Khóa luận Một số cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới từ 1980 trở lại đây và bài học cho Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu 1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1

4. Phương pháp nghiên cứu 1

5. Bố cục của khóa luận 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 3

I. Sơ lược hệ thống tài chính 3

1. Cấu trúc hệ thống tài chính 3

2. Thị trường tài chính 4

2.1 . Định nghĩa: . 5

2.2 Vai trò, chức năng 5

2.3 .Hạn chế của TTTC - thông tin bất cân xứng 8

II. Khủng hoảng tài chính 14

1. Khủng hoảng tài chính là gì? 14

2. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính 15

3. Nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng 15

4. Các loại khủng hoảng tài chính 17

4.1 . Khủng hoảng tiền tệ 17

4.2 . Khủng hoảng ngân hàng 18

4.3 Khủng hoảng thanh khoản: 27

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH MỘT SỐ CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ TRÊN THẾ GIỚI 28

I/ Cuộc Đại Khủng Hoảng 1929 29

1. Diễn biến: 29

2. Nguyên nhân 29

3. Tác động của cuộc khủng hoảng 31

4. Giải pháp: 33

II/ Khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latin và châu Phi năm 1982 34

1. Diễn biến : 34

2. Nguyên nhân 36

• Nguyên nhân chủ quan: t 37

3. Giải pháp : 37

III/ Khủng hoảng nợ Đông Á 1997 38

1. Diễn biến: 38

2. Dấu hiệu: 39

3. Sự biến động của các quốc gia Đông Á trong cuộc khủng hoảng 40

4. Nguyên nhân 45

5. Tác động của cuộc khủng hoảng: 54

6. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng 55

IV/ Khủng hoảng nợ Argentina 2001 56

1. Diễn biến 56

2. Nguyên nhân 58

3. Tác động và giải pháp: 59

V/ Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 60

1. Diễn biến 60

2. Nguyên nhân 63

2.1 . Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính là sự suy sụp của thị trường bất động sản: 63

2.2 . Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân sâu xa của sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ: 66

2.3 Các nguyên nhân khác 68

3. Tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008: Cuộc khủng hoảng này đã trỏ thành cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong một thế kỷ qua. 72

4. Các biện pháp khắc phục: . 74

VI/ Khủng hoảng nợ Dubai và Hy Lạp 76

1. Nguy cơ khủng hoảng nợ Dubai: 76

2. Khủng hoảng Hy lạp châm ngòi cho khủng hoảng nợ ở Châu Âu 79

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 84

1. Phân tích thị trường Việt Nam- Nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ 84

2. Các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 98

KẾT LUẬN 112

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 113

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 114

Phụ lục 1: 114

Phụ lục 2: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997 115

Phụ lục 3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính 115

Phụ lục 4: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp 115

Phụ lục 5: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế -tài chính 116

Phụ lục 6: Chỉ số giá chứng khoán 116

Phụ lục 2: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%) 117

Nguồn: NHTG, “East Asia – The Road to Recoverty”, 1998. 117

Phụ lục 7: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP) 117

Phụ lục 8 : Tình trạng nợ công của các nước phát triển nhất thế giới 118

Phụ lục 9: So sánh thâm hụt ngân sách (thanh màu đỏ) và nợ (thanh màu vàng) của Hy Lạp với một số nước châu Âu trong năm 2009 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120

 

 

doc123 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới từ 1980 trở lại đây và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SD, của Hàn Quốc lên tới 168 tỷ USD. Nợ nước ngoài khi đến hạn tất yếu sẽ gây sức ép rất nặng nề cho hệ thống NHTM, cầu ngoại tệ sẽ tăng đột biến, sức ép phá giá đồng bản tệ gia tăng. Bảng 2: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Korea 103.1 110.7 121.3 128.8 133.5 140.9 Thailand 88.6 98.4 110.8 128.1 142.0 141.9 Nguồn: Radelet và Sachs (1998). Cục diện thế giới thay đổi: Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với đôla Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, FED dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô la Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào đô la Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ. -> Tóm tắt cuộc khủng hoảng Đông Á bằng sơ đồ sau: Hệ thống tài chính nội địa • Tập trung vào ngân hàng • Giám sát yếu kém • Tâm lý ỷ lại Dòng vốn nước ngoài chảy vào Nợ mệnh giá ngoại tệ và kỳ hạn ngắn gia tăng Chính sách kinh tế vĩ mô : Tỷ giá hối đoái cố định Phân bổ vốn sai lệch • Đầu tư quá mức • Bong bóng giá tài sản • Tham nhũng Tình hình kinh tế vĩ mô • Tỷ giá hối đoái thực • Thâm hụt thương mại Tình hình tài chính Tỷ lệ nợ khó đòi cao Mất cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có Khủng hoảng Tấn công đầu cơ Vốn chảy ra ngoài Ngân hàng và doanh nghiệp phá sản Tác động của cuộc khủng hoảng: Khởi sự bằng một loạt các sự kiện ở châu Mỹ La tinh, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng đồng pesô của Mexico năm 1994, các nhà đầu tư phương Tây mất tin tưởng vào sự an toàn ở Đông Á và bắt đầu rút vốn về, tạo ra một hiệu ứng domino. Đồng Baht và rupiah, đồng Ringgit, đồng Won bị phá giá với tốc độ chưa từng có, lạm phát gia tăng, kéo theo lãi suất tín dụng tăng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hàng chục nghìn doanh, hàng trăm ngân hàng và công ty tài chính bị phá sản,sát nhập hoặc đóng cửa hoạt động (Thái Lan: đóng cửa hoạt động 16 công ty tài chính, Nhật Bản: ngân hàng Takuasoky, công ty chứng khoán Sanyo, Yamachi bị phá sản; Hàn Quốc: tập đoàn Hanbo, Sammi, Kia …bị phá sản), hàng triệu lao động bị thất nghiệp (Hàn Quốc: thất nghiệp trên 16%, Indonesia: 18%, Thái Lan: 14%). Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội diễn biến phức tạp do mức sống bị giảm sút, thất nghiệp tăng dẫn đến bạo động, biểu tình. Chính phủ bị mất niềm tin dẫn đến sự thay đổi chính phủ mới như sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng nữa là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Theo CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô: Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo sang một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát, ổn định giá cả. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối chính phủ của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD. Cải cách khu vực tài chính: Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Trong khi đó,các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của mình khi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn. Cải tổ cách thức quản lý của khu vực doanh nghiệp: Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các doanh nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài. Cải cách các thị trường: Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các doanh nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp doanh nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn. IV/ Khủng hoảng nợ Argentina 2001 Diễn biến Liên tục trong 10 năm của thập niên 1990, Argentina đã thực hiện các chương trình tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, nổi bật nhất là chương trình tư hữu hóa hàng loạt doanh nghiệp quốc doanh bước đầu đã đem lại một lượng dự trữ ngoại tệ khá lớn cho quốc gia này. Nguồn thu từ chương trình tư hữu hóa cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính phủ Argentina ổn định giá trị của đồng nội tệ. Tất cả điều này đã làm nền tảng cho các tăng trưởng diệu kỳ sau đó. Hệ quả đương nhiên là dòng vốn quốc tế chảy ồ ạt vào Argentina. Trong khi đó, chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài và cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001). Khoản nợ nước ngoài này dẫn đến hậu quả tai hại là làm chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách vì chính phủ cho rằng đã có nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả bằng vay nợ nữa. Theo WB, ngưỡng an toàn đối với các nước đang phát triển là tỉ lệ nợ nước ngoài phải dưới 40%/GDP. Thế nhưng còn một yếu tố quan trọng mà chính phủ các nước không chú trọng là lãi suất thực phải trả và nếu tính đến lãi suất thực trong khoảng từ 7-10% thì đó lại là một khoản nợ khổng lồ. Argentina bắt đầu rơi vào khủng hoảng tài chính, khi mà nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm đi và cùng với đó là các khoản nhập khẩu tăng lên liên tục thì mọi thứ đều dần bộc lộ. Khi kinh tế quá lệ thuộc vào nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô, khi mà nguồn tài nguyên này cạn kiệt có thể sẽ kéo theo các tan vỡ về những ảo tưởng trước đó. Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các doanh nghiệp quốc doanh trong thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước đây. Moody's và S&P đã hạ thấp điểm xếp hạng tín nhiệm quốc gia Argentina, các chỉ số niềm tin liên tục sút giảm. Đỉnh điểm là khi IMF lại ngưng không hỗ trợ tín dụng cho Argentina thì khủng hoảng kinh tế là điều tất yếu phải xảy đến sau đó. Năm 2000, Argentina thông báo kế hoạch cắt giảm chi tiêu. Đến tháng 11/2001, người dân Argentina đã ồ ạt rút 1,2 tỷ USD từ tài khoản ngân hàng, tháng 12/2001, chính Phủ ra hạn mức rút tiền là 1000 USD/tháng và thay các khoản tiền gửi bằng trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm. Sau đó, đến tháng 1/2002, thả nổi tiền, Peso mất giá 29%, USD/peso = 1,4, sang tháng 2/2002, USD/peso=2,6, người dân Argentina rút 100 triệu USD khỏi ngân hàng mỗi ngày, chính Phủ phải ra hạn mức rút tiền mới là 500 USD/tháng. Tháng 3/2002, tài sản ngân hàng được chuyển đổi sang đồng Peso, các ngân hàng lỗ khoảng 10-20 tỷ USD, tỷ giá USD/peso=3,75, các ngân hàng bắt đầu thiếu tiền mặt trầm trọng và đến tháng 4/2002, các ngân hàng được yêu cầu đóng cửa vô thời hạn. Nguyên nhân Cơ chế hội đồng tiền tệ: sự kéo dài kiểm soát ngoại tệ của Chính Phủ và chế độ tỷ giá cố định cùng với sự can thiệp của NHTW đã góp phần gây ra khủng hoảng ở Argentina. Vào đầu những năm 90, Argentina áp dụng một số chính sách nhằm làm giảm lạm phát như áp dụng chính sách tỷ giá 1 peso= 1USD. Ngoài ra, còn mức cung tiền bằng dự trữ ngoại tê, đồng peso hoàn toàn có thể chuyển đối. Việc áp dụng một loạt chính sách này làm nhà đầu tư nước ngoài tăng cao tỷ lệ lạm phát giảm, tăng trưởng kinh tế cao đạt trung bình từ 6,1% từ năm 1991 đến 1997. Tuy nhiên, việc kéo dài kiểm soát ngoại tệ của chính phủ đã khiến tỷ giá trở nên cứng nhắc và Argentina phải phụ thuộc vào FED khi đưa ra lãi suất của mình. Theo đó, NHTW không có khả năng điều hành chính sách tiền tệ, trong khi khoản nợ của chính phủ lên cao 150 tỷ USD không có khả năng thanh toán được. Tác động từ bên ngoài: Mexico là đối tác lớn nhất của Argentina, vì thế khi cuộc khủng hoảng tại Mexico xảy ra thì Argentina cũng chịu một phần ảnh hưởng. Mexico phá giá đông Peso của mình dẫn tới đồng đô la Mỹ lên giá làm đồng peso của Argentina lên theo. Cùng lúc đó, Brazil, một đối tác kinh tế quan trọng của Argentina cũng phá giá đồng Real vào năm 1999, điều này dẫn tới tính cạnh tranh xuất khẩu giảm mạnh. Kết quả là các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về tình hình kinh tế Argentina khi mà nợ của chính phủ cao cộng thêm tỉ lệ thất nghiệp cao (12%) cộng thêm các khoản nợ đã đáo hạ nên dần dần rút vốn đầu tư. Hiệu ứng đám đông: dưới những tình hình như trên, tâm lý sợ hãi bắt đầu lan ra, dân chúng mất lòng tin vào chính phủ và hệ thống ngân hàng. Chỉ trong vòng từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2001 dân chúng đã rút 15 tỷ USD trong hệ thống ngân hàng. Thâm hụt ngân sách quá mức: Tỷ lệ chi ngân sách/GDP tăng từ 27% năm 1997 lên 30% vào năm 2000 do tỷ lệ thất nghiệp (ở mức 12%) không giảm Thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vay nợ thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ càng làm nợ chính phủ tăng mạnh. Mặt khác chính phủ lại dùng dự trữ trong hệ thống ngân hàng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, đồng thời tạo sức ép lên tỷ giá hối đoái. Tác động và giải pháp: Cuộc khủng hoảng Argentina đã làm mất 1,85 tỷ USD trong năm tài chính 2001, GDP giảm 4%. Khoản nợ chính phủ 155 tỷ USD không có khả năng chi trả. Người dân đồng loạt rút tiền khỏi ngân hàng, chính phủ ra lệnh đóng băng tài khoản tiền gửi và đặt mức tôi đa được rút tiềnl à 1000$/ tháng, lãi suất tăng vọt. Cơ chế hội đồng tiền tệ được xóa bỏ, đồng peso bị phá giá từ 1 peso/ USD lên 4 peso/USD, giảm phát xuất hiện và nền kinh tế rơi vào suy thoái. Nhiều ngân hàng và doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Hàng loạt nhà đầu tư rút vốn, việc bán trái phiếu cho nước ngoài trở nên khó khăn, đồng thời các khoản nợ đến kỳ đáo hạn và nợ chính phủ rơi vào khủng hoảng. Chính phủ buộc phải tìm nguồn tài trợ khác như buộc các ngân hàng và quỹ lương hữu nội địa mua trái phiếu, cổ phiếu và đàm phán để vay của IMF. Tòa án xóa bỏ lệnh đóng băng tài khoản của chính phủ, tiền được rút ra buộc NHTW phải in tiền để tạo tính thanh khoản cho các NHTM. Tuy nhiên, may mắn là cuộc khủng hoảng này nhanh chóng được giài quyết nên không lây lan ra khu vực và thế giới vì đã được thị trường dự báo và rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính 97- 99 và các nước cũng thực hiện các chính sách tài chính thận trọng hơn, giảm lạm phát, duy trì tỷ giá hối đoái linh hoạt, tăng dự trữ và giảm nợ ngắn hạn. V/ Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Đây là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới mà có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ. Diễn biến Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.  Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.   Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA  đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản. Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản. Vào ngày 19/07, chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử. Đến tháng 8, cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu xảy ra khi chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ  BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. FED đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp. Sang ngày 16/08, tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hang khác. Ngày 17/08, FED đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.Tiếp đó, vào ngày 14/09, ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Từ ngày 15 đến ngày 17/10, liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủg hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch FED Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản. FED tiếp tục hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5% vào ngày 31/10 và bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp vào tháng 11. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của FED kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la). Năm 2008 : Tháng 1/2008, công ty tài chính Countrywide từng nắm giữ 20% thị trường cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong vài tháng đã bị đẩy đến sát bờ vực phá sản và buộc phải bán lại cho Bank of America. Sang  ngày 16/03, một trong năm ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ, Bear Stearns tê liệt và buộc phải chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại và phải bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la (thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời điểm mua. Giá này sau được điều chỉnh thành $10 một cổ phiếu.một cổ phiếu) để tránh phá sản. FED phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn. Vào ngày 17/07, các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đô la. Tiếp đó, ngày 07/09, FED dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac, hai công ty sở hữu và bảo lãnh trên 5000 tỉ đô la bất động sản, tương đương gần 50% giá trị thị trường bất động sản Mỹ và gấp gấn 100 lần GDP của Việt Nam năm 2007, sau những báo động về tình trạng cạn kiệt vốn của hai công ty này. Ngày 14/09, Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$. Lehman Bothers cũng tuyên bố phá sản vào ngày tiếp theo đó. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.Tiếp đó, vào ngày 17/09, khả năng phá sản dây chuyền khiến các nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu của American International Group (AIG), tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, vì lo ngại AIG sẽ không cáng đáng nổi trách nhiệm của những khoản bảo hiểm phá sản. Chỉ trong vòng vài ngày cổ phiếu AIG đã mất tới 90% giá trị. FED cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản. Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên TTTC và nợ tín dụng nhưng quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này. Ngày 26/9, ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá 1.9 tỷ đô la và đến ngày ngày 29/09, Quốc Hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu TTTC Mỹ do bộ Tài chính Mỹ đề xuất. Một ngày sau đó, ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup. Vào tháng 11, cả 3 cơ quan quản lý tài chính quan trọng nhất của Mỹ đồng thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo lãnh toàn bộ nợ của Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hưởng toàn cầu này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đến ngày 25/11, FED tuyên bố sẽ mua lại những khoảng cầm cố chứng khoán trị giá khoảng 500 tỷ USD của Fannie Mae, Fredddie Mac và cả Ginnie Mae. Thêm vào đó, khoảng 100 tỷ USD đã được bỏ ra để mua lại các khoảng nợ của Fannie, Fredddie và Federal Home Loan Banks. Từ đó, cuộc khủng hoảng đã trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu. TTTC bên châu Âu và Nhật chao đảo nghiêm trọng, một số ngân hàng ở Anh, Ireland, Đức đã gần như phá sản và được chính phủ cứu bằng cách quốc hữu hóa. GDP của khối các nước phát triển cộng lại bằng 75% GDP thế giới, trong đó Mỹ bằng 30%. Nguyên nhân . Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính là sự suy sụp của thị trường bất động sản: Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó là lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng theo thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng thị trường bất động sản: Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11/9, khi mà sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, FED đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Hai là chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Năm 1980 Chính phủ Mỹ ban hành Luật Giao dịch Thế chấp Tương đương (Alternative Mortgage Transaction Parity Act), nới rộng những quy tắc cho vay và khuyến khích những kênh tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo luật này đã góp phần cho ra đời của nhiều công ty cho vay thế chấp và không bị ràng buộc bởi các luật lệ của ngân hàng. Ngay cả những ngân hàng cũng thành lập hoặc liên kết với các công ty cho vay thế chấp làm bùng nổ các kênh cung cấp vốn cho thị trường bất động sản. Đồng thời, để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Association – gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" (subprime mortgages) của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed Securities-MBS) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. Ba là khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán (chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch mua bán lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán lại, nhiều người đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không có kiến thức về nó, chỉ biết hàng năm nhận được tiền lãi. Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất sôi động, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007( 10% GDP của MỸ). Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% từ 2001 đến 2005. Theo thống kê của Cơ quan Tài chính nhà ở Liên bang (OFHEO) thì nếu Chỉ số giá nhà ở (HPI) trung bình của toàn Liên bang năm 1980 là 100 điểm, thì tới năm 1998 Chỉ số giá nhà ở là 206 điểm và tới Quí 4/2007 là 387 điểm, cá biệt có những Bang như New England là 613 điểm. Cũng theo thống kê của cơ quan này thì giá nhà ở Quí I/2005 tăng 12,5% so với Quí I/2004, trong khi đó giá các loại hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng 3,1% cùng thời kỳ. Theo thống kê của Cơ quan Thống kê Hoa kỳ thì từ năm 1997đến năm 2007, bình quân mỗi năm ở Mỹ xây dựng thêm 1.233.000 ngôi nhà ở. Nếu bình quân mỗi ngôi nhà có diện tích khoảng 150 m2 sàn thì hàng năm nước Mỹ xây dựng được gần 200 triệu m2 nhà ở. Riêng năm 2007 có tới 17.958.000 ngôi nhà bỏ không, trong đó có đến 13.276.000 ngôi nhà bỏ không suốt năm. Chính giá nhà ở tăng liên tục đã thúc đẩy người dân đổ xô vào mua bán bất động sản, làm cho cung cầu mất cân đối, cung vượt xa cầu và bùng nổ nạn đầu cơ. Hệ quả là người ta tiếp tục mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì nghĩ rằng nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản. Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng giảm xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không có khả năng thanh toán. . Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân sâu xa của sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ: Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Làm nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoảng vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”. Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hoá các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Các loại trái phiếu này được mệnh danh là “Mortgage backed securities – MBS”, một sản phẩm tài chính phái sinh được bảo đảm bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới từ 1980 trở lại đây Bài học cho Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan