MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1
I. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 1
II. Vai trò của thị trường chứng khoán 5
1. Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư 5
2. Thị trường chứng khoán huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. 6
3. Thị trường chứng khoán là công cụ làm giảm áp lực lạm phát 7
4. Thị trường chứng khoán tạo thói quen về đầu tư 7
5. Thị trường chứng khoán góp phần điều hoà vốn giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, do đó tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế 8
6. Thị trường chứng khoán là kênh thu hút vốn từ nước ngoài 8
7.Thị trường chứng khoán có vai trò là phong vũ biểu của nền kinh tế quốc dân 9
III. Hàng hoá của thị trường chứng khoán 11
1. Phân loại chứng khoán 11
1.1. Căn cứ vào đặc điểm của chứng khoán 11
1.2. Căn cứ theo tiêu chuẩn pháp lý 12
1.3. Căn cứ vào tính chất tài chính 12
2. Cổ phiếu (Stock/Share) 12
2.1. Khái niệm cổ phiếu 12
2.2. Các loại cổ phiếu 14
3. Trái phiếu (bond) 17
3.1. Trái phiếu doanh nghiệp (corporate bonds) 17
3.2.Trái phiếu dài hạn kho bạc (Treasury bonds) 20
3.3. Trái phiếu đô thị (Municipal bonds). 20
3.4. Công trái nhà nước (State bonds) 20
4. Các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán (chứng từ phái sinh) 21
4.1. Chứng quyền (Right Certificate) 21
4.2. Bảo chứng phiếu (Warrants) 21
4.2.Hợp đồng quyền lựa chọn (option contracts) : 22
IV. Các chủ thể thị trường chứng khoán: 23
1.Nhà nước: (là một chủ thể quan trọng). 23
2. Các doanh nghiệp. 24
2.1. Doanh nghiệp cá thể : 24
2.2. Công ty góp vốn 25
2.3 Công ty cổ phần. 25
3. Cá nhân và hộ gia đình. 27
4. Các tổ chức đầu tư: 27
5. Các tổ chức tài chính trên thị trường chứng khoán. 28
5.1. Ngân hàng Đầu tư: 28
5.2. Những người môi giới và buôn bán chứng khoán (gọi chung là công ty chứng khoán): 28
V. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán: 29
1. Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán: 29
1.1. Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia làm 2 loại: 29
1.2.Xét về quá trình luân chuyển của chứng khoán trên thị trường chứng khoán bao gồm 2 bộ phận cấu thành: 30
1.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch,TTCK được chia làm hai loại: 31
V. Kinh nghiệm của một số nước về việc xây dựng, vận hành và phát triển thị trường chứng khoán 32
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 41
I.tình hình Hoạt động của thị trường chứng khoán việt nam kể từ khi thành lập: 41
II. Thị trường cổ phiếu 44
1. Nhu cầu và tiềm năng về vốn: 44
2. Tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: 45
3. Tình hình phát hành cổ phiếu đối với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. 49
3.1 Vấn đề xác định giá cổ phiếu doanh nghiệp cổ phần hoá: 49
4. Tình hình phát hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và các tổ chức tín dụng cổ phần theo Luật công ty năm 1990 và Luật các tổ chức tín dụng: 50
III. Thị trường trái phiếu Chính phủ: 52
1. Phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước được thực hiện từ năm 1991. 52
2. Phát hành tín phiếu, trái phiếu Kho bạc theo phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước: 53
3. Đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán: 55
4. Bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ: 56
IV. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp 58
1. Tình hình phát hành trái phiếu doanh nghiệp: 58
2. Hạn chế của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp: 60
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 62
I. Giải pháp kinh tế 62
1. Chính sách kinh tế vĩ mô 62
2 .Giải pháp tăng cung chứng khoán cho thị trường: 64
2.1 Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước: 64
2.2. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu 68
2.3. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp 71
2.4 Đẩy mạnh công tác đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới các công ty cổ phần 71
II. Giải pháp về hệ thống pháp lý liên quan đến thị trường chứng khoán và TRUNG TÂM giao dịch chứng khoán 73
1. Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam 73
2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán 76
2.1. Phương hướng chung: 76
2.2. Giải pháp cụ thể 78
III. Các giải pháp về cơ sở vật chất, kỹ thuật 81
1. Hệ thống giao dịch chứng khoán 81
2. Hệ thống đăng ký, thanh toán, bù trừ và lưu ký chứng khoán 82
3. Mức độ tự động hoá 84
IV. Giải pháp về thành lập tổ chức trung gian 86
1. Công ty chứng khoán 87
1.1. Các mặt hoạt động của Công ty chứng khoán 88
1.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam 89
2. Quỹ đầu tư chứng khoán 90
3. Công ty quản lý quỹ đầu tư 92
4. Giải pháp thành lập các công ty kiểm toán 93
V. Hệ thống quản lý - giám sát thị trường 94
VI. Vấn đề đào tạo 96
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2%. Tổng số vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá chỉ chiếm 1,9% tổng số vốn Nhà nước tại các DNNN.
Về tình hình vốn nợ của các doanh nghiệp, do thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển, hầu hết vốn nợ của các doanh nghiệp là vốn nợ ngân hàng, chủ yếu là nợ ngắn hạn. tuy nhiên, do nguồn tiết kiệm hầu hết là ngắn hạn và do các doanh nghiệp thiếu phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chỉ có khoảng 2/3 các doanh nghiệp vay được vốn của ngân hàng, trong đó hơn 50% không được vay đủ số vốn cần thiết. Mặt khác, hiện nay các doanh nghiệp có vốn cổ phần quá mỏng, tỷ lệ bình quân vốn nợ/vốn chủ sở hữu là 70/30 vì vậy không ít doanh nghiệp sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, thể hiện tình trạng tài chính mất cân đối và không an toàn.
Trong khi đó, hiện nay hệ thống các ngân hàng đang đứng trước yêu cầu tổ chức lại nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và cũng cố môi trường pháp lý. Đối với nhiều doanh nghiệp việc tiếp cận tín dụng ngân hàng sẽ khó khăn hơn trước. Việc vay nợ nước ngoài thông qua tín dụng thương mại hoặc vay ngắn hạn chứa đựng rủi ro hối đoái rất lớn và sẽ bị quản lý chặt chẽ hơn. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang bị giảm sút mạnh.
Số liệu về vốn
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số vốn
9.367
96.870
97.336
103.900
124.000
Vốn nhà nước
35.894
46.570
52.536
64.000
74.200
Vốn ngoài QD
20.773
20.000
20.500
21.000
29.000
Vốn FDI
22.700
30.300
24.300
18.900
20.800
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001)
Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất (nhu cầu vốn dài hạn), nhưng nguồn vốn huy động chủ yếu lại từ việc vay ngắn hạn ngân hàng (chiếm 84,5%), lượng vốn vay lại không đủ do vậy hạn chế hiệu quả của đồng vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) lần đầu tiên được đưa ra là từ năm 1990, khi Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 143 - HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 cho phép thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần cho đến Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 11/1991). Qua 11 năm thực hiện cổ phần hoá có thể chia làm 2 giai đoạn chính:
Giai đoạn thí điểm (1992 - 1996): Các doanh nghiệp thuộc diện vừa và nhỏ, kinh doanh có hiệu quả và không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vôn, tập thể công nhân viên chức tự nguyện tham gia thí điểm CPH được xem xét thí điểm CPH theo Quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 và Chỉ Thị 84/Ttg ngày 4/8/1993 của Thủ tướng chính phủ. Qua 5 năm thí điểm đã chuyển được 5 DNNN thành công ty cổ phần như: Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển (1993); Công ty Cơ điện lạnh (1993); xí nghiệp giầy Hiệp An (1994); Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu (1995); Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc (1995).
Giai đoạn mở rộng (1996 đến nay): Trên cơ sở đánh giá các ưu nhược điểm trong giai đoạn thí điểm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996, đã khắc phục được sự giậm chân hầu như tại chổ của tiến trình cổ phần hoá nhưng chưa tạo ra được sung lực mới. Tuy nhiên hơn 5 năm các ngành, các địa phương trong cả nước mới chỉ cổ phần hoá được 11 doanh nghiệp, con số này quả là quá ít. Để tạo ra một bước chuyển biến mạnh mẽ hơn cho quá trình cổ phần hoá, Chính phủ có chỉ thị 20/1998/CT-TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN và Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 mới tạo ra được sung lực tạo đà thúc đẩy cổ phần hoá tiến lên và đạt đỉnh cao vào năm 1999: cổ phần hoá được 250 DNNN. Đưa tổng số DNNN đã CPH của cả nước lên 370. Như vậy, riêng năm 1999 đã CPH được 250 DN gấp 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Số DN đã CPH đến thời điểm trên đã gấp hơn 12 lần so với cả thời kỳ thí điểm CPH. Nửa cuối năm 2000 và từ đầu năm 2001 tiến trình CPH có phần chậm lại do có thay đổi trong tổ chức chỉ đạo cũng như chờ đợi chủ trương mới. Đến hết tháng 12/2001 cả nước chuyển được 773 doanh nghiệp và bộ phận DNNN thành công ty cổ phần . Trong năm 2002, Chính phủ đã ban hành nghị định 64/2002/NĐ-CP vè cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có hiệu lực từ ngày 4/7/2002 đã chuyển thêm được 20 doanh nghiệp tổng cộng trong năm 2002 đã CPH hơn 200 doanh nghiệp đem tổng cộng doanh nghiệp được CPH tính đến hết tháng 11/2002 hơn 1000 doanh nghiệp. Tuy nhiên theo đánh giá của các quan chức Chính phủ tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp như vậy vẫn còn thấp chỉ đạt được khoảng 50% kế hoạch 3 năm từ 2001-2003. Theo dự kiến đến năm 2005 số DNNN sẽ rút xuống khoảng 2000 thay vì 5600 như hiện nay. Tuy nhiên vẫn có thể phải thành lập thêm DNNN nếu thấy thực sự cần thiết. Việc thành lập doanh nghiệp phải được xem xét kỹ lưỡng trước khi có sự quy hoạch phát triển- xã hội, của từng ngành, từng địa phương và theo nguyên tắc chỉ lập mới doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà Nhà nước độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không có khả năng tham gia. Trong số các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc bộ là 167, doanh nghiệp thuộc các tỉnh thành phố là hơn 750, các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 là 72. Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá là các doanh nghiệp nhỏ, vốn điều lệ thấp. Về quy mô thì trong tổng số các DNNN và bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hoá có tới 87% có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng (trong đó 68,6% dưới 5 tỷ đồng và 15% dưới 1 tỷ đồng), còn DNNN có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng còn cao hơn: 92%. Tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN đã cổ phần hoá chỉ chiếm 1,95 tổng số vốn Nhà nước tại các DNNN. Đây là một con số rất nhỏ.
Các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu dưới hình thức chứng chỉ có mệnh giá phổ biến là 100.000 đồng, gấp 10 lần mệnh giá quy định trong Nghị định 48/CP. Chứng chỉ này do Kho bạc Nhà nước in và cung cấp cho các công ty, số cổ phiếu thuộc sở hữu của Nhà nước và số cổ phiếu mua chịu của cán bộ công nhân viên được lưu giữ tại công ty, phần lớn còn lại do các cá nhân và nhà đầu tư nắm giữ. Kết quả bước đầu qua khảo sát hơn 400 doanh nghiệp được cổ phần hoá từ 1 năm trở lên ở 15 tỉnh thành phố cho thấy doanh thu của các doanh nghiệp tăng trung bình từ 15 đến 30%, vốn tăng trưởng khoảng 15% thu nhập bình quân của người lao động tăng từ 1,5 đến 4 lần. Cụ thể : Công ty cổ phần cao su Kymdan tại thời điểm cổ phần hoá vốn Nhà nước chỉ có 750 triệu đồng, đến năm 2000 đã lên đến 1.500 triệu đồng; Công ty cơ điện lạnh Ree tại thời điểm cổ phần hoá vốn Nhà nước chỉ có 4,8 tỉ đồng,đến năm 2000 đã tăng lên 15 tỉ đồng...
Tiến độ CPH còn quá chậm (chỉ đạt khoảng 50% kế hoạch) xuất phát từ nhiều nguyên nhân gây, ở đây xin nêu một số nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, cơ chế chính sách về CPH DNNN chưa đủ sức hấp dẫn, chậm được ban hành đồng bộ, lại thiếu cụ thể, qui trình triển khai quá phức tạp. Nhiều nội dung còn chưa phù hợp với thực trạng quản lý của DN cũng như trình độ nhận thức về CPH DNNN của người lao động; chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước và các DN.
Hai là, các bộ ngành trung ương, các địa phương và bản thân các DNNN chưa nhận thức đầy đủ mục đích ý nghĩa của chủ trương CPH DNNN là nhằm huy động vốn toàn xã hội vào việc phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu DNNN, tạo điều kiện cho người lao động được góp vốn và làm chủ thực sự, góp phần làm thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy DN kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy một số bộ, ngành, địa phương, DN còn do dự, chần chừ chưa kiên quyết triển khai thực hiện, trong khi đó các cơ quan chức năng lại trông chờ vào sự tự nguyện của giám đốc và người lao động.
Ba là, việc xác định giá trị DN còn nhiều phức tạp qua nhiều bước: kiểm kê tài sản thuộc sở hữu của DN, xử lý tài sản và các khoản nợ, giá thị trường để xác định giá trị thực tế, phương pháp xác định giá trị thực tế...Trên cơ sở đó Hội đồng xác định giá trị DN tổ chức đánh giá xác định giá trị phần vốn Nhà nước tại DN.
Bốn là, chưa tạo ra môi trường pháp lý thật sự bình đẳng giữa các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, vì vậy khi chuyển đổi hình thức sở hữu, DN còn so sánh thiệt hơn và lo lắng nhất của người lao động là sợ mất việc làm khi DN chuyển thành công ty cổ phần, nhất là đối với người lao động đã nhiều năm gắn bó với DN.
Năm là, chưa giải quyết vấn đề sở hữu, xác định người chủ đích thực của DNNN. Điều 27 Luật DNNN quy định : Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN; Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các bộ, UBNN tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện một số quyền của chủ sở hữu Nhà nước. Đến nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể quyền sở hữu đối với DNNN. Trên thực tế, giám đốc DNNN có rất nhiều quyền của chủ sở hữu, tuy không bỏ ra một đồng vốn nào, khi tiến hành CPH thì giám đốc DNNN sẽ không còn các quyền như hiện nay, vì vậy đây là một sức cản lớn trong việc triển khai chủ trương cổ phần hoá DNNN.
3. Tình hình phát hành cổ phiếu đối với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá.
Phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá là công việc đi liền với quá trình cổ phần hoá, nhưng công việc này diễn ra không phải hoàn toàn suôn sẻ và thực tế còn có nhiếu vấn đề còn tồn tại và có thể ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
3.1 Vấn đề xác định giá cổ phiếu doanh nghiệp cổ phần hoá:
Việc xác định giá cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá ở Việt Nam hiện nay được thực hiện theo mô hình định giá dựa trên tài sản. Điểm cốt yếu của mô hình là việc xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị tài sản của doanh nghiệp. Từ khi triển khai chủ trương cổ phần hoá, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp nổi lên như một tiêu điểm gây nhiều chú ý đối với cả bên mua và bên bán cổ phiếu. Điểm thắt ở đây là cách thức xác định giá trị doanh nghiệp hiện tại còn quá nhiều điểm hạn chế.
Để xác định giá trị doanh nghiệp có nhiều cách thức khác nhau nhưng cho đến nay ở Việt Nam mới chỉ áp dụng một cách thức xác định duy nhất với nguyên tắc đảm bảo để hai bên mua bán chấp nhận được. Phương thức xác định giá trị doanh nghiệp còn thiếu hụt rất nhiều nội dung như chưa tính đến rủi ro trong tương lai hoặc đề cập đến chiến lược kinh doanh. Theo nhiều chuyên gia, việc bỏ qua chiến lược kinh doanh khi xác định giá trị doanh nghiệp khiến nhiều nhjà đầu tư cảm thấy bất an khi bỏ tiền ra đầu tư.
Hoặc như việc xác định giá trị lợi thế chủ yếu dựa trên việc tính lợi nhuận thực tế và tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp, còn những yếu tố khác như địa điểm hoạt động, tính quảng bá của thương hiệu, trình độ kỹ thuật của công nhân đều bị gạt ra ngoài. Chính những lỗ hổng này khiến việc xác định giá trị doanh nghiệp không chính xác. Thật ra không phải các nhà hoạch định chính sách không nhìn thấy những khiếm khuyết nêu trên mà chỉ có điều đội ngũ cán bộ chuyên môn xác định giá trị doanh nghịêp chưa được đào tạo chuyên sâu dẫn đến không bao quát được tình hình khi đối mặt với thực tế.
Năm 1999, ngành chức năng đã tiến hành xác định cho 280 doanh nghiệp trong đó có 250 doanh nghiệp đã chuyển sang cổ phần hoá. Nhìn về tiến độ thì nói chung là khả quan nhưng đi vào từng trường hợp cụ thể thì còn nhiều điểm bất cập. Điển hình là trường hợp Công ty Savimex (Thành phố Hồ Chí Minh). Sau hai làn xác định giá trị doanh nghiệp không thành công đến tháng 2/2000 Công ty Savimex lần thứ ba xác định giá trị doanh nghiệp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty này chậm trễ là do nhiều nguyên nhân nhưng không thể phủ nhận là khoảng cách giữa giá trị doanh nghiệp xác định và cơ quan xác định giá trị doanh nghiệp là quá lớn. Đánh giá một cách khái quát thì phương thức xác định giá trị doanh nghiệp hiện tại đáp ứng được yêu cầu cô rphần hoá nhưng giá trị doanh nghiệp đưa ra theo phương thức này không sát với giá trị thức tế và điều này cần phải có thời gian mới khắc phục được.
Các chuyên gia cho rằng, xác định giá trị doanh nghiệp không đơn thuần là gắn lên nó một cái giá rồi rao bán. Nếu thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, công tác xác định giá trị doanh nghiệp tốt thì đương nhiên hàng hoá trên thị trường này sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Còn nếu không doanh nghiệp bán cổ phiếu sẽ là người thiệt thòi đầu tiên. Nếu tình trạng này kéo dài, cổ phiếu của doanh nghiệp có nguy cơ vắng khách, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
4. Tình hình phát hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và các tổ chức tín dụng cổ phần theo Luật công ty năm 1990 và Luật các tổ chức tín dụng:
Cổ phần hoá DNNN bắt đầu được triển khai thí điểm vào năm 1992, mục tiêu nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội.
Một bước ngoặt trong tiến trình cổ phần hoá DNNN là việc Chính phủ ban hành Nghị Định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị Định này trở thành đòn bẩy đưa tiến trình cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn. Nếu như trong 7 năm(từ 1992 đến tháng 6/1998) cả nước mới cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp, thì chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được thêm 87 doanh nghiệp và trong 3 năm tiếp theo 1999-2001 mỗi năm cổ phần hoá được trên 250 doanh nghiệp. Trong năm 2002 Chính phủ đã ban hành Nghị Định 64/2002/NĐ-CP về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có hiệu lực từ 4/7/2002 đến nay đã có thêm 20 DNNN được cổ phần hoá nâng tổng số DNNN được cổ phần hoá lên hơn 1000 tron đó trên 860 công ty cổ phần và các tổ chức tín dụng cổ phần; trong đó có 52 ngân hàng thương mại cổ phần; 4 Công ty tài chính; 5 Công ty bảo hiểm; còn lại là các công ty thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh và thương mại dịch vụ.
Ngoài các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) có vốn điều lệ lớn, còn đa số là các công ty cổ phần có vốn điều lệ nhỏ. Trong số trên 200 công ty thành lập theo Luật công ty 1990 nay thì các NHTMCP hoạt động có hiệu quả hơn hẳn. Tuy nhiên, hiện nay các ngân hàng này cũng phải đối đầu với những khó khăn trong hoạt động kinh doanh, hiệu quả kinh doanh thấp do hoạt động tín dụng kém hiệu quả ở nhiều ngân hàng để lại từ những năm 1996, 1997. Đa số các ngân hàng này có tỷ lệ nợ quá hạn khá cao, một mặt do hoạt động tín dụng kém, mặt khác do những vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp và lập quỹ dự phòng. Việc thực hiện quy định tăng vốn điều lệ nhằm tăng nội lực hoạt động của các ngân hàng còn tiến triển chậm.
Thực tế một số ngân hàng cổ phần đáp ứng đủ 3 tiêu chuẩn chủ yếu quy định trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP, nhưng để được niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) thì các ngân hàng gặp phải một số vướng mắc liên quan đến cổ phiếu do có những quy định chặt chẽ về việc chuyển nhượng cổ phần và tăng vốn của Ngân hàng Nhà nước. Để hỗ trợ cho các ngân hàng này tham gia niêm yết trên TTGDCK cần có sự hợp tác của Ngân hàng Nhà nước để tháo gỡ những vướng mắc này.
Về cổ phiếu của các doanh nghiệp do chưa có sự bắt buộc phải sử dụng mẫu của Bộ Tài chính nên có nhiều công ty cổ phần lập những chứng từ riêng dẫn đến cổ phiếu ở các công ty này khác nhau với mệnh giá khác nhau như: 100.000đ; 200.000đ; 250.000đ; 500.000đ; 1.000.000đ; 2.000.000đ....Trong khi đó Nghị định 48/CP của Chính phủ về chứng khoán quy định mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư thống nhất là 10.000 đồng.cho tới thời điểm hiện tại, theo các quy định hiện hành đang còn hiệu lực thì tất cả các cổ phiếu của các công ty cổ phần đều hợp lệ và cùng tồn tại.
III. Thị trường trái phiếu Chính phủ:
Trong những năm vừa qua trái phiếu Chính phủ chủ yếu được phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN) và đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Từ tháng 7/2000, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ, Bộ Tài chính cho thực hiện 2 phương thức phát hành mới là: Đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành.
1. Phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước được thực hiện từ năm 1991.
Mặc dù đã có những cải tiến và thay đổi đáng kể về nội dung, hình thức trái phiếu và phương thức quản lý song các loại trái phiếu do Kho bạc phát hành trong thời gian vừa qua về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về giao dịch và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nói một cách khác, thị trường chứng khoán chưa phát triển, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn lạc hậu thì chưa có điều kiện để thay đổi một cách cơ bản về cơ chế phát hành, quản lý và giao dịch trái phiếu. Điều này được chứng minh khá rõ nét từ thực tế đến năm 1995: Xuất phát từ yêu cầu thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán, Kho bạc Nhà nước đã phát hành loại trái phiếu có mệnh giá in sẵn, không ghi tên nên người mua được tự do mua bán, chuyển nhượng và thnh toán vãng lai trong cả nước. Sau một thời gian phát hành, khi thấy đã có những dấu hiệu thiếu an toàn trong quản lý, Kho bạc Nhà nước Trung ương xin phép Bộ Tài chính cho dừng phát hành, đồng thời thông báo cho các đơn vị Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh mới được phép thanh toán vãng lai vì lúc bấy giờ các đơn vị Kho bạc Nhà nước cấp huyện chưa được trang bị hệ thống máy tính nên chưa thể nối mạng với Trung ương để theo dõi thanh toán trái phiếu vãng lai.
Năm 1990, Nhà nước đã phát hành công trái xây dựng tổ quốc, sử dụng loại chứng chỉ in sẵn mệnh giá và không ghi tên người mua để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán và tự do chuyển nhượng công trái.
2. Phát hành tín phiếu, trái phiếu Kho bạc theo phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước:
Là một trong những hình thức huy động vốn được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới. Hình thức huy động vốn này đã mở ra một kênh phát hành mới, huy động hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm với lãi suất và chi phí huy động thấp, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước cho các dự án phát triển ở Trung ương và địa phương. Các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác được phép đầu tư vào tín phiếu, trái phiếu Kho bạc vừa góp phần đa dạng hoá cá nghiệp vụ ngân hàng, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao, sử dụng tối đa nguồn vốn huy động được và linh hoạt trong sử dụng vốn khả dụng. Đồng thời khi nắm giữ tín phiếu, trái phiếu Kho bạc các ngân hàng có thể mua đi bán lại tại thị trường thứ cấp, thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, có thể chiết khấu và tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
ở nước ta, sau một thời gian dài chuẩn bị, đến tháng 6/1995, thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước chính thức được khai trương và đi vào hoạt động. Từ đó cho đến cuối tháng 9/2000, Ban đấu thầu liên bộ gồm Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã tổ chức được 184 đợt đấu thầu tín phiếu và trái phiếu Kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước, trong đó có 39 đợt đấu thầu tín phiếu Kho bạc (thời hạn dưới 1 năm) và 145 đợt đấu thầu trái phiếu Kho bạc (thời hạn 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu, trái phiếu Kho bạc đã phát hành qua thị trường này là 15.282,8 tỷ đồng, trong đó 11.126,7 tỷ đồng là trái phiếu Kho bạc và 4.156,1 tỷ đồng là tín phiếu Kho bạc Nhà nước. Khối lượng tín phiếu và trái phiếu Kho bạc phát hành qua các năm không ngừng tăng lên nhanh chóng. Năm 1995 phát hành được 243,6 tỷ đồng tín phiếu Kho bạc, năm 1996 tổng số phát hành là 976,4 tỷ đồng trong đó 152 tỷ đồng là tín phiếu và 823,9 tỷ đồng là trái phiếu. Từ năm 1997 đến tháng 6/2000 phát hành 10.274,8 tỷ đồng trái phiếu Kho bạc, cụ thể: Năm 1997 là 2.917,5 tỷ đồng; năm 1998 là 4.020,7 tỷ đồng; năm 1999 là 3.011,6 tỷ đồng; năm 2000 là 325 tỷ đồng. Năm 2000, qua hơn 35 phiên đấu thầu tín phiếu Kho bạc, tổng khối lượng tín phiếu trúng thầu đạt hơn 4000 tỷ đồng, bằng 85,2% tổng khối lượng tín phiếu Kho bạc đưa ra đấu thầu trong khoảng thời gian này. Về cơ cấu của các thành viên trúng thầu của năm 2000 chủ yếu tập trung vào 3 ngân hàng thương mại quốc doanh đó là Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là các đơn vị trúng thầu nhiều nhất. Các ngân hàng thương mại gần như đã tìn được lối thoát cho đồng vốn của ngân hàng khi mà hoạt động tín dụng còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó có sự tham gia khá tích cực của các doanh nghiệp quốc doanh như: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, Bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, các đợt đấu thầu cũng đã thu hút được sự tham gia có kết quả trúng thầu của một số ngân hàng thương mại cổ phần....
Có thể nói rằng việc ra đời thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Kho bạc đã góp phần làm sôi động hơn thị trường vốn đặc biệt là vốn ngắn hạn và số lượng thành viên của thị trường ngày một tăng. Nếu phiên đầu tiên diễn ra năm 1995 chỉ có 30 thành viên thì sau 5 năm đã có thêm 18 thành viên tham gia thị trường này. Đến nay tổng số thành viên tham gia là 48, trong đó có 5 Ngân hàng Thương mại quốc doanh, 20 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 12 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 6 Công ty Bảo hiểm và Quỹ Tín dụng Trung ương. Việc các loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính tham gia vào thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước ngày một đông đảo . Điều đó chứng tỏ các nhà đầu tư và phát hành đã dần dần tìm được điểm cân bằng về lợi ích và thị trường này càng trở nên hấp dẫn hơn.
Lãi suất trúng thầu qua các năm liên tục giảm, từng bước phù hợp với chỉ số lạm phát, lãi suất huy động vốn bình quân và cung cấp vốn trên thị trường. Tuy nhiên lãi suất trúng thầu chưa phản ánh lãi suất thị trường vì còn phụ thuộc chặt chẽ vào lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính. Mặc dù vậy nhưng nhìn chung chênh lệch giữa lãi suất trúng thầu cao nhất, thấp nhất hàng năm thường không quá xa và thường xuyên giảm xuống. Cụ thể: Năm 1995, lãi suất trúng thầu cao nhất là 18%/năm, thấp nhất là 17,2%/năm tương ứng lần lượt của năm 1996 là: 13%/năm - 8,95%/năm; năm 1997 là: 12%/năm - 9%/năm; năm 1998 là: 12%/năm - 11%/năm; năm 1999 là: 11,5%/năm - 4,5%/năm và năm 2000 là: 6%/năm - 4,95%/năm.
3. Đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán:
Ngày 20/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương và đi vào hoạt động, đây là một mốc quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời là bước đột phá cơ bản, quan trọng trong chiến lược khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ 21.
Sau vài tháng chính thức đi vào hoạt động, Trung tâm giao dịch chứng khoán đã thu hút một lượng nhất định các nhà đầu tư, các công ty cổ phần tham gia giao dịch và phát hành cổ phiếu. Hình thức đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 26/07/2000, tính đến nay qua một số phiên giao dịch. Hiện nay tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có 33 loại trái phiếu chính phủ được niêm yết và giao dịch.
Thông thường, Trái phiếu được đấu thầu theo hình thức cạnh tranh lãi suất trong phạm vi lãi suất trần của Bộ Tài chính. Các đơn vị tham gia và trúng thầu chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Các công ty chứng khoán do còn hạn chế về vốn nên tham gia cầm chừng với khối lượng không đáng kể. Trái phiếu được phát hành dưới hai hình thức là chứng chỉ và ghi sổ được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Tuy vậy, các đơn vị trúng thầu chủ yếu là nắm giữ trái phiếu, chưa có nhu cầu bán lại trên thị trường chứng khoán (trừ các công ty chứng khoán).
4. Bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ:
Lần đầu tiên được tổ chức ngày 15/09/2000 với 5 đơn vị tham gia gồm 3 ngân hàng thương mại quốc doanh và 2 công ty chứng khoán tham gia đàm phán để thống nhất lãi suất và khối lượng trái phiếu nhận bảo lãnh. Sau gần 2 năm qua đã diễn ra một số phiên đấu thầu bão lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ với sự tham gia chủ yếu là 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh và một số công ty chứng khoán của các Ngân hàng tuy vậy hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu như nói ở trên, cho đến nay khối lượng trái phiếu Chính phủ đăng ký, niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán vẫn không đáng kể. Mặc dù trái phiếu Chính phủ phát hành theo cơ chế mới có doanh số khá lớn nhưng lượng trái phiếu có doanh số khá lớn nhưng lượng trái phiếu thực tế giao dịch là không đáng kể, liên tục nhiều phiên không khớp được lệnh mua bán. Điều đó có thể lý giải như sau:
Thứ nhất: Trung tâm giao dịch chứng khoán còn non trẻ, đang trong thời kỳ khởi động thử nghiệm, lại chịu nhiều ràng buộc vì lí do an toàn khiến cho tính linh động của thị trường mất đi, các thành viên của thị trường cũng đang trong giai đoạn tìm hiểu, thăm dò. Đầu tư, kinh doanh chứng khoán thực sự quá mới mẻ, có lợi nhuận hấp dẫn nhưng tiềm ẩn nhuều rủi ro vì vậy các nhà đầu tư cũng cần phải thận trọng cân nhắc. mặt khác các loại chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường cũng chưa sôi động.
Thứ hai: Các công ty cổ phần hoạt động tốt và ổn định chưa nhiều. Các công ty này cũng chưa dám tung cổ phiếu của mình ra thị trường trong điều kiện tiềm lực chưa thật vững mạnh, chưa đảm bảo khả năng ngăn