Khóa luận Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận cho vùng lúa chất lượng cao tại phường Mỹ Hòa - Long Xuyên - An Giang

MỤC LỤC

Trang

Chương 1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 1

1.1. Lý do chọn đề tài. 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu. 2

1.2.1. Khảo sát hiện trạng sản xuất lúa trên địa bàn Phường Mỹ Hòa. 2

1.2.2. Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận. 2

1.3. Phạm vi nghiên cứu. 3

1.4. Phương pháp nghiên cứu. 3

1.4.1. Phương pháp thu thập dữ liệu. 3

1.4.2. Phương pháp xử lý dữ liệu. 4

1.5. Ý nghĩa. 4

Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5

2.1. Giới thiệu về đề tài nghiên cứu. 5

2.2. Giới thiệu về vùng nghiên cứu (Giới thiệu về Phường Mỹ Hòa). 6

2.3. Các khái niệm liên quan đến đề tài. 6

2.3.1. Khái niệm chi phí sản xuất. 6

2.3.2. Khái niệm doanh thu. 7

2.3.3. Khái niệm lợi nhuận. 7

Chương 3. HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT LÚA TRÊN PHƯỜNG MỸ HÒA – THÀNH PHỐ LONG XUYÊN – TỈNH AN GIANG 8

3.1. Tình hình chung. 8

3.2. Hiện trạng về Giống. 13

3.3. Hiện trạng về kỹ thuật canh tác. 18

3.4. Hiện trạng về tổ chức sản xuất. 21

3.5. Hiện trạng về thị trường tiêu thụ. 22

3.6. Diễn biến sâu bệnh trong vụ hè thu 2007. 24

Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN 26

4.1. Giải pháp về Giống. 26

4.1.1. Sự cần thiết của giống lúa tốt trong sản xuất. 26

4.1.1.1. Vai trò của giống lúa. 26

4.1.1.2. Hạt giống khỏe và sử dụng hạt giống phải đạt tiêu chuẩn. 27

4.1.2. Lượng giống cần thiết khi gieo sạ. 27

4.1.3. Những giống lúa phù hợp trên địa bàn Phường Mỹ Hòa. 28

4.1.4. Giải pháp đổi dần bộ giống và thay giống mới. 30

4.1.5. Biện pháp xử lý hạt giống trước khi gieo trồng. 33

4.2. Giải pháp về kỹ thuật canh tác. 34

4.2.1. Chuẩn bị đất. 34

4.2.2. Phương pháp gieo sạ. 35

4.2.3. Phương pháp bón phân. 35

4.2.3.1. Bón phân theo bảng so màu lá lúa. 35

4.2.3.2. Tác dụng của một số loại phân. 37

4.2.3.3. Thời điểm và liều lượng bón phân. 37

4.2.3.4. Quy luật “2 xanh 2 vàng” của ruộng lúa. 40

4.2.4. Quản lý nước. 41

4.2.5. Phòng trừ cỏ dại. 43

4.2.6. Phòng trừ sâu, bệnh hại lúa. 44

4.2.7. Thu hoạch và bảo quản. 47

4.3. Giải pháp về tổ chức sản xuất. 47

4.4. Giải pháp về thị trường tiêu thụ. 48

Chương 5. KẾT LUẬN 51

5.1. Kết luận. 51

5.2. Kiến nghị. 52

 

 

 

doc86 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận cho vùng lúa chất lượng cao tại phường Mỹ Hòa - Long Xuyên - An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nông dân trên phường. Hiện tại trên Phường chỉ có khoảng 20 nông dân trong tổ nhân giống và lượng giống trong tổ nhân giống chỉ cung cấp cho khoảng 2% cho Phường. Để lượng giống xác nhận ngày càng đáp ứng tối đa cho nông dân thì Phường Mỹ Hòa cùng cán bộ nông nghiệp Phường vận động nông dân tham gia vào tổ nhân giống làm cho diện tích đất nhân giống ngày càng mở rộng, bên cạnh đó vấn đề quan trọng cần chuẩn bị tốt về nguồn giống nguyên chủng ban đầu mà vấn đề về giống nguyên chủng thì chỉ có Phường cùng các cán bộ nông nghiệp của Phường mới có thể làm được. Chính vì vậy vai trò của cán bộ nông nghiệp Phường là rất quan trọng. Tuy nhiên hiện nay giá giống nguyên chủng hay giống xác nhận khá cao so với giống thường mà nông dân trao đổi với các hộ nông dân khác, trung bình cao hơn từ 2.500đồng/kg – 3.500đồng/kg. Nên tìm cách giảm giá lúa giống cũng là một trong những yếu tố góp phần giảm chi phí sản xuất trong canh tác lúa. Để giảm giá lúa giống thì điều cần thiết là phải đẩy mạnh công tác nhân giống từ các tổ nhân giống, khi đó lượng giống xác nhận từ các tổ nhân giống đặt dưới sự quản lý của Phường ngày càng lớn, cung cấp cho ngày càng đủ nhu cầu của nông dân trên Phường với giá ngày càng giảm so với giá từ các trại giống. 2/ Từ nông dân Việc đổi mới hạt giống hợp lý và tối ưu nhất là sử dụng giống xác nhận trong từng vụ sản xuất. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện cho tất cả diện tích gieo trồng trên Phường trong tình hình hiện nay khi mà các cơ sở nhân giống lúa xác nhận không thể đáp ứng đủ nhu cầu (cung cấp khoảng 2% lượng giống trên toàn Phường) nên đa phần bà con tự để lại giống cho vụ sau (Bảng 3.10 trang 15 có đến 56,7% số hộ gia đình tự để lại giống để canh tác cho vụ sau). Vì vậy mà để cho việc giữ lại giống của bà con đạt kết quả cao thì bà con nên chọn giống và cải thiện chất lượng hạt giống ngay trên đồng ruộng của mình và trong khâu bảo quản hạt giống. Trên đồng ruộng Kỹ thuật canh tác: Cần để riêng ra 1/20 diện tích đất mà lúa phát triển tốt nhất để làm giống (nếu sản xuất cho 1 ha thì chừa khoảng 500m2), lựa chổ ruộng tốt, giống tốt, đất bằng phẳng, đầy đủ ánh sáng, dễ chăm sóc, đảm bảo cây lúa sinh trưởng tốt, bón phân cân đối và đầy đủ, quản lý nước tốt, làm sạch cỏ dại, không có lúa rày (lúa cỏ) trên chân ruộng, phòng trừ sâu bệnh tốt ở cuối vụ như bệnh vàng lá, bệnh đốm vằn, bệnh đạo ôn, cháy bìa lá, lem lép hạt, rầy nâu, bọ xít,… Để hạn chế gây lép hạt ở tỷ lệ cao và hạn chế vi sinh vật gây bệnh cho hạt. Khử lẫn: Tiến hành khử lẫn ngay từ đầu vụ và sau khi trổ để đảm bảo độ thuần, nhổ bỏ những cây cao, cắt những bông lúa khác so với quần thể như lúa cỏ, lúa von, lúa giống khác. Trong thu hoạch và trong bảo quản Các điều kiện để đảm bảo độ thuần của lúa giống trong quá trình nông dân tự để giống như sau: Cắt gom riêng, chuẩn bị công cụ suốt sạch không còn lẫn tạp giống khác, suốt riêng (nên bỏ ngọn thúng đầu tiên), dùng bao mới hoặc giũ bao thật sạch trước khi trữ lúa. Chuẩn bị sân phơi riêng, không phơi gần những giống khác vì như thế sẽ bị nhiễm lẫn khi đão, phơi lúa….. Sau khi phơi khô, làm sạch đảm bảo độ ẩm hạt còn 14%, nếu có thể thì phơi lại cho thật khô đến 12% - 13% vì đây là độ ẩm cất giữ tốt nhất. Cất giữ nơi thóang mát, tránh mưa nắng, nếu tồn trữ từ vụ hè thu trước đến vụ đông xuân sau phải chú ý ngăn ngừa sâu mọt để bảo đảm độ nẩy mầm cao. Nếu trữ hạt giống trong bao thì thời gian trữ sẽ dài hơn (4 đến 6 tháng) không bị sâu mọt(() Bộ NN & PTNT giới thiệu giống và thời vụ sản xuất lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long ). Định hướng thay đổi giống lúa. Cần xác định được giống kháng ngay trong sản xuất. Đồng thời tham khảo ý kiến của chuyên gia về giống, về sự phù hợp của giống với điều kiện thổ nhưỡng trên vùng đất của mình, canh tác những giống có khả năng phát triển tốt theo khuyến cáo sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần chú ý về lâu dài những giống có năng suất cao chất lượng gạo tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường, và khả năng chống chịu sâu bệnh, chống chịu các điều kiện bất lợi của môi trường cần được đưa vào canh tác. Thay giống lúa mới và yêu cầu cơ bản Thay đổi giống lúa mới có nhiều đặc tính sinh học và kinh tế tốt hơn là nhiệm vụ quan trọng trong công tác chọn giống lúa cho sản xuất và là bước tiến cao về chất lượng trong hoàn thiện giống cây trồng. Yêu cầu cơ bản đối với giống lúa mới: Giống phải có khả năng cho năng suất cao và ổn định. Đây là yêu cầu quan trọng nhất, vì năng suất bao giờ cũng là kết quả tổng hợp của tất cả các quá trình sinh trưởng và phát triển cũng như mức độ kháng sâu bệnh của cây lúa. Giống phải có khả năng chống chịu được các điều kiện bất lợi của ngoại cảnh. Tuy nhiên đặc biệt đối với địa bàn Phường Mỹ Hòa thì cây lúa cần có khả năng chịu phèn, chống đổ ngã trong mùa mưa. Khả năng chống chịu các điều kiện ngoại cảnh bất lợi đó giúp cho cây lúa cho năng suất ổn định. Giống phải kháng một số sâu, bệnh vì sâu bệnh là nguyên nhân gây ra những thiệt hại về năng suất, có khi bị mất trắng và tiêu huỷ hoàn toàn như trong trường hợp bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá hiện nay. Đồng thời các biện pháp phòng trừ sâu, bệnh bằng hóa chất thường tốn rất nhiều chi phí và hậu quả để lại không nhỏ là làm ô nhiễm môi trường, giết đi những loài thiên địch, côn trùng có lợi cho đồng ruộng, ngoài ra nếu sử dụng thuốc hóa học không hợp lý (không theo nguyên tắc 4 đúng trong phun thuốc) sẽ làm dẫn đến mất cân bằng sinh thái. Vì những lý do trên, việc đưa vào canh tác những giống lúa có khả năng kháng sâu bệnh sẽ khắc phục được những hậu quả đó và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Giống lúa phải có phẩm chất tốt, đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Những điều cần chú ý khi sử dụng giống mới: + Phải biết được tên giống và nguồn gốc của giống. + Nắm được đặc điểm của giống như thời gian sinh trưởng, cứng cây hay yếu cây, nhiễm hay không nhiễm các loại sâu bệnh, tính chống chịu hạn, phèn,…. + Phải biết được chất lượng hạt giống nếu giống đó bà con mua ở nơi khác. + Nếu có thể cần tham khảo ý kiến của khuyến nông địa phương, viện trường trước khi trồng. + Chú ý tính ngủ nghỉ (miên trạng) của hạt giống nếu giống mới thu hoạch để có biện pháp xử lý. Đặc biệt hiện nay đại dịch rầy nâu tàn phá rất nặng nề nên bà con nông dân cần chú ý về tính chống chịu của giống đó đối với rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, không nên sử dụng giống không rõ nguồn gốc. Tóm lại: Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi phải có nhiều đối tượng tham gia. + Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật canh tác cho nông dân, cách áp dụng các chương trình ba giảm ba tăng, một phải năm giảm, nguyên tắc bốn đúng, bốn khỏe… + Phường Mỹ Hòa cùng cán bộ nông nghiệp phường có vai trò rất quan trọng trong khâu liên hệ với trại giống Bình Đức hoặc các trại giống khác để đảm bảo lượng giống nguyên chủng cung cấp cho các nông dân trong tổ nhân giống. + Các trại giống cần phải đảm bảo đầy đủ lượng giống nguyên chủng sẵn sàng cung cấp khi có nhu cầu. + Người có vai trò quan trọng hơn cả chính là nông dân trong tổ nhân giống, phải là những nông dân giỏi, có kinh nghiệm, và nhất là phải áp dụng quy trình canh tác do Sở tập huấn và chỉ đạo. Có như vậy thì giải pháp sẽ được thực hiện tốt và kết quả mang lại sẽ rất cao. Biện pháp xử lý hạt giống trước khi gieo trồng. - Kiểm tra lại độ ẩm của hạt giống trước khi ngâm, tốt nhất nên phơi lại 1 – 2 nắng sáng (8 – 12 giờ) để tăng sức hút nước và sức nẩy mầm của hạt giống. - Thử tỷ lệ nẩy mầm đây là biện pháp tốt nhất để thấy được tỷ lệ nẩy mầm của giống và được bà con sử dụng rộng rãi bằng cách: Thử một nắm hạt giống (khoảng 200 – 300 gram) ngâm bình thường trong 24 – 36 giờ, sau đó đãi sạch và bỏ vào túi vải ủ khoảng 24 giờ nếu thấy tỷ lệ nẩy mầm trên 80% là đạt yêu cầu trước khi ngâm ủ chuẩn bị gieo sạ. Chú ý: Nên tiến hành việc này trước khi bắt đầu mùa vụ khoảng 15 – 20 ngày để có thời gian chuẩn bị giống mới nếu giống cũ không đạt yêu cầu. - Xử lý với nước nóng 540C (3 sôi 2 lạnh) điều này góp phần tích cực trong việc phá miên trạng và diệt một phần mầm bệnh hại bám trên hạt giống. - Xử lý với dung dịch muối (15%) có tác dụng rất tốt loại bỏ đáng kể mầm bệnh lúa von, các hạt lép lửng, hạt cỏ lúa. Cách làm như sau: Lúa giống ngâm với nước sạch 24 – 36 giờ (lúa đã no nước), pha dung dịch nước muối 15% (15 kg muối ăn pha với 100 lít nước), khấy mạnh cho tan hết muối. Một thể tích lúa giống cần 3 thể tích dung dịch muối đã pha. Xử lý nhanh trong vòng 10 – 15 phút (loại tất cả hạt lép, lửng, hạt cỏ) sau đó đem lúa giống đãi với nước sạch nhiều lần cho hết muối rồi mới đem đi ủ. Ghi chú: Cách làm này ít phổ biến ở địa phương vì tốn nhiều thời gian và chi phí. - Xử lý hạt giống với hóa chất như: Gaucho, Cruiser Plus…(ngừa bọ trĩ, rầy nâu); ViPac88, Humate hoặc Super Humate…(tăng sức nẩy mầm); Thiram, Benomyl, Carbendazim…(ngừa lúa von). Xử lý trước khi gieo sạ khoảng 2 – 4 giờ bằng cách phun đều lên hạt giống đã nẩy mầm. - Xử lý phá miên trạng hạt giống bằng Axit Nitric 50/00 (có thể thử để chọn nồng độ thích hợp dao động từ 20/00 – 100/00 ). - Ngoài ra có thể xử lý hạt giống theo hướng sinh học(( ) Công ty hợp danh sinh học nông nghiệp Sinh Thành )như: + Pha 50g thuốc ngâm giống BTN trong lượng nước vừa đủ để ngâm 100kg hạt giống lúa trong 24 giờ, sau đó vớt ra không cần gút xả giống, ủ nứt nanh: Khử mầm sâu bệnh trên hạt giống, tăng tỷ lệ nảy mầm, mầm khỏe mạnh. + Pha 50cc thuốc LẤY NGÓT 25SL trong 10 lít nước phun tẩm trong khối lượng hạt giống 100kg nứt nanh ướt đều trong ít nhất 12 giờ, sau khi mầm đủ dài: Phòng chống côn trùng chích hút và nhiễm vi rút sớm. Giải pháp về kỹ thuật canh tác. Qui trình Kỹ thuật sản xuất Lúa (dựa vào tài liệu "Quy trình canh tác lúa chất lượng cao ứng dụng ba giảm ba tăng để ngăn ngừa rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá - của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long và do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn). Chuẩn bị đất. Đối với vụ Đông xuân: Do sự bồi đắp của phù sa và thời gian nghỉ của đất khi bị ngập nước là từ 2 – 3 tháng nên khâu chuẩn bị đất cho vụ đông xuân tương đối đơn giản. Dọn sạch cỏ ở những bờ mẫu, cắt mã đề, rau mát và các loại cỏ khác trước khi nước rút để tiện cho việc di chuyển cỏ vào bờ. Trước khi gieo sạ cần trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng bằng máy cày bánh lồng có trang bị thiết bị trang phẳng kèm theo nhằm tạo cho bề mặt ruộng được bằng phẳng, tiện cho việc rút tháo nước dễ dàng sau khi sạ, tránh tình trạng đọng vũng dễ bị nhiễm phèn và cơ hội cho ốc bươu vàng phá hại. Đối với vụ Hè thu: Việc làm đất ở vụ hè thu khá vất vả hơn, trong tình trạng rầy nâu bùng phát như hiện nay bà con nông dân nên dùng rơm phủ bề mặt ruộng hoặc dùng máy cày gắn công cụ chuyên dụng để cắt rạ, phơi khô khoảng 5 – 7 ngày sau đó tiến hành đốt đồng (mặc dù khâu đốt đồng không được khuyến khích áp dụng rộng rãi vì khi đốt sẽ làm chết đi các loài thiên địch và côn trùng có ích cho việc sản xuất nông nghiệp). Sau đây là hai phương pháp chuẩn bị đất cơ bản: Làm đất khô: Cày đất bằng máy với độ sâu từ 15 – 20 cm (không nên cày sâu vì dễ bi xì phèn), phơi ải trong thời gian từ 10 – 15 ngày (Có tác dụng là đất khô, dễ bị tơi xốp khi bơm nước vào chuẩn bị trục), bơm nước vào trục vùi ngâm nước từ 3 – 5 ngày, tháo nước ra vừa đủ để bừa, sau đó trang phẳng mặt ruộng, đánh rãnh thóat nước và tiến hành gieo sạ. Làm đất ước: Đất được xới bằng máy khi còn nước, trục vùi ngâm nước từ 3 – 5 ngày, tháo nước ra vừa đủ để bừa, sau đó trang phẳng mặt ruộng, đánh rãnh thóat nước và tiến hành gieo sạ. Chú ý: Ruộng phải bằng phẳng, có hệ thống thóat nước tốt và không đọng nước. Phương pháp gieo sạ. Chuẩn bị hạt giống (trình bày ở phần 4.1.5 biện pháp xử lý hạt giống trước khi gieo). Phương pháp gieo sạ: Có 2 cách sạ chính đó là sạ lan (sạ tay) và sạ hàng. Tuy nhiên nên sạ thưa để giảm áp lực sâu bệnh, giảm đổ ngã. Nên sạ hàng với lượng giống 80 – 100kg /ha, nếu sạ lan (sạ tay) thì cũng chỉ nên 100 – 120kg /ha, tối đa 150kg/ha(() Bộ NN & PTNT Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật canh tác lúa vụ hè thu 2007 ở các tỉnh Nam Bộ. ). Chú ý: Đối với sạ hàng khi cho giống vào trống của công cụ sạ hàng thì lượng giống chỉ bằng 2/3 thể tích trống và tránh làm ướt trống để đảm bảo hạt ra đều. Áp dụng kỹ thuật sạ hàng cây lúa nở bụi tốt, cây cứng, bông to. Gieo hàng bằng công cụ gieo hàng kéo tay hoặc liên hợp với máy kéo. Khoảng cách gieo: Hàng cách hàng 20 cm. Kéo hàng chậm đều để cho lúa ra đều trên ruộng. Hình 4.1. Áp dụng kỹ thuật sạ hàng lúa phát triển tốt Phương pháp bón phân. (Chỉnh sửa dựa theo tài liệu hướng dẫn của bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn) Nguyên tắc chung “Chỉ bón phân đạm khi cây lúa cần, không bón thừa phân đạm quá mức khuyến cao, bón cân đối giữa N – P – K theo từng đợt”. Bón phân theo bảng so màu lá lúa. Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali . Cần phối hợp giữa phân bón gốc và phân bón lá. Khi cây lúa cần đạm thì biểu hiện qua màu sắc bộ lá (ngã sang màu hơi vàng), chính vì vậy cần dùng bảng so màu lá lúa để xác định đúng thời điểm cây lúa cần bón phân đạm. Thường ở hai giai đoạn chính là giai đoạn đẻ nhánh 18 – 22 Ngày sau sạ (bón đợt hai) và giai đoạn làm đòng 40 – 45 ngày sau sạ (bón đợt cuối). Cách sử dụng - Bón phân theo màu lá dùng bảng so màu là cách bón khoa học dựa vào nhu cầu đạm trong cây, đơn giản, tiện lợi, dễ áp dụng đối với nhà nông. Dựa trên cơ sở nhu cầu đạm của cây và khả năng đáp ứng của đất. Góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạn chế sự phát triển của sâu bệnh và ngã đổ do không có lượng đạm dư thừa trong cây, đồng thời giảm tác hại đến môi trường do không có lượng đạm dư thừa trong đất và nguồn nước. Bảng 4.5. Công thức bón phân Thời kỳ bón Tỷ lệ bón mỗi lần Đạm Lân Kali Ra rễ Thúc chồi * Thúc đòng * Thúc hạt Tổng cộng 20% 40% 30% 10% 100% 60% 40% 0% 0% 100% 30% 30% 30% 10% 100% Ghi chú: * sử dụng bảng so màu lá lúa để xác định đúng ngày bón phâm đạm vào khoảng thời gian này. SỬ DỤNG BẢNG SO MÀU LÁ LÚA Về kỹ thuật: Tăng hiệu quả sử dụng phân đạm. Về kinh tế: Giảm chi phí. Về thực hành: Đơn giản, dễ làm. Về môi trường: Giảm tác hại của lượng phân đạm thừa; Giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. - Đối với các giống lúa “chậm đáp ứng” với phân đạm, có màu lá xanh nhạt (mã tranh) nên áp dụng dãy màu số 3 trên bảng so màu làm màu chuẩn để xác định thời kỳ cần thiết phải bón thêm đạm cho lúa. Đối với các giống lúa “nhạy cảm”, đáp ứng nhanh với phân đạm, có màu lá xanh đậm và mau đổi màu khi có bón phân đạm, nên dùng dãy màu số 4 trên bảng so màu làm màu chuẩn để so với màu lá lúa. Nếu màu lá nhạt hơn màu chuẩn là thiếu đạm cần phải bón ngay, nếu đậm hơn thì không cần phải bón. - Thời gian so màu thích hợp đối với hầu hết các giống lúa ngắn ngày hiện nay là mỗi tuần một lần (kể từ ngày 14 sau khi sạ hoặc cấy cho đến lúc lúa trổ). Thời điểm so màu tốt nhất là 8:30 – 9:30 giờ buổi sáng và nên cố định thời gian như nhau cho mỗi lần so màu. Ngoài ra, không nên so trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời mà nên dùng nón hoặc thân người che tia sáng tới trực tiếp. Vì góc độ tia sáng và cường độ ánh sáng có ảnh hưởng lớn đến khả năng phân biệt màu sắc của người đo.  Một số lưu ý khi áp dụng bảng so màu lá để bón phân đạm cho lúa: Bón phân đạm theo màu lá thường có số bông trên đơn vị diện tích bị hạn chế do sinh trưởng trong giai đoạn đầu kém, lúa nở bụi ít, nhất là trên đất nghèo đạm. Do đó, bón bổ sung 20 – 25 kg N/ha trong giai đoạn 10 ngày sau khi sạ, sau đó áp dụng bảng so màu lá để bón đạm sẽ cho hiệu quả cao hơn. Hiệu quả của phân đạm chỉ có thể phát huy cao nhất trên nền đầy đủ và cân đối với phân lân và kali. Trên đất phù sa không phèn có thể bón nền 30 – 60 kg P2O5 /ha. Trên đất phèn có thể bón nền 45 – 90 kg P2O5 /ha. Để tăng cường tính chống chịu sâu bệnh và giảm đổ ngã có thể bón thêm 30 kg KCl/ha (chia làm 2 lần: vào 10 ngày sau khi sạ và 18 – 20 ngày trước khi trổ), nhất là trên đất thâm canh 2 – 3 vụ lúa liên tục nhiều năm. Tác dụng của một số loại phân. Phân đạm (N): Giúp cây lúa phát triển thân, lá, cây to khỏe cho bông lớn. Tránh bón dư đạm tán lá sẽ rậm rạp làm nguồn thức ăn tốt cho các loài sâu và bệnh hại phát triển như: đạo ôn, bạc lá, lúa bị lép nhiều. Phân lân(P2O5): Giúp cây lúa phát triển tốt bộ rễ, nẩy chồi tốt, hạ phèn. Bón lót hoặc bón hết lượng lân vào đợt 1 và đợt 2. Phân kali (KCl): Giúp cây lúa hút các chất dinh dưỡng được tốt hơn, làm cứng cây, giảm áp lực sâu bệnh, giúp cây lúa chống chịu hạn, vận chuyển các chất đường bột tốt (hạt lúa vào chắc nhanh). Nên bón vào đợt 1 và đợt 3. Sử dụng phân bón lá và kích thích tố: Để điều khiển chồi hữu hiệu, số hạt chắc trên bông, giúp cây lúa phát triển tốt đạt năng suất cao. Muốn sử dụng thành công ta cần chọn quy trình canh tác phù hợp thì việc điều khiển ở từng giai đoạn được dễ dàng hơn. Tuy nhiên việc sử dụng phân bón lá không phải lúc nào cũng được mà cần phải tuân thủ theo bốn điều lưu ý sau: Ruộng phải có bón phân. Ruộng phải có nước. Phun đúng giai đoạn ta cần điều khiển. Phun đúng nồng độ, phun quá liều sẽ phản tác dụng. Thời điểm và liều lượng bón phân. Bón lót: Trước khi gieo sạ. Vì Phường Mỹ Hòa là vùng đất phèn nên cần bón lót phân lân từ 10 – 40kg /công, giúp hạ phèn ngay từ ban đầu, bộ rễ phát triển tốt hơn. Hình 4.2. Thời điểm so màu lá Đợt 1: 7 – 10 ngày sau sạ. Nên bón đợt 1 sớm nhằm giúp cây lúa phát triển tốt ngay từ đầu. Đưa nước vào ngập ruộng 5cm trước khi bón phân vì bù lạch (bị trĩ) thường gây hại giai đoạn này. Đợt 2: 18 – 22 ngày sau sạ. Nên bón vá áo những chỗ xấu để điều chỉnh độ đồng điều của ruộng lúa. Đợt 3: Bón phân đón đòng. Áp dụng theo nguyên tắc không ngày không số. Sau khi rút nước giữa vụ từ 30 – 40 ngày sau sạ, để lúa vàng 2/3 đám ruộng, cho nước vào và bón phân đợt 3 và theo các định mức sau (dùng cho một công). + Vàng tranh: 5kg Urea + 5kg kali + Xanh vàng: 2,5kg Urea + 7,5kg kali + Xanh đậm: Chỉ bón 10kg kali là đủ. Lưu ý: Sau khi bón phân nên giữ nước đến lúa chín sáp vì ở giai đoạn này nếu để ruộng khô, thiếu nước thì lúa sẽ bị lép. Đợt 4: 55 – 72 ngày sau sạ. Khi lúa có triệu chứng thiếu phân ở giai đoạn lúa trổ lẹt xẹt thì bón phân thêm mỗi công 2 – 3 kg Urea. Tốt nhất nên phun phân bón lá vào 2 giai đoạn: 55 ngày sau sạ (trước trổ 1 tuần) và lúc lúa cong trái me (72 ngày sau sạ). Bảng 4.6. Thời kỳ bón phân cho từng vụ (áp dụng cho tỉnh An Giang) Loại đất Thời kỳ bón Ra rễ (7-10 NSS) Đẻ nhánh (22-25 NSS) Đón đòng (42-45 NSS) Bón nuôi hạt (55-60 NSS) Vụ Đông Xuân Đất phù sa 15 kg NPK 20-20-15 4-5 kg DAP 7-8 kg Urê 5-6 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình Đất phèn nhẹ và trung bình 15 kg NPK 20-20-15 5-6 kg DAP 6-7 kg Urê 4-5 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình Vụ Hè thu Đất phù sa 10 kg NPK 20-20-15 và 4-5 kg Urê 4-5 kg DAP 7-8 kg Urê 7-8 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình Đất phèn nhẹ và trung bình 15 kg NPK 20-20-15 6-7 kg DAP 6-7 kg Urê 5-6 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình (Nguồn: Sở Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn An Giang) Lượng dùng trong bảng trên áp dụng cho 1 công (1.000m2). NSS: ngày sau sạ Đất trên Phường Mỹ Hòa thuộc loại đất phèn nhẹ và trung bình do vậy lượng phân bón dùng trong từng vụ và từng thời kỳ bón phân cụ thể như sau: Bảng 4.7. Thời kỳ bón phân cho từng vụ (áp dụng cho Phường Mỹ Hòa) Loại đất Thời kỳ bón Ra rễ (7-10 NSS) Đẻ nhánh (22-25 NSS) Đón đòng (42-45 NSS) Bón nuôi hạt (55-60 NSS) Vụ Đông Xuân Đất phèn nhẹ và trung bình 15 kg NPK 20-20-15 5-6 kg DAP 6-7 kg Urê 4-5 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình. Vụ Hè thu Đất phèn nhẹ và trung bình 15 kg NPK 20-20-15 6-7 kg DAP 6-7 kg Urê 5-6 kg Urê 3 kg KCl Phun KNO3 trước và sau trổ 7 ngày, 150 g/bình 8 lít, 4 bình. Lượng dùng trong bảng trên áp dụng cho 1 công (1.000m2). NSS: ngày sau sạ. Quy luật “2 xanh 2 vàng” của ruộng lúa. (Dựa vào tài liệu của công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang) Cần chú ý rằng cây lúa không phải là cây rau. Rau thì cần nhiều đạm để giữ cho lá luôn giữ màu xanh liên tục và cho năng suất cao. Ngược lại cây lúa phần cần thu hoạch không phải là rơm mà chính là hạt lúa, chính vậy nếu không điều chỉnh bón phân cân đối, hợp lý nhất là bón thừa đạm vào cuối vụ (lúc lúa làm đòng trở đi) lúa sẽ giữ màu xanh liên tục và sẽ dẫn đến mất cân đối vì chỉ phát triển phần lá, thân, còn bông hạt thì kém phát triển và nhiễm nhiều sâu bệnh. Do vậy quy luật 2 xanh 2 vàng sẽ giúp bà con nông dân điều chỉnh tốt ruộng lúa lúa của mình và cho năng suất cao. (Nguồn: TS. Mai Thành Phụng Trung tâm Khuyến nông Quốc gia) Xanh 1: Lúc bắt đầu gieo, rất cần chuẩn bị đất tốt, chất lượng giống tốt, ngâm ủ nẩy mầm trên 90% khi gieo xuống cây lúa sẵn sàng mọc trong điều kiện thuận lợi nhất để có màu xanh ngay khi ra lá đầu tiên gọi là xanh 1. Cần giữ màu xanh của lá trong giai đoạn xanh 1 cho đến cuối kỳ đẻ nhánh hữu hiệu (từ lúc xạ cho đến 30 ngày sau sạ). Vàng 1: Cần áp dụng mọi biện pháp cho cây lúa chuyển sang màu vàng tranh lúc chuẩn bị đón đòng là rất cần thiết. Nếu ruộng lúa nào không chuyển sang màu vàng tranh trước lúc đón đòng là sai quy luật vàng 1, cây sẽ phát triển thân lá, về sau nhiều sâu bệnh, bông hạt kém. Biện pháp tích cực để cho cây lúa chuyển sang vàng 1 cần: Bón đợt 2 sớm (18 – 20 ngày sau sạ), không đợi cấy dặm xong mới bón. Tác dụng của việc bón đợt hai để nuôi dưỡng nhánh đã đẻ trước đó (chủ yếu là 2 ngạnh trê) đủ dinh dưỡng, khỏe mạnh sẵn sàng trở thành những chồi cho bông về sau. Các nhánh đẻ muộn về sau, do bón phân đợt 2 sớm nên ruộng lúa sẽ hết phân sớm lúc các nhánh này còn dưới 3 lá sẽ tự chết. Điều này tạo thành ruộng lúa không có lá ủ, thông thóang, các nhánh chính thì khỏe mạnh về sau sẽ cho bông dài, nhiều hạt (bông cái có trên 100 hạt, 2 ngạnh trê có từ 40 – 60 hạt). Cần chú ý nên cắt nước khi lúa đã đẻ kín hàng (từ 30 – 40 ngày sau sạ) với mục đích là hạn chế các nhánh đẻ vô hiệu, làm cho đất thông thóang, rễ lúa đủ oxy hô hấp, giảm bớt các độc chất trong môi trường ngập nước, cây lúa cứng lại, ít sâu bệnh, chuyển sang làm đòng hết sức thuận lợi. Màu sắc của lá lúa từ màu xanh đậm (30 ngày sau sạ) sẽ lợt dần khi chuyển sang màu vàng tranh (khoảng 40 – 45 ngày sau sạ). Xanh 2: Quan sát ruộng lúa khi có 2/3 đã chuyển sang màu vàng tranh thì nên đưa nước vào và bón phân đón đòng. Chổ lúa vàng tranh bón 50kg urê và 50kg kali, nếu lúa còn xanh thì bón 100kg/ha, chổ nữa vàng nữa xanh (lúa còn hơi tốt) bón 25kg urê và 75kg kali. Nếu bón phân đúng kỹ thuật khi cây lúa trổ, phải có màu xanh (đặt biệt là 3 lá trên cùng phải xanh bền, xanh lâu mới tạo được nâng suất cao) gọi là xanh 2. Các biện pháp để giữ cho 3 lá trên cùng xanh là: + Không sạ quá dày lá sẽ che khuất lẫn nhau. + Bón phân cân đối, tránh thừa đạm, thừa lân vào cuối vụ. + Nước đầy đủ, phòng sâu bệnh tốt, kịp thời. Nếu lá vàng có thể xịt phân bón lá để giữ lá xanh lâu. Vàng 2: Cần tháo nước trước lúc thu hoạch để thúc đẩy quá trình chín của ruộng lúa: tạo điều kiện cho lúa chuyển sang vàng 2 tùy theo địa hình, nếu ruộng lúa có địa hình cao, dễ mất nước chỉ cần tháo nước trước 5-7 ngày; ruộng có địa hình trũng, lầy, cần tháo nước trước 10-15 ngày. Quản lý nước.  Quản lý nước theo kỹ thuật tưới “ướt khô xen kẻ” (Alternative Wet and Dry) do viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI. Nguyên tắc chung “cây lúa không phải lúc nào cũng cần ngập nước, chỉ cần bơm nước vào ruộng cao tối đa 5cm” Ruộng phải có mặt bằng tốt và chủ động nước để thực hiện quy trình quản lý nước tiết kiệm như sau: Ngay khi gieo (sạ lan, sạ hàng) cần chắt nước cho thật ráo, chỉ để đủ độ ẩm (tránh chết vũng). Khi xử lý thuốc trừ cỏ phải bảo đảm điều kiện độ ẩm đất và nước theo yêu cầu. Sau khi phun xịt thuốc trừ cỏ từ 1 – 2 ngày phải đưa nước vào ruộng mới phát huy tác dụng tốt. Đủ nước cho việc bón phân đợt 1 thật sớm (7 – 10 ngày sau sạ). Từ 10 đến 18 ngày sau sạ giữ nước trong ruộng lúa từ 1 đến 3 cm. Từ 18 đến 22 ngày sau sạ bơm nước để bón phân đợt 2, giữ nước cao tối đa 5 cm. Giai đoạn từ 25 đến 40 ngày sau sạ, là giai đoạn cây lúa đẻ nhánh rộ, đẻ nhánh tối đa và phần lớn các chồi vô hiệu thường phát triển trong giai đoạn này, vì thế nhu cầu nước chỉ cần vừa đủ. Giữ nước trong ruộng từ bằng đến thấp hơn mặt đất 15cm (đặt ống nhựa có đục lỗ bên hông, bên trong có chia vạch 5cm để theo dõi mục nước bên trong ống). Cách điều tiết nước này gọi là kỹ thuật tưới “ướt khô xen kẽ”. Đây là giai đoạn cây lúa rất dễ bị bệnh khô vằn tấn công, mực nước không cao hạch nấm khô vằn sẽ không theo nước phát tán trên đồng ruộng, bệnh ít bị lây lan. Giai đoạn từ 40 – 45 ngày sau sạ, đây là giai đoạn bón phân lần 3 (bón đón đòng), cần bơm nước vào khoảng 1 đến 3 cm trước khi bón phân nhằm để tránh phân bị ánh sáng phân hủy và phân bị bốc hơi (phân đạm). Giai đoạn từ 60 đến 70 ngày sau sạ đây là giai đoạn lúa trổ do vậy cần giữ mực nước trong ruộng (cao 3 – 5 cm) liên tục trong vòng khoảng 10 ngày để đủ nước cho cây lúa trổ và thụ phấn, vì c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTRAN MINH HIEU.doc
Tài liệu liên quan