đến sự khác nhau tùy theo từng dự án đầu tư.
Phương châm đầu tư theo cơ cấu ngành của các nước ASEAN vào Việt Nam
40
được tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, khai thác
dầu mỏ, dịch vụ du lịch khách sạn và tài chính phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó
các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp chiếm một tỷ trọng lớn. Ngoại trừ
Singapore là đối tác thường có những dự án FDI tập trung vào các ngành phát
triển cơ sở hạ tầng, còn các đối tác ASEAN khác đều chủ yếu tập trung vào các
ngành công nghiệp chế tạo, khách sạn, nông và lâm nghiệp ở Việt Nam.
Nhìn chung các nước Âu - Mỹ chú trọng đầu tư vào các nước đã phát triển để có
được lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất mà không chú ý nhiều đến những lợi
thế sơ cấp về tài nguyên và lao động của các nước đang phát triển. Chính vì vậy
phương châm cơ cấu ngành của các đối tác thuộc khối này vào Việt Nam cũng
có sự khác biệt, phần lớn các dự án thường tập trung vào các ngành công nghiệp
như khai khoáng, hoá chất mà không phải là vào ngành chế tạo và xây dựng như
các đối tác Châu Á nêu trên. Những ngành công nghiệp tập trung nhiều kỹ năng
tiếp thị của Mỹ như hàng mỹ phẩm cao cấp hay hàng tiêu dùng cũng nằm trong
cơ cấu ngành mà đối tác này quan tâm. CocaCola và Pepsi Cola của Mỹ ở Việt
Nam là những ví dụ điển hình.
2.2.3. Hình thức thực hiện và quy mô của các dự án FDI tại Việt Nam
Mặc dù hình thức kinh doanh FDI của các nước là rất đa dạng nhưng nhìn chung
các đối tác nước ngoài thực hiện kinh doanh FDI ở Việt Nam chủ yếu dưới các
hình thức liên doanh với đối tác Việt Nam, hình thức 100% vốn nước ngoài và
hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong đó hình thức liên doanh với các đối tác Việt
Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Các dự án có vốn FDI của Nhật Bản liên doanh với một hoặc nhiều đối tác Việt
Nam chiếm tới hơn 60% tổng số dự án và hơn 70% tổng số vốn đầu tư vào Việt
Nam. Với Đài Loan, tính đến hết năm 1995 là năm đỉnh điểm của FDI của Đài
Loan vào Việt Nam, trong số 164 dự án đang hoạt động có tới 81 dự án liên
doanh với các đối tác địa phương với tổng số vốn là 1287 triệu USD, chiếm 49%
tổng số dự án và 67% tổng số vốn đầu tư. Các đối tác ASEAN cũng có hình thức
41
thực hiện FDI ở Việt Nam tương tự. Xu hướng chung gần đây nổi lên là các đối
tác nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng số lượng các dự án dưới hình thức
100% vốn nước ngoài. Theo số liệu thống kê chính thức của JETRO, cơ quan
đại diện về thương mại và đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam, năm 1994, Nhật
Bản mới chỉ có 4 dự án FDI 100% vốn nước ngoài nhưng chỉ tính riêng trong 10
tháng đầu năm 1997 đã có tới 14 dự án dưới dạng này của Nhật Bản được cấp
giấy phép ở Việt Nam.
Các nước Âu - Mỹ đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức liên doanh với
các đối tác Việt Nam để bước đầu thăm dò và thử nghiệm môi trường đầu tư ở
Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thủ tục pháp lý và rủi ro trong
thị trường tài chính cũng như những khác biệt về cách thức kinh doanh và quản
lý của mỗi nước.
Về qui mô của các dự án FDI giữa các nước cũng có những đặc điểm khác biệt.
Nhìn chung dự án của các nước Tây Âu và Mỹ thường có số vốn tương đối lớn,
trong khi các đối tác trong cùng khu vực như Nhật Bản, NICs và ASEAN lại có
dự án ở mức thấp hơn. Các dự án với qui mô vừa và nhỏ chiếm ưu thế trong
kinh doanh FDI ở Việt Nam. Điều này được giải thích trên cơ sở sự khác biệt về
cơ cấu đầu tư theo ngành của các loại đối tác này. Mỹ và các nước Tây Âu
thường chú trọng vào các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao hoặc các
ngành dịch vụ đòi hỏi chi phí quảng cáo tiếp thị lớn do vậy mà vốn đầu tư bình
quân cho một dự án thường ở mức cao, trong khi Nhật Bản và một số đối tác ở
Châu Á chủ yếu tập trung vào ngành chế biến cần nhiều lao động do vậy qui mô
một dự án thường ở mức thấp hơn.
2.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH LỰA CHỌN ĐỐI TÁC FDI TRONG THỰC
TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
42
2.3.1. Những ưu điểm
Cho đến nay hoạt động FDI tại Việt Nam đã được triển khai trên quy mô lớn,
tương đối rộng khắp ở các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn của nền kinh tế quốc
dân với các hình thức đầu tư phong phú và đa dạng và mang lại những kết quả
quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam.
Những ưu điểm của công tác lựa chọn đối tác FDI được thể hiện trước hết ở kết
quả tích cực của hoạt động FDI qua 15 năm triển khai Luật Đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam, ở đội ngũ đông đảo và tiềm lực của các nhà ĐTNN và ở bản thân việc
thực hiện quy trình lựa chọn đối tác FDI đã có những tiến bộ nhất định.
Trên góc độ tạo lập được đội ngũ đông đảo các nhà kinh doanh nước ngoài tại
Việt Nam, thông qua công tác vận động và lựa chọn đối tác FDI, đến nay đã
hình thành được một cộng đồng các doanh nghiệp nước ngoài phong phú, đa
dạng và có tiềm lực trên nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ, lĩnh vực tài chính,
thương mại và có uy tín trong các hoạt động kinh doanh. Chính cộng đồng
doanh nghiệp quốc tế này đã “ đưa” thị trường thế giới đến Việt Nam, đưa
phong cách quản lý kinh doanh hiện đại đến cho các doanh nghiệp Việt Nam và
là cầu nối quan trọng cho các hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam.
Trên góc độ thực hiện quy trình lựa chọn đối tác FDI, các doanh nghiệp, các cơ
quan và tổ chức hữu trách ở Việt Nam bước đầu đã làm quen với phương thức
và tổ chức kinh doanh quốc tế, quan tâm đến các bước trong quy trình và nâng
cao kỹ năng thực hiện các khâu trong đàm phán và lựa chọn đối tác ĐTNN. Mặc
dù hãy còn nhiều khiếm khuyết nhưng về cơ bản công tác lựa chọn đối tác ngày
càng được coi trọng và từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực
này.
2.3.2. Những khó khăn và hạn chế
Những khó khăn và hạn chế trong công tác lựa chọn đối tác FDI cũng được thể
hiện qua những yếu kém và hạn chế trong kết quả của hoạt động FDI, ở những
43
tác động tiêu cực của nó trong nền kinh tế quốc dân, ở những mặt hạn chế của
đội ngũ các nhà ĐTNN đang hoạt động tại Việt Nam cũng như ở chính quá trình
thực hiện các khâu cần thiết trong quy trình lựa chọn đối tác FDI.
Trong phần này, khóa luận chỉ nêu khái quát một số yếu kém, bất cập trong bản
thân quy trình và việc triển khai thực hiện quy trình lựa chọn đối tác FDI được
vận dụng trong thực tế ở các ngành, các cấp, các địa phương. Những yếu kém,
bất cập này liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau, thể hiện tập trung ở một số
nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, định hướng về yêu cầu cần đạt tới đối với việc lựa chọn đối tác FDI chưa
rõ, còn dừng ở những quan niệm rất chung được nêu trong chủ trương, đường
lối hoặc nghị quyết của các cấp, các ngành, trước hết ở cấp trung ương. Điều
này gây nên sự lúng túng của đội ngũ cán bộ trong quá trình triển khai các hoạt
động cụ thể.
Hai là, tiêu chuẩn lựa chọn đối tác FDI chưa được nghiên cứu kỹ và chưa được
thể hiện rõ ràng và thống nhất theo các tiêu chí phản ánh từng mặt trong tiềm lực
của đối tác. Nhận thức về các tiêu chuẩn và căn cứ để lựa chọn đối tác mang tính
chất cảm tính, nặng về mặt lượng, không được quán triệt thống nhất trong đội
ngũ cán bộ chuyên môn. Mặt khác do thiếu thông tin và kinh nghiệm, quan niệm
về tiêu chuẩn lựa chọn đối tác ĐTNN nhiều khi còn máy móc, mang tính hình
thức, chủ quan.
Ba là, công tác thu thập và xử lý thông tin còn chưa kịp thời, chưa đầy đủ, chưa
nhạy bén. Nguồn thông tin chưa đảm bảo độ tin cậy hoặc đã lạc hậu. Bởi vậy
thông tin thu thập còn ở tình trạng chung chung, không phản ánh được những
vấn đề mấu chốt không những về tiềm lực mà cả ý đồ của đối tác. Thiếu cán bộ
có năng lực và có kinh nghiệm trong việc xử lý để chắt lọc được những thông tin
có giá trị.
Bốn là, về phương thức và tổ chức thực hiện quy trình lựa chọn còn chưa đạt
trình độ mong muốn, thiếu sáng tạo. Kỹ năng tổ chức thực hiện các khâu trong
44
quy trình còn hạn chế, chưa phù hợp với đòi hỏi của các nhà đầu tư quốc tế, gây
nên tình trạng thiếu hiểu biết lẫn nhau, tốn nhiều thời gian và công sức để đi đến
quyết định cần thiết trong hoạt động đầu tư. Điều này có thể do những khác biệt
về quan niệm, về thói quen, về tác phong làm việc giữa bên Việt Nam với các
đối tác nước ngoài, cũng có thể là do thiếu các điều kiện vật chất kỹ thuật cần
thiết phục vụ cho công tác tổ chức lựa chọn.
Năm là,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a1.PDF