MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC MALAYSIA 3
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ CON NGƯỜI MALAYSIA 3
1. Vị trí địa lý 3
2. dân số, văn hoá và xã hội 4
2.1 Dân số 4
2.2 Văn hoá xã hội 6
3. Lịch sử, thể chế chính trị của Malaysia 9
3.1 Sơ lược về lịch sử Malaysia 9
3.2 Thể chế chính trị 9
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA MALAYSIA 9
1. Quá trình phát triển của nền kinh tế Malaysia 9
1.1 Thời kỳ 1957 - 1970 9
1.2 Thời kỳ 1970 - 1990 11
1.3 Thời kỳ từ 1991 đến nay 13
2. Vài nét về hoạt động kinh tế đối ngoại của Malaysia những năm gần đây 18
2.1 Hoạt động ngoại thương 18
2.2 Hoạt động đầu tư nước ngoài 24
3. Kinh nghiệm phát triển đất nước của Malaysia 27
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - MALAYSIA 30
I. Quan hệ kinh tế - thương mại Việt nam - Malaysia trước năm 1995 30
1. Quan hệ mậu dịch song phương Việt Nam - Malaysia trước năm 1995 30
2. Quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam - Malaysia trước năm 1995 33
II. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia từ năm 1995 đến nay 35
1. Quan hệ mậu dịch song phương giữa Việt Nam - Malaysia từ năm 1995 đến nay 35
2. Đầu tư của Malaysia vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay 42
2.1 So sánh môi trường đầu tư của Việt Nam với các nước ASEAN khác 42
2.2 Quy mô và cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay 45
2.3 Một số nguyên nhân khách quan và chủ quan hạn chế đầu tư của Malaysia sang Việt Nam 48
3. Một số lĩnh vực khác 51
3.1 Xuất khẩu lao động 51
3.2 Hợp tác du lịch 52
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - MALAYSIA TRONG NHỮNG NĂM TỚI 54
A. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MALAYSIA VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY 54
I. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MALAYSIA 54
II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM 55
B. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - MALAYSIA TRONG NHỮNG NĂM TỚI 59
I. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI SONG PHƯƠNG 59
II. TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ CỦA MALAYSIA VÀO VIỆT NAM 63
III. TRIỂN VỌNG HỢP TÁC LAO ĐỘNG VÀ DU LỊCH 66
1. Triển vọng về xuất khẩu lao động Việt Nam sang Malaysia 66
2. Triển vọng về hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Malaysia 66
C. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ MALAYSIA TRONG NHỮNG NĂM TỚI 67
I. CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC 67
1. Đổi mới chính sách thương mại 67
1.1 Đổi mới chính sách chung trong lĩnh vực thương mại 67
1.2 Đổi mới chính sách công cụ trong lĩnh vực thương mại 72
2. Đẩy mạnh các giải pháp về tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp từ Malaysia 76
2.1 Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư 76
2.2 Cải cách thủ tục hành chính 77
2.3 Tu sửa và xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội 78
2.4. Quy hoạch thu hút vốn FDI 78
3. Các giải phát thúc đẩy hợp tác du lịch và lao động 79
3.1 Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động sang Malaysia 79
3.2 Giải pháp phát triển hợp tác du lịch 79
II. NHỮNG GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP 80
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2777 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Malaysia, quan hệ kinh tế -Thương mại Việt Nam - Malaysia những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khai thác dầu
Khách sạn, cho thuê nhà ở và VP
Xây dựng, kinh doanh, CSHT
Sản xuất bao bì thuỷ tinh
Dệt may
Khách sạn, cho thuê nhà ở và VP
Ô tô
Khách sạn
Lương thực, thực phẩm chế biến
Sản xuất kết cấu thép, kim loại
Khách sạn
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh
100% vốn
nước ngoài
Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh
65
44
24
22
42,707
29,95
50
48,5
15
14,18
10,18
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
II. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia từ 1995 đến nay
1. Quan hệ mậu dịch song phương giữa Việt Nam và Malaysia từ 1995 đến nay
Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia phát triển mạnh trong những năm gần đây. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng hơn 10 lần so với những năm đầu thập kỷ 90. Theo Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch buôn bán hai chiều 5 năm gần đây tăng khoảng 10%/năm. Có được kết quả đó là nhờ sự nỗ lực cố gắng từ phía hai chính phủ. Mặc dù người hồi giáo ở Malaysia đã quen dùng hàng Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc nhưng chính phủ Malaysia đã tạo điều kiện để hàng hóa Việt Nam có thể xâm nhập thị trường này. Malaysia đã công bố danh mục 171 mặt hàng giảm thuế cho Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác giành cho các nước mới gia nhập ASEAN, được chính phủ Việt Nam rất hoan nghênh. Chế độ ưu đãi này nhằm khuyến khích hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Malaysia. Bên cạnh đó doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất sang Malaysia những mặt hàng với thuế suất từ 0 - 5%. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã có những cải cách lớn về chính sách thương mại như: thông qua luật nhằm giảm mức thuế nhập khẩu tối đa xuống 50% (với 6 mặt hàng ngoại tệ); cho phép các doanh nghiệp trong nước được phép xuất khẩu hàng hoá trực tiếp không cần giầy phép xuất khẩu (với những ngoại lệ sau đây: gạo, chất nổ, sách, đá quý, đồ cổ,...) nếu hàng hoá xuất khẩu có liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ; xoá bỏ điều kiện vốn tối thiểu (200 nghìn USD) và điều kiện nhân sự để cho phép các doanh nghiệp đã đăng ký tham gia nhập khẩu nếu như hoạt động nhập khẩu có liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ; tự do hoá việc phân bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo cho khu vực tư nhân bằng cách lần đầu tiên phân bổ hạn ngạch cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; cho phép tư nhân nhập khẩu phân bón. Trong cuộc họp Uỷ ban hỗn hợp (UBHH) hai nước vừa được tổ chức tại Kuala Lumpur tháng 3 năm 2002, hai bên nhất trí cố gắng đưa kim ngạch hai chiều lên 1,75 tỷ USD vào năm 2005.
Những năm cuối của thập kỷ 90, khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở Thái Lan gây hiệu ứng dây chuyền đối với các nước trong khu vực. Mặc dù Việt Nam được coi là một trong những nước ít chịu ảnh hưởng nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước thì đã phải chịu tác động gián tiếp từ những hậu quả mà cuộc khủng hoảng này gây ra cho nền kinh tế Malaisia. Nếu năm 1996, tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước đạt 575,64 triệu USD, tăng 18,6% so với năm 1995 là 396,83 thì năm 1997, tổng kim ngạch chỉ đạt 485,49 triệu USD, tăng có 2% so với năm 1996. Năm 1998, cũng không có cải thiện gì đáng kể. Năm 1999, thương mại hai chiều đạt 550 triệu USD, tăng 4%. Cán cân thương mại của Việt Nam với Malaysia do vậy cũng thường xuyên ở trong tình trạng nhập siêu.
Năm 2000, tổng kim ngạch lên tới 798,39 triệu USD, tăng hơn 50% so với năm 1999. Đây là bước đột phá nhờ nỗ lực của cả hai bên kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Năm 2001 là năm có nhiều biến động trên thị trường quốc tế và khu vực. Đối với hầu hết các quốc gia ASEAN, nơi mà tăng trưởng kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu, sự suy giảm cầu hàng hoá và dịch vụ đồng thời ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản trong năm này đã đẩy các quốc gia này vào tình thế cực kỳ khắc nghiệt. Tăng trưởng kinh tế năm 2001 của Malaysia chỉ đạt 1,5%, thấp hơn so với dự kiến hồi đầu năm và giảm hơn một nửa so với năm 2000. Nhu cầu đối với các sản phẩm điện tử của Malaysia giảm sút không chỉ khiến quốc gia này lao đao mà còn làm cho mặt hàng điện tử của ta không thể xuất khẩu sang đất nước này trong năm 2001. Tuy nhiên tổng kim ngạch buôn bán hai nước vẫn đạt 808 triệu USD, đây là một dấu hiệu rất đáng mừng.
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Malaysia từ 1995 đến 2001:
(Đơn vị tính: triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Của Việt Nam
Sang Malaysia
Nhập khẩu
của Việt Nam
từ Malaysia
Tổng
kim ngạch
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
126,70
150,88
161,20
141,60
180,00
413,48
338,00
270,13
323,76
324,29
386,80
370,00
384,91
471,00
396,83
474,64
485,49
528,40
550,00
798,39
808,00
Nguồn: Tổng cục hải quan
Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia:
(Đơn vị tính: USD)
Tên
Hàng
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Dầu thô
Giầy dép
Hải sản
Dệt may
TCMN
Hạt tiêu
Lạc nhân
Rau quả
Than đá
L.kiện VT
Hạt điều
63500889
73233687
42551993
23040842
5303861
1465244
41251
1587265
3241692
817241
3473859
5086257
487014
577299
11467
36422295
1816031
7623356
57676
97301296
1684126
8114416
7543
429967
486974
3937174
1461219
193770
8928857
62096
46278176
3253568
4020055
136499
207720235
1589559
11433880
25694782
970669
1219033
4414779
1392327
429273
4083863
297290
40631272
2226582
7105787
241457
120109017
2485347
11166510
28268123
1059992
412256
4019977
1372937
391021
2481172
144558
Nguồn: Bộ thương mại.
Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia:
(Đơn vị tính: USD)
Tên hàng
1997
1998
1999
2000
2001
Bông
Chất dẻo NL
Dầu mỡ ĐTV
Đường
Kính xây dựng
Linh kiện ĐT, VT
Máy, tbị, p.tùng
Ô tô chiếc
Phân bón
Sắt thép
Tân dược
Thuốc trừ sâu
Xăng dầu
Xe máy CKD, IKD
Clinhker
22169
738624
1631474
378834
2498895
7559574
498157
2875050
124950
607517
13045688
43659835
24940
30684
26223272
31775310
43400
2092319
5111935
3049674
236775
10431376
2939818
7403
53800474
31962604
132000
2649969
2731017
30748547
4623419
24798935
46295237
31798816
22897
6656923
1995317
3370646
61207742
1795254
Nguồn: Bộ thương mại
Sáu tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của ta sang Malaysia đạt 166,2 triệu USD, tăng 2,4%, nhập khẩu đạt 249,5 triệu USD, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm 2001. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta vẫn là những mặt hàng truyền thống như: gạo, cà phê, cao su, chè, dầu thô, lạc nhân... Kim ngạch một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của ta sang thị trường này có nhiều biến động trong 6 tháng đầu năm 2002. Trong đó, cao su tăng 154% so với cùng kỳ năm 2001 do nguồn cung cấp cao su trên thế giới cho Malaysia tạm thời giảm.Trong khi đó nhu cầu cao su của thế giới lại có dấu hiệu phục hồi làm tăng nhu cầu nhập khẩu để sản xuất cao su xuất khẩu của Malaysia. Để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu cao su cần chú trọng đa dạng hoá sản phẩm, không nên tăng thêm diện tích cao su. Đối với số diện tích đã có cần tập trung chăm bón để nâng cao năng suất và hạ giá thành. Những khu vực đã quá hạn khai thác thì phá bỏ, cải tạo đất và đưa giống tốt vào trồng lại, bảo đảm cho mủ chất lượng cao; giầy dép tăng 87,5% so với cùng kỳ năm 2001 nhưng vẫn chưa tương xứng với năng lực sản xuất. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam duy trì, nâng cao chất lượng, uy tín đồng thời đầu tư công nghệ, tăng trị giá sản phẩm xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh thì khả năng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường nước bạn sẽ tăng nhanh hơn vào thời gian tới; gạo giảm 45%, mặc dù giá bình quân so với cùng kỳ năm 2001 tăng khoảng 21 - 23 USD/tấn FOB nhưng do lượng xuất sang thị trường này giảm tới 54,36%.Trong khi giá gạo xuất khẩu của chúng ta có xu hướng tăng thì giá gạo thế giới vẫn khá ổn định, không có biểu hiện tăng mạnh (gạo 25% của Thailan là 173 USD/tấn, của Pakistan là 158 USD/tấn, của ấn Độ là 130 USD/tấn). Theo Bộ thương mại, sở dĩ giá lúa của ta liên tục đứng ở mức cao trong các tháng vừa qua là do năm nay không có gạo gối đầu từ năm ngoái, từ tháng 3 đến nay một lượng gạo lớn ở các tỉnh phía Nam đã được mang ra bán ở miền Bắc. Về cơ bản vụ lúa Đông Xuân 2001 - 2002 đã được tiêu thụ hết, số gạo còn lại trong dân không đáng kể nên lượng gạo xuất khẩu bị hạn chế. Thị trường Malaysia, chúng ta có thể tăng xuất khẩu nhưng do giá gạo trong nước cao hơn giá xuất khẩu nên đã dẫn tới giảm về lượng nói trên; linh kiện máy tính giảm 48%, nguyên nhân chính là do: thị trường bão hoà, chất lượng hàng hoá chưa ổn định và chưa phát triển đồng bộ hàng điện tử, công nghiệp, máy vi tính - phần mềm so với điện tử dân dụng. Nhưng xét một cách tổng quan chúng ta vẫn có thể tăng xuất khẩu mặt hàng này nếu khắc phục được những tồn tại về khả năng cạnh tranh như giá, chất lượng và điều kiện giao hàng.
Một số mặt hàng khác như: hải sản giảm 14% do giá bán giảm, nguồn hàng thiếu ổn định, lạc nhân tăng 126,6%; rau quả giảm 14,9% do vướng mắc về thủ tục từ phía bạn đồng thời nguồn hàng cũng gặp khó khăn nhất là dứa cung ứng cho các nhà máy chế biến. Về lâu dài, cần sớm hình thành các vùng nguyên liệu tập trung để quản lý tốt hơn chất lượng sản phẩm, loại trừ việc sử dụng thuốc thực vật bị cấm, đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch để giảm sức ép tiêu thu trong thời gian ngắn đầu vụ; hạt tiêu tăng 16,26% nhưng với tăng về lượng là chủ yếu. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, phấn đấu đưa giá tiêu của ta trên thị trường này tiến gần hơn giá tiêu bình quân của các đối thủ cạnh tranh khác cần có sự cải tạo về giống, kỹ thuật để đảm bảo chất lượng đồng đều của sản phẩm.
Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta sang thị trường này là những mặt hàng nguyên liệu thô và nông lâm hải sản sơ chế. Tuy nhiên hàng của ta có hạn chế là do kỹ thuật sơ chế chưa tốt nên sản phẩm không được đồng đều và do vậy còn nhiều hạn chế trong tiếp cận và duy trì thị phần. Đồng thời do giá cả, chất lượng, bao gói, khả năng đảm bảo ổn định nguồn hàng, duy trì tín nhiệm của khách hàng, cước phí vận tải cao,...nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn thấp.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang Malaysia 6 tháng đầu năm 2002, so sánh với 6 tháng đầu năm 2001:
Tên hàng
6 tháng
đầu năm 2001
(USD)
(1)
6 tháng
đầu năm 2002
(USD)
(2)
Tăng /giảm
(%)
(2)/(1)
Cao su
Dầu thô
Cà phê
Gạo
Giầy dép
Hải sản
Dệt may
Rau quả
TCMN
Hạt tiêu
Lạc nhân
Máy tính, LK
SP gỗ
SP nhựa
3196597
57849618
1059945
23346351
626506
4757990
13643406
617488
5633030
252919
1679202
81045
1910373
1234297
8122174
80725955
1058478
12808033
1174562
4103454
11166920
709656
469965
293566
3805611
449769
5455452
1316629
154,00
39,54
-0,09
45,00
87,50
-13,74
22,17
14,90
-16,70
16,26
126,60
-47,85
186,60
6,60
Tổng XK 6 tháng
162561443
66230471
2,4
Nguồn: Bộ thương mại
Về nhập khẩu, các mặt hàng ta nhập từ thị trường này là những mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, một phần để tái xuất khẩu sau khi đã có thêm phần giá trị gia tăng do sử dụng lao động trong nước như mặt hàng linh kiện điện tử, máy tính, linh kiện xe máy, sắt thép chuyên dụng, xăng dầu tinh lọc,...Nhìn vào bảng thống kê dưới đây cho thấy một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao như: Phân bón tăng 95% (đạt 2,7 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2001. Khối lượng phân bón nhập khẩu tăng nhanh chủ yếu do giá phân bón của Malaysia vẫn ở mức thấp (phân U rê khoảng 110USD/tấn), các doanh nghiệp chuẩn bị lực lượng cho vụ hè - thu. Bên cạnh đó sản xuất phân bón của các doanh nghiệp trong nước giảm khoảng 13% (tuỳ từng loại phân, riêng phân Lân giảm 21% do giá thành cao hơn hàng nhập khoảng 10 - 12 USD/tấn); linh kiện điện tử tăng 85% đạt 25,5 triệu USD, đặc biệt máy, thiết bị, phụ tùng tăng 112,66% đạt 25,18 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này tăng chủ yếu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và để phục vụ gia công hàng xuất khẩu là chính. Một số mặt hàng lại có chiều hướng giảm mạnh về kim ngạch như: xăng dầu giảm 560% so với cùng kỳ năm 2001 do giá xăng dầu tiếp tục tăng, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, mặc dù nhà nước đã có 4 lần điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu giúp các doanh nghiệp đảm bảo kinh doanh, cung ứng xăng dầu. Đồng thời một số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu không mua được ngoại tệ nên việc nhập khẩu rất khó khăn; thuốc tân dược giảm 71,8% so với cùng kỳ năm 2001 do nhà nước có các quyết định mới quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu tân dược. Linh kiện xe máy giảm 26,96% do một số chủ trương mới của Chính phủ. Đây là một trong những thị trường cung cấp linh kiện xe máy lớn cho Việt Nam, tuy nhiên, việc giảm khối lượng nhập khẩu từ thị trường này chưa làm xuất hiện tình trạng tăng giá đột biến trên thị trường nội địa.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam từ Malaysia 6 tháng đầu năm 2002, so sánh với 6 tháng đầu năm 2001:
Tên hàng
6 tháng đầu 2001
(USD)
(1)
6 tháng đầu 2002
(USD)
(2)
Tỷ lệ tăng/giảm
(%)
(2)/(1)
Chất dẻo NL
Linh kiện ĐT
Máy, TB, PT
NPL dệt may
Phân bón
Sắt thép
Tân dược
Xăng dầu
L.kiện xe máy
9100170
16963382
11841103
4430515
1385755
1004748
2778990
41322383
839508
12946246
25504381
25182024
6200467
2701683
953645
784655
18142246
6150225
42,26
85,00
112,66
39,95
95,00
-5,07
-71,80
-560,00
-26,96
Tổng NK 6 tháng
219216461
294506663
34,20
Nguồn: Bộ thương mại.
2. Đầu tư của Malaysia vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay
2.1. So sánh môi trường đầu tư của Việt Nam với các nước ASEAN khác:
Về dung lượng thị trường, với số dân 79715410 người (nguồn: Niên giám thống kê năm 2002 - tính đến tháng 7/2002), Việt Nam là nước đông dân thứ hai sau Indonesia trong ASEAN. Song, vì GDP bình quân đầu người của Việt Nam thấp nhất trong khối nên khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế chỉ đạt hơn 19 tỷ USD một năm, đứng thứ 5 trong 6 nước xem xét là Indonesia, Thailan, Malaysia, Philippin, Việt Nam và Singapo. Đặc biệt, riêng Singapo là nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất nhưng lại có số dân ít nhất nên dung lượng thị trường nhỏ (6,8 tỷ đôla) và được xếp đứng cuối cùng trong bảng xếp hạng.
Về tiềm năng thị trường, các nước ASEAN đều có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao hơn của thế giới và của các nước đang phát triển. Từ đầu thập kỷ 80, hầu hết các quốc gia ASEAN đều duy trì một tốc độ tăng trưởng cao nhất và Phillipin có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Việt Nam cũng duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng khoảng 7%/năm. Tỷ lệ tích luỹ nội bộ cao nhất là Singapo (trên 50%), Thailan và Malaysia tích luỹ khoảng 30%, Indonesia khoảng 15%, Việt Nam có tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp nhất trong số các nước ASEAN. Với tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp như vậy, Việt Nam sẽ phải là nước dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài mạnh mẽ nhất để duy trì được một tốc độ tăng trưởng cao bền vững.
Về tính ổn định của nền kinh tế, sự thay đổi trong chỉ số hàng hoá tiêu dùng của Việt Nam là biến động lớn nhất và ổn định nhất là Singapo, tiếp đến là Malaysia, Thailan, Indonesia và Phillipin. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hồi năm 97 - 98, Việt Nam là một trong số ít các nước hầu như không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của nó.
Về khả năng chuyển đổi đồng ngoại tệ, trong ASEAN, trừ đồng tiền của các nước là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanma, còn lại các đồng tiền của các nước khác đều có khả năng chuyển đổi và buônbán tự do trên các thị trường ngoại hối trong và ngoài nước. Riêng Brunei và Singapo còn có một thoả thuận riêng, cho phép đồng tiền của hai nước này có thể chuyển đổi ngang. Về dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác, trừ Lào, Myanma và Campuchia.
Về mức độ phát triển cơ sở hạ tầng, xét theo mức tiêu dùng năng lượng bình quân đầu người thì Việt Nam đạt thấp nhất (thấp hơn 5 lần của Phillipin, 800 lần của Singapo và 1000 lần của Brunei). Số đầu người trên một máy điện thoại ở Singapo đạt mức cao nhất (2,1 người /1máy) và ở Việt Nam đat mức thấp nhất (154 người /1máy), tỷ lệ này ở đối với Malaysia, Thailan, Phillipin và Indonesia lần lượt là 7/1, 19/1, 37/1 và 54/1. Những so sánh cụ thể về cơ sở hạ tầng như sân bay, bến cảng, năng lượng, vận tải, viến thông... của Việt Nam với các nước ASEAN khác cho thấy mức độ phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn thua kém rất nhiều nước ASEAN khác.
Về chi phí lao động, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nguồn lao động dư thừa với giá rẻ. Mức lương lao động ở Việt Nam là thấp nhất trong số các nước thành viên ASEAN, do đó có nhiều khả năng để thu hút đầu tư vào những ngành sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh tiền lương với năng suất lao động thì lợi thế của Việt Nam về chi phí rẻ và dồi dào sẽ không được như mong đợi. Indonesia có mức lương cao hơn Việt Nam 10% song năng suất lao động lại cũng cao hơn Việt Nam 10%, do đó sẽ có lợi thế hơn Việt Nam nếu xét về chi phí sản xuất.
Về chính sách đầu tư, Việt Nam không phải là quốc gia có chính sách đầu tư hấp dẫn nhất trong quan hệ so sánh về khung thể chế, khuyến khích về thuế, tính đơn giản trong thủ tục đầu tư,...Singapo là nước có chính sách đầu tư tự do nhất, tiếp đến là Thailan và Malaysia, Việt Nam và Phillipin.
Về mức độ phát triển của hạ tầng xã hội, Việt Nam đã ban hành khung thể chế pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tai Việt Nam biểu hiện ở Luật đầu tư nước ngoài 1987 và đến nay đã được sửa đổi 3 lần. Đây có thể coi là một trong số các Luật đầu tư thông thoáng nhất trong khu vực. Tuy nhiên, giữa Luật và các văn bản dưới luật lại không có sự thống nhất rõ ràng, làm ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư. Trên thực tế, tính hiệu lực của các Luật là rất thấp trong quan hệ so sánh với tính hiệu lực của các Luật đầu tư của các nước trong khu vực.
Như vậy Việt Nam có lợi thế nhất về chi phí lao động so với các quốc gia khác, song lại kém về môi trường đầu tư như cơ sở hạ tầng, hạ tầng cơ sở kỹ thuật, tỷ lệ tích luỹ nội bộ, thuế và ngay cả về mức độ mở của chính sách đầu tư Việt Nam vẫn đứng sau Singapo, Thailan và Malaysia.
2.2. Qui mô và cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay
Để tăng cường thu hút đầu tư từ Malaysia, trong những năm qua chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư như: Sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, cho phép các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài mua cổ phần hoặc đóng góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước gồm các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa; thông qua nghị định mới về đầu tư nước ngoài, đưa ra những khuyến khích bổ sung cho các nhà đầu tư và ban hành qui chế thực hiện cho từng ngành; Chính phủ bắt đầu các cuộc đối thoại giữa khu vực nhà nước và tư nhân để hiểu rõ hơn các hạn chế mà các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân phải đương đầu, một đường dây nóng đã được thiết lập để giải quyết những vấn đề khiếu nại.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng thực tế cho thấy, thu hút đầu tư của Malaysia vào nước ta những năm qua đã gặp rất nhiều khó khăn và kết quả không được như mong muốn. Điều này không nằm ngoài xu hướng suy giảm chung của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam những năm cuối thập kỷ 90. Nguyên nhân của những biến động bất thường trong đầu tư của Malaysia vào Việt Nam sẽ được đề cập ngay trong phần 2.3.
Tính đến 20 - 12 - 2001, Malaysia đứng thứ 12 trong 41 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 102 dự án và tổng số vốn đăng ký là 1,018 tỷ USD, vốn thực hiện là 1,034 tỷ USD. Cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam hiện nay như sau:
- Công nghiệp: 52,28%
- Khách sạn: 17,39%
- Dầu khí: 13,95%
- Khu chế xuất: 8,55%
- Xây dựng: 5,42%
- Ngân hàng: 1,59%
- Viễn thông: 0,82%
Một số dự án có vốn đầu tư lớn của Malaysia tại Việt Nam tính đến 31/12/2001
Tên dự án
Lĩnh vực đầu tư
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Địa bàn đầu tư
Cảng quốc tế
Vũng Tàu
BOT
191,1
Bà Rịa -
Vũng Tàu
Ô tô Nissan
Sản xuất ô tô và phụ tùng
110
Đà Nẵng
E - HSIN Việt Nam
Sản xuất dây điện, dây tráng men
93,6
Đồng Nai
Việt Nam - Malaysia
Ltd
Khách sạn
79
Hà Nội
Nhựa và Hoá chất
Phú Mỹ
PVC
70
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đầu tư và Phát triển
Du lịch Hạ Long
Khách sạn 5 sao
68
Quảng Ninh
Petronas Carigaliover
Dầu khí
65
Ngoài khơi
Khách sạnGrandImperialSaigon
Khách sạn
58,6
TP. Hồ Chí Minh
Khai thác dầu khí
Dầu khí
45
Ngoài khơi
Bột mỳ Vinaflour
Bột mỳ
39
Quảng Ninh
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư
2.2.1. Qui mô đầu tư:
Từ vị trí thứ 7 trong bảng xếp hạng qui mô đầu tư của các nước vào Việt Nam năm 1995, Malaysia chuyển xuống vị trí thứ 12 vào năm 2001 như đã nêu trên. Qui mô trung bình mỗi dự án có vốn đầu tư từ Malaysia giai đoạn này là 5,37 triệu USD, giảm 3 lần so với giai đoạn trước năm 1995 (17,2 triệu USD/1 dự án).
Các dự án đầu tư của Malaysia tại Việt Nam được cấp mới giấy phép giai đoạn 1995 - 2001:
(Đơn vị tính: triệu USD)
Năm
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
10
12
7
5
8
17
13
143,43
88,1
76,34
16,3
21,59
32,93
8,38
Tổng
72
387,07
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có sự biến động thất thường về qui mô đầu tư giữa các năm. Năm 1995 tổng vốn đầu tư đạt 143,43 triệu USD nhưng sang năm 1996 chỉ còn 88,1 triệu USD, giảm 60% và tiếp tục giảm trong 2 năm tiếp theo. Đến cuối năm 1998 tổng vốn đầu tư mới chỉ có 16,3 triệu USD. Trong hai năm này, có tới 8 dự án bị rút giấy phép do không triển khai và phía Malaysia không góp đủ tỉ lệ vốn qui định đồng thời có 5 dự án cũ phải ngừng hoạt động hoặc xin giải thể do kinh doanh không có hiệu quả. Hàng nghìn lao động Malaysia và Việt Nam bị thất nghiệp.
Tình hình được cải thiện vào năm 1999 và năm 2000 số dự án cũng như tổng vốn đầu tư đã tăng, tuy nhiên, tỉ trọng vốn cho mỗi dự án lại khá thấp, trung bình chỉ có 1,374 triệu USD/1 dự án đồng thời tốc độ triển khai còn chậm. Và nguồn đầu tư này lại suy giảm mạnh vào năm 2001. Số dự án giảm 23%, tổng vốn đầu tư giảm 75%.
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có dấu hiệu phục hồi dòng vốn đầu tư này trong năm 2002 mặc dù chính sách hiện nay của Chính phủ Malaysia vẫn là ưu tiên phục hồi kinh tế trong nước. Tính đến tháng 10 năm 2002 có 18 dự án đã được cấp phép với tổng vốn đầu tư là 73,74 triệu USD. Tuy nhiên còn quá sớm khi kết luận về hiệu quả của những dự án này.
2.2.2. Cơ cấu đầu tư:
Cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam giai đoạn 1995 - 2001
STT
Tỉnh, thành phố
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
1
2
3
4
5
6
7
8
Bình Dương
TP Hồ Chí Minh
Đồng Nai
Hà Nội
Tây Ninh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Đà Nẵng
Các tỉnh thành còn lại
20
13
12
8
5
4
2
8
85,95
56,15
96,75
44,94
10,66
81,23
5,2
6,19
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Các dự án đầu tư của Malaysia tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm có cơ sở hạ tầng tốt và nguồn lao động dồi dào như tỉnh Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai, thành phố Hà Nội.
2.3. Một số nguyên nhân khách quan và chủ quan hạn chế đầu tư của Malaysia sang Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân khách quan:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á không những làm suy giảm lượng vốn đầu tư của Malaysia vào Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến tốc độ triển khai và thực hiện các dự án. Đây cũng là nguyên nhân làm cho số lượng dự án liên tục giảm trong 2 năm 1997 và 1998.
Nếu năm 1999 và 2000 đánh dấu bước phục hồi đáng khâm phục của nền kinh tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á thì năm 2001 lại là năm chứng kiến sự suy giảm trầm trọng ở khu vực này. Malaysia - nước thành viên mở cửa mạnh hơn so với các thành viên khác trong khối, tăng trưởng kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu đã phải hứng chịu tác động khốc liệt từ nguyên nhân suy giảm chung. Đó là sự suy giảm cầu hàng hoá và dịch vụ đồng thời ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản. Nền kinh tế Malaysia vận hành êm xuôi cho đến hết quý I - 2001 với tốc độ tăng trưởng đạt 3,2%. Tuy nhiên, nhu cầu đối với các sản phẩm điện tử của Malaysia giảm sút đã khiến quốc gia này lao đao. Hết quý II - 2001, tăng trưởng kinh tế Malaysia chỉ đạt khoảng 0,7% so với 2,5% dự kiến trước đó. Chính phủ cũng đã hạ thấp dần dự báo tăng trưởng kinh tế từ 7% hồi đầu năm xuống 5% - 6% vào giữa năm, cuối cùng chỉ còn khoảng 1,2% vào đầu tháng 11 - 2001. Cuộc tấn công của chủ nghĩa khủng bố vào nước Mỹ ngày 11 - 9 - 2001 và cuộc chiến trả đũa mà Mỹ và đồng minh tiến hành ở Apganixtan dường như làm trầm trọng thêm mức độ suy giảm của quốc gia này. Tình trạng xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ trì trệ, số lượng khách du lịch từ Mỹ sang giảm, ngành du lịch và ngành hàng không thất thu,... tất cả đã cộng hưởng khiến cho tình hình kinh tế Malaysia nói chung thêm ảm đạm vào những tháng cuối năm. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư rụt rè hơn khi quyết định đầu tư ra nước ngoài.
Do vậy, năm 2002, Malaysia ưu tiên phục hồi kinh tế trong nước, kiểm soát và hạn chế dòng vốn ra nên chưa thể đẩy mạnh đầu tư sang Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ thương mại, đầu tư của Malaysia vào Việt Nam sẽ tăng lên khi kinh tế Malaysia phục hồi hoàn toàn.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Bộ ngoại giao Malaysia cho biết nhiều doanh nghiệp của họ phàn nàn rằng môi trường đầu tư của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa luan tot nghiep.doc