MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TMĐT 3
I. Khái niệm chung về TMĐT: 3
1. TMĐT là gì ? 3
2. Tìm hiểu một số vấn đề có liên quan đến TMĐT 3
3. Các loại hình TMĐT 10
II. Lợi ích của việc ứng dụng TMĐT 11
1/ Tính kịp thời, tính cập nhật của thông tin thương mại 11
2/ Giảm được chi phí bán hàng và tiếp thị 12
3/ Kinh doanh sử dụng cửa hàng ảo - có thể kinh doanh tại nhà 13
4/ Nâng cao khả năng phục vụ và duy trì mối quan hệ thường xuyên với khách hàng 14
5/ Dễ dàng đa dạng hoá mặt hàng 14
6/ Giảm chi phí sản xuất 16
7/ Hỗ trợ kỹ thuật, sử dụng sản phẩm cho khách hàng 18
8/ Thiết lập củng cố quan hệ đối tác. 18
9/ Tạo điều kiện tiếp cận kinh tế số hoá. 19
III. Các yêu cầu của TMĐT 19
1. Hạ tầng cơ sở công nghệ 19
2. HTCS nhân lực cho TMĐT 21
3. Bảo mật an toàn 21
4. Hệ thống thanh toán tài chính tự động 23
5. Bảo vệ sở hữu trí tuệ 23
6. Bảo vệ người tiêu dùng 24
7. Tác động văn hoá xã hội của Internet 25
8. Hạ tầng cơ sở và pháp lý 26
9. Vấn đề lệ thuộc công nghệ 29
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT NAM 31
I. Khái quát chung về TMĐT trên thế giới 31
1. Vài nét về TMĐT trên thế giới 31
2. Mức độ sẵn sàng ứng dụng TMĐT các nước 36
II. Thực trạng về TMĐT ở VN 42
1. Hạ tầng cơ sở cho TMĐT 42
2. Khái quát chung về quá trình phát triển TMĐT ở VN 54
3. Một số kết quả đạt được của TMĐT ở Việt Nam 59
4. Dự báo các nhân tố ảnh hưởng đên sự phát triển TMĐT ở VN 69
Chương III. Một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển TMĐT ở Việt Nam 75
98 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh doanh nói chung trong vòng 5 năm tới.
Tiêu chí thứ ba: Khách hàng và sự chấp nhận kinh doanh TMĐT (chiếm 20% mức độ đánh giá)
Những xếp hạng về mức độ sẵn sàng ứng dụng TMĐT đánh giá mức độ thông dụng của những hoạt động thương mại điện tử ở mỗi một quốc gia: Internet được ứng dụng để xem xét và tự động hoá các quy trình kinh doanh truyền thống ở quy mô nào? Và các doanh nghiệp được nhà nước hỗ trợ thông qua việc phát triển hậu cần và hệ thống thanh toán trực tuyến, khả năng tài chính và đầu tư vào công nghệ thông tin như thế nào?
Tiêu chí thứ tư: Cơ sở hạ tầng văn hoá và xã hội (chiếm 15% mức độ đánh giá)
Tỷ lệ biết chữ và một vài mức độ về giáo dục là những tiền đề để có thể sử dụng Web. Việc xếp hạng cũng xem xét đến “mức độ xoá mù điện tử” của dân số-kinh nghiệm sử dụng Internet và khả năng tiếp thu chúng- và những kỹ năng về công nghệ của người lao động. Và do kinh doanh trên Internet bao gồm cả việc chấp nhận rủi ro, việc xếp hạng mức độ sẵn sàng ứng dụng TMĐT đánh giá xu hướng đổi mới kinh doanh và đầu tư của một nước.
Tiêu chí thứ năm: Môi trường chính trị và luật pháp (chiếm 15% mức độ đánh giá)
Khung pháp lý của một nước và luật riêng để quản lý Internet của nước đó là hai yếu tố cần thiết cho sự phát triển của TMĐT. Mức độ thuận lợi khi đăng ký thành lập một doanh nghiệp mới và khả năng bảo vệ tài sản cá nhân, bao gồm cả tài sản trí tuệ ra sao? Các chính sách của chính phủ để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin – thông qua đầu tư vốn và chính sách- thì được cho điểm rất cao. Trong khi đó, những chính sách của chính phủ về kiểm duyệt nội dung thì lại bị hạ thấp điểm.
Tiêu chí thứ sáu: Các dịch vụ hỗ trợ trực tuyến (chiếm 5% mức độ đánh giá)
Không có một doanh nghiệp nào hay ngành công nghiệp nào có thể hoạt động một các hiệu quả mà không có những dịch vụ trung gian để hỗ trợ. Đối với TMĐT, những dịch vụ này bao gồm những dịch vụ tư vấn và công nghệ thông tin, các giải pháp công nghệ nền cho TMĐT, các chuẩn công nghệ và ngôn ngữ lập trình.
II. Thực trạng ứng dụng TMĐT ở việt nam
Cùng với sự phát triển của TMĐT trên thế giới, mối quan tâm đến TMĐT ở Việt nam đang ngày một tăng. Việt nam là thành viên của hai tổ chức quốc tế hiện có nhiều hoạt động và chính sách nhằm phát triển hoạt động TMĐT là ASEAN và APEC, do đó có nhiều thuận lợi trong việc phát triển cuộc “cách mạng” này. Những thuận lợi này thể hiện trong việc Việt nam có thể rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại của các nước đi trước.
Song thực tế môi trường cho TMĐT của Việt Nam còn quá nhỏ bé và non yếu.
1./Hạ tầng cơ sở cho TMĐT:
1.1./Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin cho TMĐT:
Công nghệ thông tin gồm hai nhánh : Tính toán và truyền thông trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của “kinh tế số hoá”nói chung và “thương mại điện tử ”nói riêng.
Công nghệ tính toán:
ở Việt Nam máy tính điện tử được sử dụng đầu tiên vào 1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội, 1970 ở phía Nam sử dụng một số máy tính lớn của Mỹ. Cuối 1970 cả nước có 40 dàn máy tính vạn năng thuộc các dòng Minsk và ES ở Hà Nội và IBM 360 ở Thành Phố Hồ Chí Minh, 1980 máy tính được nhập khẩu vào Việt Nam.
Từ 1995 bắt đầu triển khai chương trình quốc gia về công nghệ thông tin. Lượng máy tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ + 50% /năm.
Máy tính cá nhân lắp ráp trong nước đang phát triển nhanh và theo ước tính đã chiếm khoảng 70% thị phần với khối lượng sản xuất 80 - 100 nghìn máy một năm.
Căn cứ vào số lượng máy nhập khẩu nguyên chiếc và linh kiện, Tổng cục Hải quan ước tính số máy lắp ráp trong nước năm 2001 chiếm gần 80% số máy tính bán ra thị trường (nhập 49.500 máy nguyên chiếc và gần 240.000 màn hình tương đương với số lượng máy tính lắp ráp). Có thể ứơc tính số máy lắp ráp trong nước chiếm khoảng 75-80% và con số này khá ổn định. Trong năm 2001-2002, số máy tính đã qua sử dụng (second- hand) nhập về khá nhiều nhưng đáng tiếc là chưa có con số thống kê đầy đủ.
Nhiều mác máy tính thương hiệu Việt nam đã được lắp ráp và phân phối rộng trên thị trường như CMS, SingPC, Mekong Gren, Vinacom, T&H và Ro bo.
Với những nỗ lực đẩy mạnh thương hiệu bằng các biện pháp đầu tư cho quy trình sản xuất, hệ thống kiểm soát chất lượng, tăng cường dịch vụ bảo hành, bảo trì cũng như cạnh tranh về giá cả, các doanh nghiệp máy tính VN ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường nội địa.
Tại nhiều cơ quan và doanh nghiệp, dữ liệu có cấu trúc đã được quản lý bằng nhiều hệ quản trị cơ sở dữ liệu khác nhau ( chủ yếu là D Base, Fox, Access, SQL server), cũng đã sử dụng một số phần mềm nhóm như : MS Office, Teammoric, lotus. Đang xây dựng 6 cơ sở dữ liệu quốc gia cỡ lớn phục vụ mục tiêu tin học hoá quản lý nhà nước.
Một số mạng máy tính (Lan, Intranet) chạy trên các nền khác nhau ( Novell Netuare UNIX, Linux, Windows NT....) đã được triển khai như : mạng của Văn phòng Chính phủ, mạng của Bộ Quốc phòng, mạng của Bộ Tài chính, Bộ Thương mại v.v...
Tới năm 1993, gần 99% máy tính nằm trong các tổ chức Nhà nước, hiện nay bức tranh này đã thay đổi đáng mừng: 75% ở các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp,10% ở các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng, 10% ở các cơ sở giáo dục, 5% ở hộ gia đình.
Cường độ sử dụng máy còn thấp, hầu như ở nhiều cơ quan xí nghiệp máy vi tính được sử dụng như một máy đánh chữ là chính.
Trang bị công nghệ thông tin mất cần đối lớn, phần cứng chiếm tới 80% tổng chi phí (lẽ ra trong giai đoạn này phần mềm phải chiếm 35%, nếu tính cả xây dựng đề án, đào tạo, triển khai, bảo hành,.... cũng là yếu tố phần mềm thì tỷ trọng phải là 60%).
Công nghiệp phần mềm ở ta ít phát triển chủ yếu là dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng, sản phẩm phần mềm chủ yếu là chương trình văn bản Tiếng Việt, giáo dục, văn hoá, kế toán, thống kê.... các Công ty trong nước mới đạt 10% phần mềm và thị phần.
Nhìn tổng thể, ngành công nghệ phần mềm Việt nam đã bước đầu tạo ra được sự tăng trưởng tốt về số doanh nghiệp và nhân lực làm phần mềm. Nhưng thực ra ngành này mới chỉ khởi sắc về hình thức, còn chất lượng và số lượng vẫn trong tình trạng khó khăn. Công nghệ phần mềm Việt nam hiện đang tăng trưởng với tốc độ thấp: 13% / năm (bằng 1/2tốc độ của giai đoạn 1996- 2000 ). Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng: phần cứng chiếm tỷ trọng gấp 4 lần tỷ trọng phần mềm và dịch vụ.
Trong số rất lớn các đơn vị có đăng ký sản xuất và kinh doanh phần mềm đến tháng 6-2002 chỉ tính ở Hà Nội và thành phố Hồ chí minh là gần 2000 thì ước tính chỉ có 30% đã có hoạt động. Trung bình, một đơn vị phần mềm có khoảng 20 lập trình viên, năng suất trung bình của một lập trình viên được các chuyên gia ước tính vào khoảng 8.400USD/ người/ năm. Như vậy với số lượng khoảng 6.500 người tham gia vào ngành công nghệ phần mềm ở Việt nam, doanh số phần mềm đang ở mức trên 50 triệu USD. Còn quá xa để vươn tới mục tiêu 500 triệu USD xuất khẩu phần mềm vào năm 2005 đã được đặt ra và khi nhất là khi ngay cả công ty đạt doanh số xuất khẩu phần mềm cao nhất là FPT mới chỉ với tới con số 1,7 triệu USD.
Nguyên nhân chính của tình hình phần mềm trên:
- Do khách hàng chưa quan niệm phần mềm là quan trọng nên rất khó bán.
- Phần mềm của nước ngoài và của các công ty khác trong nước sản xuất ra bị sao chép bất hợp pháp một cách lan tràn, khiến người làm phần mềm nản lòng sáng tạo, không muốn đầu tư vào lĩnh vực này.
Về dung lượng, thị trường tin học Việt nam mới đứng hàng thứ 13-15 trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương. Khai trương từ tháng 11-1997, đến tháng 5-2002, ở nước ta đã có 15 nhà cung cấp dịch vụ (ISP) và một nhà cung cấp kết nối (IXP) được cấp phép, số người sử dụng khoảng 250.000 (đạt mật độ trên 0,3% ). Về cơ cấu thuê bao Internet, khối cơ quan hành chính sự nghiệp hiện chiếm 3%, khối doanh nghiệp nhà nước chiếm 5%, khối doanh nghiệp tư nhân 16%, cá nhân 55%, tổ chức nước ngoài 21%. Theo vùng khu vực miềm Nam hiện chiếm 62% tổng số thuê bao Internet, miền Bắc chiếm 33%, miền Trung chiếm 5%. Để khuyến khích phát triển Internet, các ISP cung cấp các dịch vụ ngày càng đa dạng, thông tin phong phú (Web, email, hosting, forum, âm nhạc, chát, Newsletter, CSDL...). Đến nay trên cả nước có 31 tỉnh thành truy cập Internet trực tiếp, 30 tỉnh thành truy cập gián tiếp. Tuy nhiên, với một thị trường gồm 80 triệu dân , hệ thống các cơ quan nhà nước, 700.000 doanh nghiệp, 30.5000 cơ sở giáo dục và y tế... thì tốc độ phát triển hiện nay là gần 200% mỗi năm được các nhà dự báo đánh giá là vẫn còn chậm (đặc biệt đối với dịch vụ truy cập tốc độ cao và các dịch vụ GTGT ).
Thị trường dịch vụ Internet đã có những bước thay đổi cơ bản với việc chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP )và sự tham gia của các thành phần kinh tế vào thị trường dịch vụ truy nhập Internet ( ISP ), thị trường dịch vụ ứng dụng Internet ( OSP ). Dịch vụ truy cập Internet công cộng phát triển mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo các tầng lớp nhân dân tiếp cận và khai thác nguồn tri thức vô tận trên Internet. Tổng số thuê bao trên Internet đến giữa năm 2002 có 174. 378 trong đó VNPT là 99. 073 thuê bao ( chiếm 56,8% ), FPT là 53. 475 thuê bao (chiếm 30,7% ) và Netnam 10.413 thuê bao ( 6% ) ( theo VASS, 24-7-2002 ).
Công nghệ truyền thông:
Ngành truyền thông Việt Nam những năm gần đây tăng trưởng tới 70%/năm.
Trước đây Tổng cục Bưu chính viễn thông thiết lập một mạng toàn quốc truyền dữ liệu trên X25, gọi là VietPac, nối 32 tỉnh thành phố nhưng mạng này không đủ đáp ứng nên sau đó Tổng cục đã phát triển một mạng khung toàn quốc là VNN nối mạng Internet và các mạng nội bộ của các cơ quan và tư nhân.
Hiện nay, Tổng cục bưu chính viễn thông Việt nam đang hợp tác với tập đoàn KT ( trước kia là Korea Telecom) triển khai thử nghiệm cung cấp dịch vụ truy cập Internet tốc độ cao sử dụng công nghệ ADSL tại Việt nam và sẽ ứng rộng rãi vào năm 2003. ADSL là một công nghệ cho phép truy cập Internet tốc độ cao qua đường dây điện thoại. Không giống với dịch vụ truy cập Internet quay số dial- up/ mà hiện đa số người dân Việt Nam đang sử dụng, ADSL cung cấp một kết nối liên tục ( always on ). Gọi ADSL là đường dây thuê bao phi đối xứng là do công nghệ này sử dụng một phần nhỏ để nhận dữ liệu từ phía người sử dụng. Ngoài ra, công nghệ ADSL cho phép đồng thời chuyển tải dữ liệu analog ( âm thanh ) trên cùng một đường dây. Chính vì vậy, thuê bao trong khi truy cập Internet vẫn có thể sử dụng các dịch vụ điện thoại bình thường.
Công nghệ ADSL do tập đoàn KT cung cấp đạt tốc độ tải dữ liệu 1,544 Mbps đến 8 Mbps. Dự kiến vào quý IV. 2002, Bưu điện Hà Nội và Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt nam sẽ bắt đầu đưa các dịch vụ sử dụng công nghệ ADSL vào hoạt động. Đây là giải pháp tận dụng băng thông của đường cáp đường điện thoại sẵn có để cho tốc độ truy nhập mạng Internet và mạng truyền số liệu tăng lên gấp nhiều lần so với sử dụng modem 64K thông thường hiện nay. Không giống như công nghệ mạng tích hợp đa dịch vụ (Integrated Services Digital Network- ISDN) đang bắt đầu được sử dụng hiện nay, ADSL được tối ưu hoá cho Internet. Với người dùng Internet ( chủ yếu dùng đường xuống- dowload ), tốc độ đường xuống có thể lên tới 8Mbit/ giây. Tốc độ này nhanh hơn dùng modem 64K hiện tại tới 140 lần và nhanh hơn công nghệ ISDN ( vốn đã đưọc coi là kết nối tốc độ cao) 60 lần. Như vậy người dùng ADSL chỉ mất chưa tới 1 phút để dowload 10 Mb, thay vì phải mất tới 42 phút nếu dùng modem 64K.
Công ty Viễn thông quân đội cũng cung cấp các dịch vụ truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng như ADSL, các dịch vụ truy nhập trực tiếp với tốc độ 2Mb/s, 10Mb/s và 1000 Mb/ s.
Công ty Điện toán Truyền số liệu ( VDC ) cho biết, Công ty vừa nâng cấp dung lượng đường truyền đi Quốc tế, hướng Đà nẵng – Singapo lên 90Mb so với dung lượng 45Mb trước đây. Như vậy tổng dung lượng đường truyền Internet quốc tế tại Việt nam thông qua XIP VCD đạt 143 Mb.
Ngoài hướng Đà nẵng – Singapo, đường truyền Internet quốc tế tại Việt nam đã có hướng Sài gòn- Hồng Kông với dung lượng 45Mb, Sài Gòn – Mỹ 8Mb. Đồng thời đường Internet quốc tế tại Việt nam còn có hướng đi Nhật Bản và Hàn quốc theo phương thức peering (trao đổi) với nhà cung cấp KDDI của Nhật Bản như Hà Nội- Nhật Bản, với dung lượng 2Mb và Hà Nội- Hàn Quốc với dung lượng 512Kb.
Như vậy, việc nâng cấp đường truyền giúp người tiêu dùng Internet Việt Nam truy cập Internet nhanh hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng các dịch vụ đa phương tiện đòi hỏi băng thông rộng như Web,conference, truyền số liệu ...
Vấn nạn vi phạm bản quyền tại Việt nam được đánh giá là cao, nhưng đã có chiều hướng giảm đi. Theo đánh giá của Business Software Alliance ( BSA- bsa. osg 2002 ) thì từ năm 1999-2001 trở đi, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của Việt nam đã giảm đi 4% trong năm 2001, trong bối cảnh tỷ lệ vi phạm bản quyền của thế giới trong năm 2001 tăng 3% .
ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển Internet là những yếu tố về môi trường pháp lý, cơ chế quản lý Nhà nước, hạ tầng cơ sở truyền thông, vốn đầu tư ( hiện nay VNPT đã đầu tư khoảng 150 tỷ VNĐ cho Internet nhưng để đảm bảo chất lượng dịch vụ so với nhu cầu hiện tại phải cần đến 300 tỷ đồng, dự báo đến năm 2005 cần 2.000 tỉ đồng). Với thực trạng hiện nay, tính tin cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp và chi phí còn rất cao so với mức sống trung bình của dân chúng nên tính phổ cập cũng chưa cao.
Ngành điện lực:
Là nền của cả ngành tính toán và truyền thông lại đang gặp khó khăn. Những năm gần đây tiêu thụ điện toàn quốc tăng khoảng 15%/năm, nhưng do hạn hán nên thiếu điện. Năm 1998 sản xuất ở mức 60 triệu Kwh/ngày thiếu hụt 200 triệu Kwh. Năm 1999 thiếu hụt tới 400 triệu Kwh. Tình trạng này sẽ khó khăn hơn trong những năm sắp tới. Hệ thống phân phối còn chắp vá, cung cấp không ổn định gây khó khăn cho tính toán và truyền thông.
1.2./Hạ tầng cơ sở nhân lực cho TMĐT:
Chuyên gia công nghệ thông tin:
Cho tới năm 1980 ở nước ta chưa có khoa tin tại các trường đại học cũng chưa có hệ thống đào tạo chuyên gia cho các ngành này.
Từ năm 1980 một số trường đại học đã mở khoa tin học, một số được đào tạo sâu. Cùng với đào tạo trong nước, Nhà nước đã gửi nhiều sinh viên đi học ở nước ngoài.
Đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin ở nước ta chia thành 3 nhóm lớn :
- Nhóm những người làm trong phòng máy tính thuộc các cơ quan nhà nước, đơn vị sản xuất kinh doanh,vv... Số lượng ước chừng 20.000 người. trong số họ khoảng 2000 có bằng cử nhân, kỹ sư về tin học, số còn lại có học thêm về tin học sau khi có bằng đại học thuộc ngành khác .
- Những người giảng dạy công nghệ thông tin trong các trường đại học, cao đẳng, số lượng khoảng 600 người.
- Những người làm trong các đơn vị công nghệ thông tin chuyên nghiệp như các công ty công nghệ thông tin, các viện nghiên cứu về công nghệ thông tin, số lượng ước chừng khoảng 4000 người, trong đó khoảng 2000 người có bằng cử nhân, kỹ sư hoặc cao hơn về công nghệ thông tin.
Ngoài ra chúng ta còn có một lực lượng đông đảo thanh niên học ở các trung tâm tin học ( số này khoảng vài vạn người ) và đội ngũ Việt kiều tin học- là lực lượng giỏi, nhiều người có trình độ cao và rất cao, một số còn là chuyên gia đầu đàn của các tổ chức tin học thế giới.
Đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin ở nước ta có ưu điểm là thông minh, sáng tạo, có khả năng nhận biết thích ứng nhanh, cần cù chịu khó học hỏi để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nghề nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay các trường đại học trong cả nước chủ yếu đào tạo phần mềm, do lĩnh vực phần cứng đòi hỏi hạ tầng cơ sở mà ta chưa đáp ứng được, do đó mà ta bị thiếu chuyên gia phần cứng. Hơn nữa chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập do giáo viên giảng dạy chưa có kinh nghiệm thực tế làm phần mềm, thậm chí Internet còn là món hàng xa xỉ ngay cả với nhiều giáo viên, sinh viên, cả các khoa công nghệ thông tin, nên trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt nam chưa có đủ năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng toàn cục quy mô lớn. Lực lượng cán bộ tin học đào tạo từ các trường khá phong phú nhưng chưa tận dụng được. Vì thế các lực lượng đã được đào tạo không thể tập hợp nhau lại trong các đề án lớn để phát triển mà ngược lại, kiến thức sẽ kém dần đi tới một lúc không thể phát huy được nữa.
Thực trạng đào tạo công nghệ thông tin Việt nam có thể khái quát bằng đánh giá của Thứ trưởng Bộ Giáo Dục & Đào tạo Trần Văn Nhung tại Hội thảo “ Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005” được tổ chức tháng 2-2002 tại Hà Nội : “ Chúng ta có thể đáp ứng được về số lượng người được đào tạo về công nghệ thông tin và phần nào đó về chất lượng. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu về chất lượng thì chúng ta còn phải làm nhiều việc, phải nỗ lực nhiều hơn”. Khái quát này được khẳng định thêm bởi nhận định của TS. Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh, rằng đang có một nghịch lý đang tồn tại ở ngành công nghệ thông tin là vẫn còn thiếu nhân lực nhưng tỷ lệ thất nghiệp của các sinh viên công nghệ thông tin là rất cao :12,32%. Con số này được đưa ra theo điều tra của Dự án Giáo dục đại học ( Bộ GD & ĐT) vẫn là con số cao nhất trong các ngành nghề được đào tạo hiện nay.
Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và phát triển công nghệ cao là những vần đề rất cấp thiết, các nhà cung cấp dịch vụ cần quan tâm để tự khẳng định mình và góp phần đảm bảo cạnh tranh với các nhà cung cấp trong nước và quốc tế.
Từ một số phân tích nêu trên, chúng ta có thể tìm ra một số nguyên nhân:
- Về phía khách hàng: chưa nhận thức đúng về vai trò của Internet, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế và khả năng tài chính còn thấp so với giá truy cập.
- Về phía nhà cung cấp : có nhiều hạn chế về công nghệ nhân lực, vốn đầu tư thiếu (thiếu đầu tư đầy đủ và cân đối, nhánh truyền thông được đầu tư nhiều hơn tính toán).
- Về phía nhà nước: Thiếu một chiến lược Nhà nước để phát triển tin học; bất cập về chính sách: các chính sách cụ thể không thể hiện được ý đồ phát triển công nghệ thông tin; trái lại, nhiều chính sách bất cập về thuế ( quá cao), về lập nghiệp (thủ tục), về bảo hộ, chính sách Việt Kiều...
1.3/ Hạ tầng cơ sở kinh tế pháp lý cho TMĐT:
Nước ta là nước “nông nghiệp lạc hậu”, 80% dân số làm nông nghiệp, công nghiệp mới chiếm 32%, chi phí dịch vụ cao.
Xét riêng về buôn bán hàng hoá và dịch vụ thì thương mại ở mức phát triển thấp. Tổng doanh số hàng hoá bán lẻ hằng năm chỉ đạt 180-190 nghìn tỷ đồng. Hoạt động buôn bán hàng hoá và dịch vụ của Việt nam, mức độ giao dịch thấp , cả trong nước và ngoài nước. Về buôn bán đối ngoại, tuy có trao đổi buôn bán với trên 100 nước và địa khu nhưng vẫn tập trung chủ yếu vào các bạn hàng truyền thống trong vùng (ASEAN).
Mạng lưới bán hàng trong và ngoài nước của các công ty rất hạn hẹp, đa số công ty thiếu thông tin về thị trường hàng hoá, bạn hàng bị hạn chế.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
* Năng lực kinh tế yếu kém, hệ thống tiêu chuẩn theo đúng nghĩa chưa hình thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia cũng không tương thích với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế; bản thân hệ thống này cũng có mâu thuẫn và không thống nhất, hệ thống mã quốc gia chưa có là điều gây trở ngại lớn nhất cho một nền “kinh tế số hoá”.
* Năng suất lao động thấp, tổ chức lao động lạc hậu. Tỷ lệ thất nghiệp thực tế còn ở mức cao. Năm 2001, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở thành thị là 6,28%, giảm 0,14% so với năm 2000. Trong đó Hà nội là nơi có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất 7,39%, tiếp đến là Quảng ninh 7,24%, Hải phòng 7,11%; thấp nhất là Đồng nai 5,14% và Đà nẵng 5,54% ( KTVN 2001).
Tỷ lệ thất nghiệp cao nên chưa tạo được động lực thúc đẩy tiết kiệm cao độ chi phí vật chất và thời gian (là mục tiêu cơ bản nhất của TMĐT).
* Mức sống liên quan đến sử dụng TMĐT:
Mức sống GDP/đầu người ở Việt nam còn thấp không cho phép dân chúng và đông đảo doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với các phương tiện của “kinh tế số hoá”. Giá thành phương tiện điện tử lại quá cao so với mức sống (giá máy tính điện tử và các trang bị phụ trợ gần 1000USD, phí truy cập 180đ/phút đều cao so với thu nhập đầu người).
*Thiếu tự động hoá: Chưa có hệ thống thanh toán tài chính tự động tức là thiếu một trong những nhân tố quan trọng nhất của TMĐT là nhân tố không chỉ đảm bảo cho tính kinh tế mà cả tính khả thi của TMĐT. Xây dựng hệ thống này đồng thời khắc phục thói quen dùng tiền mặt trong dân chúng.
Chưa hình thành và thực thi được việc tiêu chuẩn hoá toàn bộ nền kinh tế.
Đa số hàng hoá vẫn còn trao đổi và theo quan sát trực tiếp, hàng giả còn phổ biến, chưa nói tới thống nhất mã thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới (liên quan tới TMĐT qua biên giới). Riêng mã vạch tới nay mới thể hiện trên thị trường và theo dự kiến sau 5 năm nữa mới đạt tỷ lệ 80%.
Thiếu chiến lược mã quốc gia làm cơ sở phát triển công nghệ mã hoá phục vụ mục đích bảo đảm an toàn dữ liệu thông tin.
* Luật pháp:
Hệ thống luật pháp hiện đại đang mới ở giai đoạn hình thành đầu tiên và còn chưa hoàn thiện; đặc biệt là hàng loạt vấn đề pháp lý của các giao dịch TMĐT chưa được phản ánh trong “Bộ thương mại”, “Bộ luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”, “Bộ luật hình sự” và các bộ luật có liên quan. Trong đó các vấn đề như: luật pháp về giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử, về xác thực và chứng nhận chữ ký điện tử, về chống xâm nhập trái phép vào các dữ liệu,... vẫn chưa hoàn thiện.
Hiệu lực thi hành và do đó hiệu lực điều chỉnh của các luật ban hành còn thấp, ngay cả trong hoàn cảnh kinh tế và thương mại còn đang được vận hành trên cơ sở giấy tờ.
1.4./ Hạ tầng cơ sở chính trị, xã hội cho TMĐT.
Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa - một hệ thống đối lập với tư bản chủ nghĩa. Các nước thù địch tìm mọi cách chống phá chế độ ta. Về mặt chính trị, Internet/Web đã là một phương tiện tuyệt vời cho bọn phản chế hoạt động, và thâm nhập, đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp bảo vệ thích hợp. Ngay từ 1960, đã có chỉ thị về tăng cường chỉ đạo, quản lý, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dùng phương tiện thông tin điện tử để chống phá ta, trong đó đã đề cập đến phương diện điện thoại Fax, kênh truyền hình TURO, kết nối mạng thông tin Internet và các hoạt động mua bán, trao đổi thông tin giữa một số cơ quan và ngoài nước.
Ngoài ra, còn phải đề phòng phim ảnh không lành mạnh, các lối sống thực dụng, bạo lực thâm nhập qua Internet/Web.
Về cách sống và làm việc dân ta còn quan hệ giao dịch trên văn bản giấy tờ, mua hàng phải qua các giác quan thử nghiệm, trả bằng tiền mặt... không phù hợp với TMĐT.
Về mặt xã hội, người Việt Nam chưa xây dựng được tác phong “làm việc đồng đội” ở tầm toàn xã hội và tầm quốc tế, chưa có lối sống theo pháp luật chặt chẽ, chưa có thói quen “công nghiệp” và tiêu chuẩn hoá, đều là những yếu tố cản trở đường tiến tới “kinh tế số hoá” và TMĐT.
Tóm lại, từ 4 hạ tầng cơ sở trên cho thấy, môi trường điển hình cho “kinh tế số hoá” nói chung và TMĐT nói riêng chưa hình thành đầy đủ ở Việt Nam, đòi hỏi ngay bây giờ phải có kế hoạch chuẩn bị kỹ càng, không được chậm nhưng không được nóng vội.
2) Khái quát chung về thực trạng ứng dụng TMĐT ở Việt Nam
a) Những nỗ lực chung cùng với các nước Asean:
Trong hoàn cảnh hiện nay, không một nước nào có thể phát triển khi hoàn toàn cô lập bên ngoài. Khi xuất hiện các mạng thông tin điện tử, đặc biệt là mạng Internet đã phủ khắp các nước trên thế giới, nhiều nước đã tận dụng ngay lợi thế này cho các hoạt động kinh doanh. Thương mại điện tử thực sự là một thách thức cho các quốc gia: là cơ hội và lợi thế cần nắm lấy hoặc sẽ bị lỡ thời cơ và tụt hậu nghiêm trọng. Tháng 7 năm 1997, tổng thống Mỹ đã thông báo trên mạng Internet “ Khung Thương mại điện tử toàn cầu”. Liên minh Châu Âu và sau đó là các nước Asean đã có những phản ứng ban đầu về thông báo trên. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại các nước Asean. Trong hai ngày 17 và 18 tháng 10 năm 1997 tại Kualumpur (Malaysia) đã diễn ra hội nghị bàn tròn thảo luận về vấn đề trên.
Các nước ASEAN trong quá trình phát triển của mình đã có một số kết quả nhất định trong việc phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin. Một số nước đã ứng dụng mạnh mẽ Internet trong các lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu, y tế, thương mại và công tác điều hành chính phủ. Siêu xa lộ thông tin của các nước Asean đang trong quá trình hình thành, đặc biệt là các dự án Singapore One của Singapore, Siêu hành lang đa phương tiện của Malaysia, chương trình Nusantara của Indonesia. Việc thanh toán điện tử, trao đổi hồ sơ trên mạng máy vi tính được tiến hành trên hầu hết các nước. Singapore, Malaysia, Thái Lan đã có các đạo luật về trao đổi hồ sơ điện tử và thanh toán điện tử. Đặc biệt Singgapore và Malaysia đã có các đạo luật về chữ ký điện tử, riêng Singapore đã thành lập cơ quan xác nhận tính xác thực trong trao đổi điện tử.
Thực tế hiện nay là giữa các nước Asean có khác biệt về hạ tầng cơ sở khung pháp luật, nguồn nhân lực, hạ tầng thông tin, cơ cấu kinh tế, nhưng đều cần phải sớm hợp tác trong giao dịch và buôn bán trên Internet để hoà nhập nhanh và có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Asean cần phải sớm có được vị tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 98.doc