Khóa luận Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới

MỤC LỤC

 

Trang bìa

Mục lục

Một số ký hiệu các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Lời nói đầu

 

Chương 1 – Tổng quan chung về môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.

I – Tổng quan về môi trường kinh doanh

1- Khái niệm về môi trường kinh doanh

2- Phân loại về môi trường kinh doanh

3- Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh

II – Các loại môi trường kinh doanh

1- Môi trường vĩ mô

1.1- Môi trường kinh tế

1.2- Môi trường chính trị

1.3- Môi trường pháp lý

1.4- Môi trường văn hóa

2- Môi trường vi mô

2.1- Các đối thủ cạnh tranh

2.2- Các nhà cung cấp

2.3- Người mua

 

Chương 2 - Thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt nam

I – Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt nam (1991-2002)

1- Thực trạng chung từ kinh tế

2- Thực trạng về xuất khẩu

a- Qui mô, tốc độ

b- Cơ cấu xuất nhập khẩu

c- Cơ cấu thị trường

II - Đánh giá thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu

1- Môi trường chính sách vĩ mô

2- Môi trường vi mô

Chương 3 – Định hướng phát triển xuất khẩu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010

I- Định hướng phát triển kinh tế và thương mại thế giới đến năm 2010.

1- Dự báo tình hình phát triển và thương mại thế giới.

2- Định hướng và chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam đến năm 2010.

II – Kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu.

1- Hoàn thiện môi trường vĩ mô.

1.1 – Tiếp tục mở rộng quyền hoạt động kinh doanh XNK cho thương nhân.

1.2 – Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và cải cách thủ tục hành chính.

1.3 – Tiếp tục đổi mới các chính sách tiền tệ, tài chính, tín dụng.

1.4 – Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

1.5 – Tăng cường các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm tiếp cận và mở rộng thị trường.

2- Hoàn thiện môi trường vi mô.

2.1 – Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và khả năng lựa chọn định vị thị trường và mặt hàng XK của doanh nghiệp.

2.2 - Tăng cường năng lực tài chính của các doanh nghiệp.

2.3 - Đổi mới kỹ thuật công nghệ.

2.4 - Nâng cao trình độ quản lý kinh doanh.

2.5 - Nâng cao trình độ nguồn nhân lực.

2.6 - Đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các DNTM với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

doc96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o và nhiều dòng thuế phát sinh do chi tiết hoá các dòng thuế chỉ có ở cấp 4 hoặc 6 chữ số trước đây. Tình hình điều chỉnh các danh mục GEL và SEL: Danh mục GEL: Tháng 3/1998, Việt Nam đã thực hiện đợt đầu tiên rà soát lại danh mục GEL và đã chuyển 34 nhóm mặt hàng sang danh mục TEL … đưa tổng số nhóm mặt hàng của danh mục GEL là 213 xuống còn 125. Danh mục SEL: Tháng 12/1997, Việt Nam thực hiện chuyển 6 mặt hàng từ danh mục SEL sang TEL và chuyển 3 mặt hàng đường từ danh mục TEL sang SEL, đưa số mặt hàng trong danh mục mày xuống còn 23. Tháng 11/1998, trên tinh thần đẩy mạnh AFTA Việt Nam đã thực hiện chuyển tiếp 6 mặt hàng sang TEL. Tính đến nay, số mặt hàng trong danh mục SEL của Việt Nam là 17 mặt hàng. Đến nay, Việt nam đã có quan hệ thương mại với trên 160 nước, đã ký được Hiệp định thương mại với trên 61 nước, chính thức tham gia ASEAN và AFTA, APEC, có hiệp định khung và hiệp định hàng dệt may với EU, đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ và đang đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Với chính sách mở cửa thị trường theo phương thức đa phương hoá, đa dạng hoá nên cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch tương đối lớn. Trước năm 1990 từ chỗ chủ yếu là xuất nhập khẩu với các nước châu Âu mà đặc biệt là các nước đông Âu đã chuyển sang các nước châu á. Năm 1991 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với các nước châu Âu là 17%, với các nước châu á tỷ lệ này là 77%, tỷ lệ xuất khẩu vào các nước Châu Mỹ, Châu Phi và Châu úc không đáng kể. Với phương châm không tập trung quá lớn vào 1 khu vực thị trường ở Châu á và tập trung khôi phục thị trường truyền thống ở một số nước Châu Âu nên tỷ lệ xuất khẩu vào thị trường Châu Âu hiện nay đã tăng lên đến 26% và các nước Châu á là 58,4%. Đặc biệt là tỷ lệ xuất khẩu vào thị trường châu Mỹ và các châu lục khác tiếp tục tăng, năm 2000 tỷ lệ này là gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó tỷ lệ nhập khẩu từ các nước Châu á vẫn tiếp tục tăng và từ châu Âu vẫn tiếp tục giảm, nhập khẩu từ châu Mỹ tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ. Trong cơ cấu bạn hàng và thị trường hiện nay đang xuất hiện các bất lợi. Các nước trong khu vực đều có cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu giống nhau nên việc xuất khẩu vào thị trường này tăng lên chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế, việc chuyển sang cơ cấu hàng chế biến và chế biến tinh sẽ gặp khó khăn. Mặt khác, nhập khẩu từ các nước này chưa phải là công nghệ nguồn, phần lớn là công nghệ trung gian hoặc công nghệ đã lạc hậu của các nước có nhu cầu thay đổi. Nếu không xử lý tốt vấn đề trên sẽ dẫn tới sự lạc hậu về công nghệ kéo dài, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sẽ giảm đi, thâm hụt thương mại rất khó khắc phục. Đặc biệt, có tới gần 1/3 kim ngạch buôn bán của Việt Nam với nước ngoài được thực hiện ở khu vực thuộc "Kinh tế đại Trung Hoa" và hiện tượng liên tục xuất siêu với Nhật Bản và các nước công nghệ nguồn cũng là vấn đề cần quan tâm và cần có biện pháp xử lý. Về thủ tục hải quan Sau hơn 10 năm đổi mới, ngành hải quan đã có những bước tiến quan trọng kể cả trên phương diện hoàn thành các chính sách và quy định về thủ tục Hải quan, đến rút ngắn thời gian kiểm tra và thông quan. Đồng thời, chúng ta đã ký kết với một số nước trên thế giới và trong khu vực về công nhận kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, còn một số vấn đề tồn tại liên quan đến công tác hải quan tại cửa khẩu như sau: Biểu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta còn quy định chưa rõ ràng nên hải quan còn chi phí nhiều thời gian để xem xét và áp mã thuế. - Quy định giá tối thiểu để làm cơ sở cho việc áp mức thuế không phù hợp với thông lệ quốc tế và không phù hợp với giá trị trong hợp đồng. - Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, ở nhiều cửa khẩu chưa được nối mạng máy tính với Tổng cục Hải quan, thiếu các phương tiện hiện đại để kiểm tra nên phải sử dụng lao động thủ công làm kéo dài thời gian và tăng chi phí cho doanh nghiệp. - Các dịch vụ khai thuê Hải quan chưa phát triển. - Chi phí lưu kho, bãi để làm thủ tục hải quan còn cao. Chính sách tiền tệ và tỷ giá Hiện nay ở nước ta có 6 ngân hàng thương mại quốc doanh (kể cả ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long; 31 Chi nhánh của 26 ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 47 ngân hàng thương mại cổ phần, 7 công ty tài chính, 8 Công ty cho thuê tài chính. Các ngân hàng thương mại quốc doanh hiện đang đóng vai trò chủ lực, chiếm trên 70% thị phần trong phạm vi cả nước về cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam và liên doanh với ngân hàng Việt Nam đều là những ngân hàng lớn có uy tín trong khu vực và trên thế giới nên độ an toàn khá cao. Hoạt động của hệ thống ngân hàng có thể đảm bảo cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có một số yếu tố tác động không có lợi cho hoạt động xuất khẩu vẫn tiếp tục tồn tại là: - Còn có một số nước chúng ta chưa ký hiệp định về công nhận thanh toán hoặc đồng tiền của nước nhập khẩu chưa chuyển đổi được nên doanh nghiệp phải nhập khẩu hàng hóa theo phương thức hàng đổi hàng hoặc phải quy đổi ra ngoại tệ mạnh. - Lãi suất trần đối với vốn lưu động do ngân hàng nhà nước quy định còn cao hơn so với các nước khác. - Nhìn chung ngân hàng Nhà nước chỉ chấp thuận cho các doanh nghiệp nhà nước vay. - Việc quy định bắt buộc doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải bán ngoại tệ cho ngân hàng Nhà nước trong điều kiện tỷ giá hối đoái biến động đã không kích thích được doanh nghiệp. - Các nước trong khu vực và một số nước đã áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng chúng ta còn duy trì tỷ giá không có lợi cho hoạt động xuất khẩu, tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD không phản ánh được giá trị thực của đồng tiền ở nhiều thời kỳ. Về cơ sở hạ tầng Mặc dù Nhà nước đã đầu tư nhiều cho phát triển cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ cho tập trung kinh tế và hoạt động xuất khẩu nhưng cơ sở hạ tầng của nước ta còn kém, chỉ ở mức trung bình của các nước có thu nhập thấp. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, khối lượng hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt và đường bộ đã tăng lên 2 lần trong 10 năm qua, bằng đường thủy nội địa tăng 70% và bằng đường biển tăng gấp 6 lần. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ đường giao thông trải nhựa ở Việt Nam (25%) cao hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp (18%) thì tỷ lệ đường giao thông trải nhựa trong tình trạng không tốt (91%) lại lớn hơn gấp 4 lần so với mức trung bình của các nước đang phát triển (20%). So sánh với Thái Lan thì đường sắt Việt Nam chuyên chở chỉ bằng 2/3 khối lượng hành khách nhưng cước phí vận chuyển lại cao hơn Thái Lan. Tỷ lệ số máy điện thoại trên một nghìn dân của Việt nam là 26 máy, trong khi đó tỷ lệ này ở các nước đang phát triển là 37 máy/1000 dân, số máy thuê bao Internet của Việt Nam còn đạt tỷ lệ rất thấp… Có thể khái quát chung về môi trường vĩ mô qua thứ hạng cạnh tranh chung và một số chỉ tiêu về cạnh tranh ở cấp độ quốc gia theo bảng 6. Bảng 6: Thứ hạng về tính cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế Đông á. Thứ hạng chung Độ mở cửa Vai trò chính phủ Tài chính Kết cấu hạ tầng Công nghệ Quản trị Lao động Thể chế Singapo 1 3 1 1 2 1 7 2 9 Hồng Kông 2 1 2 4 1 21 13 1 9 Đài Loan 8 12 8 11 28 17 18 3 28 Malaisia 9 16 6 6 8 23 20 20 26 Indonêsia 15 5 5 25 22 29 32 6 37 Thái Lan 18 8 4 13 19 40 34 24 43 Hàn Quốc 21 38 10 9 21 26 29 14 32 Trung Quốc 29 48 12 16 40 37 43 8 24 Philipin 34 39 13 35 32 35 23 32 46 Việt Nam 49 53 11 43 34 31 51 35 45 Nguồn: Số liệu tổng hợp điều tra nghiên cứu của diễn đàn kinh tế thế giới (World Econonnc Forum WEF) tiến hành ở 53 nước (Năm 1997). Theo thứ hạng chung trong bảng, Việt nam đứng thứ 49 trong số 53 nước thuộc diện khảo sát nghiên cứu năm 1997. Năm 1999 đứng ở vị trí 48 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính quốc tế hóa. Xếp hạng của Việt nam năm 2001 là 62 trên 75 nước. Trong đó xếp hạng hoạt động doanh nghiệp và chiến lược là 64/75; xếp hạng chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia là 64/75. 2. Môi trường vi mô: Xét ở giác độ cạnh tranh ở cấp doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp của nước ta có quy mô nhỏ so với doanh nghiệp của các nước khác, thiết bị công nghệ, máy móc lạc hậu hơn, trình độ quản lý và kinh doanh còn ở mức trung bình. Phần lớn các doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược phát triển kinh doanh, cách ứng xử trong kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu nhằm vào các mục tiêu ngắn hạn, trước mắt. Không hiếm doanh nghiệp hầu như không hoặc hoàn toàn không đầu tư cho nghiên cứu phát triển, tiếp thị và đào tạo huấn luyện. Nhiều doanh nghiệp không tự chủ về công nghiệp kiểu dáng và không tổ chức tiếp thị ở cả thị trường trong nước và nước ngoài. Doanh nghiệp thường trú trọng qúa mức đến "thái độ" của Nhà nước và coi đó là nhân tố lớn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình và cố gắng dành được giấy phép, hạn ngạch, trợ cấp và chính sách bảo hộ càng nhiều càng tốt hơn là quan tâm đến việc hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta thường phải dựa nhiều vào các bạn hàng trong việc cung cấp đầu vào, thiết kế mẫu, công nghệ, marketing và phân phối. Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp nước ta vẫn chưa chú ý đến việc xây dựng thương hiệu riêng cho mình, thiết lập mối liên hệ trực tiếp với khách hàng và kiểm soát ở mức độ nhất định các kênh phân phối quốc tế. Năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia cũng như các sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế so sánh của mỗi nước. Lợi thế so sánh của nước ta được xác định là: - Yếu tố con người, nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng. - Vị trí địa lý, tầm quan trọng về địa lý - chính trị. - Các tài nguyên trên đất liền và trên biển. Trong 3 yếu tố trên thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Ưu thế về lao động vốn được coi là dồi dào, thông minh, tiếp thu nhanh, khéo léo, cần cù, chăm chỉ. Tuy nhiên ưu thế này đang giảm dần, một mặt do nếu tính chi phí lao động theo năng suất lao động thì so với một số nước, chi phí lao động ở Việt Nam không thuộc diện thấp nhất trong khu vực. Mặt khác, trong một số ngành tiền lương tuyệt đối được trả ở mức không thấp. Thí dụ như tiền lương của công nhân dệt may ở Trung quốc khoảng 22USD/tháng, ở Inđônêsia khoảng 25USD/tháng, trong khi ở Việt Nam lương công nhân dệt may ở các công ty phía Nam trung bình là 1,12 triệu đồng tương đương 80USD/tháng. Một yếu tố khác là tỷ giá hối đoái tăng tương đối trong thời gian qua so với giá trị đồng tiền bị phá giá ở một số nước láng giềng đã làm cho ưu thế này của Việt Nam bị xói mòn. Thêm vào đó lao động của Việt Nam có tay nghề thấp, ít được đào tạo. Xét ở giác độ chi phí liên quan đến đầu tư tại một số thành phố ở Châu á cho thấy còn nhiều khoản chi phí doanh nghiệp của Ta phải trả cao hơn ở các thành phố khác (bảng 7). Bảng 7 - Chi phí liên quan đến đầu tư tại một số thành phố ở Châu á Tính đến thời điểm 12/2000 - Đơn vị: USD Hà nội TPHCM Thượng Hải Singapore Bangkok Kualalămpơ Jakarta Manila Lương công nhân/tháng 93 94 199 518 147 341 122 179 Lương kỹ sư/tháng 263 216 362 1,497 325 649 177 310 Lương cán bộ quản lý cấp trung gian/tháng 535 489 598 2,170 646 1.454 443 563 Tiền thuê văn phòng/tháng/m2 19 15 24 49 10 17 20 28 Căn hộ cho người nước ngoài/tháng 1,700 1,700 1,750 2,418 1,330 921 2,350 1,550 Cước điện thoại Quốc tế (3 phút đi Nhật) 7.92 7.92 5.44 1.55 2.48 2.61 3.02 2.07 Tiền điện cho kinh doanh/KWh 0.07 0.07 0.07 0.07 0.04 0.05 0.027 0.09 Cước vận tải đến Yokohama/con. 40 feet 1,500 1,400 911 715 1,453 670 1,045 1,169 Giá xăng thông dụng/10 lít 0.37 0.37 0.35 0.83 0.83 0.31 0.12 0.374 Thuế xuất thu nhập cá nhân cao nhất (%) 50 50 45 37 37 29 35 32 Nguồn: - Báo thương mại 3/4/2001 Jetro Ghi chú: - Lương bao gồm cả các khoản thưởng, phụ cấp, BHXH và thuế thu nhập; - Căn hộ bao gồm 2 phòng ngủ hoặc ước khoảng 200m2 Trong năm 2000, Bộ kế hoạch và đầu tư đã tiến hành nghiên cứu phân tích khả năng cạnh tranh của 40 sản phẩm và dịch vụ kết quả như sau: Bảng 8 - Bảng xếp loại các nhóm sản phẩm và dịch vụ theo khả năng cạnh tranh 1.Nhóm có khả năng cạnh tranh 1. Cà phê 2. Điều 3. Lúa gạo 4. Tiêu 5. Thủy sản 6. May mặc 7. Giày dép 8. Động cơ diesel nhỏ 9. Du lịch 10. Dịch vụ xây dựng (xây cầu, lắp máy, làm đường) II. Nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện 1.Chè 2.Cao su 3.Rau 4.Lâm đặc sản và sản phẩm gỗ 5.Muối công nghiệp 6.Một số loại trái cây nhiệt đới (dứa, chuối...) 7.Một số loại hoa (phong lan) 8.Gia cầm 9.Lắp ráp điện tử 10.Cơ khí 11.Hóa chất 12.Xi măng 13.Đóng tàu 14.Ngân hàng 15.Viễn thông 16.Vận tải hàng hải 17.Vận tải Hàng không 18.Kiểm toán 19.Công nghệ phần mềm 20.Dịch vụ bảo hiểm 21.Dịch vụ tư vấn pháp luật 22.Dịch vụ y tế (2) III. Nhóm có khả năng cạnh tranh thấp (3) 1. Mía đường 3. Cây có dầu 5. Ngô 7. Thịt heo, thực phẩm chế biến từ thịt heo. 2. Bông 4. Đỗ tương 6. Sữa bò 8. Thép Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Nhóm các sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh thuộc các ngành có lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên như điều kiện địa lý, khí hậu, đất đai, mặt nước, khoáng sản và nguồn lao động dồi dào với chi phí thấp. Trong số những sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh được đề cập, chủ yếu là các ngành sản xuất nông nghiệp - thuỷ sản gồm: Cà phê, Điều, Lúa gạo, Tiêu, Thuỷ sản, May mặc, Giầy dép, Động cơ Diesel nhỏ, Du lịch, Dịch vụ xây dựng (xây cầu, lắp máy, làm đường). Trong tương lai, ngoài những ngành truyền thống cần chú trọng đầu tư, tạo điều kiện phát triển cho một số ngành công nghệ cao (như công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và nguyên liệu tái sinh, công nghệ cao bảo vệ môi trường, công nghệ quản lý…) là những ngành mà sức cạnh tranh phụ thuộc vào hàm lượng tri thức khoa học và công nghệ, mà ít phụ thuộc vào các yếu tố lao động, đất đai. Những ngành này cho phép tiết kiệm tài nguyên, sử dụng loại tài nguyên mới và phát huy thế mạnh về trí lực của con người Việt Nam trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật được chuyển giao của nước ngoài. Kết luận chương II Thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu (môi trường trong nước) của các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể trong những năm qua. Môi trường vĩ mô đã thông thoáng hơn, Chính Phủ đã liên tục có những thay đổi, đổi mới về chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế thương mại với các nước trên thế giới. Tuy nhiên để tiếp cận và theo kịp với tiến trình hội nhập, Chính Phủ cần đẩy mạnh hơn nữa các cải cách thương mại, hoàn thiện môi trường pháp lý tăng cường các biện pháp hỗ trợ nhằm tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tiến hành xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp, tuy bước đầu đã tiếp cận và thâm nhập vào thị trường Quốc tế, đã tạo ra được một số sản phẩm lợi thế, có tính cạnh tranh nhưng do kinh nghiệm còn ít, quy mô nhỏ, trình độ công nghệ cũng như trình độ quản lý còn lạc hậu, yếu kém...nên rất cần có sự vận động tự điều chỉnh để có thể thích ứng với xu hướng chung của khu vực hoá và toàn cầu hoá. Chương III Định hướng phát triển xuất khẩu và Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của việt nam đến năm 2010 I. Định hướng phát triển kinh tế và thương mại thế giới đến năm 2010 1-Dự báo tình hình phát triển kinh tế và thương mại thế giới Ngày nay xu thế chung của Thế giới là toàn cầu hoá về kinh tế và hội nhập sẽ tồn tại song song với xu thế đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia ngày càng gay gắt trên tất cả trục Bắc - Bắc, Nam - Nam. Tất cả làm cho tình hình trở nên khó dự đoán. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một số chiều hướng chính như sau: a) Khoa học và công nghệ, sẽ có những bước tiến khổng lồ, đã và đang trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội. Những tiến bộ khoa học và công nghệ đã đưa toàn thể thế giới bước vào một thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế trí thức và xã hội thông tin. Các nghành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh, chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế. Đối tượng thương mại được mở rộng để bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm "mềm" của nền sản xuất dựa vào tri thức. Sự phát triển của khoa học và công nghệ còn tạo ra những thay đổi căn bản về phương thức tiến hành thương mại trên phạm vi toàn cầu. Mức độ phổ cập của mạng Internet sẽ khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng rất nhanh và thông qua đó thay đổi một cách sâu sắc tư duy kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức kinh doanh của mọi doanh nghiệp. b) Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các nước và mở rộng trên hầu khắp các lĩnh vực giao lưu kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững hơn, nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn nhưng cũng làm gia tăng tình trạng tuỳ thuộc lẫn nhau và đặt ra những thách thức cực kỳ gay gắt cho các nước đang phát triển. Trước hết là sức ép cạnh tranh và sức ép về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian ngắn, sau đó là sự lệ thuộc ngày càng tăng vào các yếu tố có độ ổn định kém của nền kinh tế thế giới (như luồng vốn đầu tư, chỉ số của thị trường tài chính và thị trường chứng khoán). Bên cạnh xu hướng toàn cầu hoá, xu hướng khu vực hoá vẫn tiếp tục phát triển trên cả bề rộng lẫn chiều sâu và có những sự đan chéo nhau giữa các khối. c) Phân công lao động quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hệ thống công ty đa quốc gia. Sự phân công theo ngành và theo sản phẩm được chuyển dần sang phân công theo chi tiết sản phẩm và qui trình công nghệ. Khác biệt về điều kiện tự nhiên không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa. Khả năng về công nghệ đang dần trở thành yếu tố quan trọng. Cơ cấu ngành và cơ cấu địa lý trong phân công lao động quốc tế cũng có sự thay đổi, trước đây các nước khối Nam thường tập trung vào những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao trong khi các nước khối Bắc phát triển những ngành thiên về hàm lượng vốn và công nghệ. Sự phân công như vậy đã tạo tiền đề cho thương mại hàng hoá giưã Bắc và Nam. Tuy nhiên, với tiềm năng về kinh tế "mềm", các nước khối Bắc sẽ đi dần vào các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và các dịch vụ có nền móng là công nghệ thông tin trong khi các nước khối Nam tiếp nhận vai trò cung ứng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ trung bình. Tỷ trọng của trục Bắc - Nam trong thương mại hàng hoá quốc tế có thể sẽ giảm dần trước sự lớn mạnh của trục Nam- Nam. d) Khoa học và công nghệ tuy có khả năng to lớn trong việc đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội nhưng cũng chứa đựng những hiểm họa khó lường đối với toàn bộ nền văn minh. Vì vậy, trong những năm tới đây, xu thế bảo vệ và gìn giữ các giá trị nhân văn, trong đó có môi trường sống, sẽ càng ngày càng mạnh dần. Công nghệ "sạch" được sử dụng ngày càng nhiều hơn và các sản phẩm "sạch" sẽ có nhiều cơ may hơn trong việc thâm nhập thị trường. Trước bối cảnh trên, căn cứ vào tình hình trong nước, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: "Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu…", "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa…Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ, tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với khu vực và thế giới". Việt Nam đã tham gia AFTA, gia nhập APEC, tham gia ASEM và đã nộp đơn gia nhập WTO. Theo đánh giá của Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra các cơ hội và thách thức sau: * Cơ hội và lợi ích: ã Khắc phục được tình trạng phân biệt đôí xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế. Nhìn chung tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho các nước nhỏ, nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm giải toả các rào cản thương mại, đấu tranh đòi hỏi đối xử công bằng trong thương mại. ã Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho thương mại phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để chúng ta tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức, góp phần mở rộng thị trường cho hàng hóa Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Đặc biệt trong WTO cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác. ã Tạo điều kiện cơ cấu lại sản xuất trong nước theo hướng có hiệu quả hơn. Tham gia tiến trình tự do thương mại, thực hiện giảm thuế và mở của thị trường sẽ tạo sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường nội địa, đòi hỏi các ngành sản xuất phải được cơ cấu lại cho phù hợp với xu hướng thế giới, nâng cao hiệu quả kinh doanh và sản xuất những sản phẩm được thị trường thế giới chấp nhận. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam. Hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất, hợp tác khoa học kỹ thuật, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. ã Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất. - Một trong những ưu điểm của việc tham gia hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế đối với các nước đang phát triển là các tổ chức này thường có các chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý và sản xuất cho các nước thành viên. Ví dụ ASEAN có các chương trình hợp tác về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển cơ sở hạ tầng, hợp tác phát triển xã hội…APEC có chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) bao trùm 9 lĩnh vực hợp tác với trên 250 dự án đang triển khai. Những chương trình này đã tạo điều kiện cho các nước tham gia phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực, và tiếp cận với công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế. - Như vậy, thông qua Hội nhập kinh tế quốc tế ta có thể rèn luyện và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước có bản lĩnh vững vàng và trình độ chuyên môn thành thạo, xây dựng một đội ngũ các nhà doanh nghiệp năng động, có kỹ năng quản lý sản xuất kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt thị trường và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần chiến thắng trong cạnh tranh. - Tranh thủ các nước trên thế giới đồng tình ủng hộ sự nghiệp đổi mới kinh tế, xây dựng đất nước, đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế, từng bước điều chỉnh hệ thống luật lệ, chính sách thương mại phù hợp với tập quán quốc tế và các quy tắc, chuẩn mực của WTO, bảo đảm hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, bình đẳng khuyến khích tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh nhưng vẫn giữ vững vai trò quản lý của Nhà nước, đảm bảo phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia. * Khó khăn và thách thức ã Về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp. Việc giảm thuế và các biện pháp phi thuế, thông thoáng chính sách quản lý đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ … sẽ phát sinh sức ép lớn, đòi hỏi nền kinh tế và các doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực cạnh tranh mới có thể trụ vững và khai thác được lợi thế của hội nhập. Xét về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, chúng ta có lợi thế về lao động và một số tài nguyên nông, lâm, khoáng sản. Song các yếu tố khác như công nghệ, trình độ quản lý, cơ sở hạ tầng, độ ổn định về chính sách về hệ thống tài chính ngân hàng sau 10 năm đổi mới đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, nên xét về mặt tổng thế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn tương đối thấp. Xét về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đã xuất hiện trong nhiều ngành sản xuất, nhưng nhìn chung còn tương đối thấp, một số sản phẩm còn chư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoaluan.doc
  • docBia.doc
  • docphuluc.doc
Tài liệu liên quan