MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT 3
I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 3
1. Thông tin chung về công ty 3
2. Quá trình phát triển của công ty được chia thành 2 giai đoạn 5
II. Đặc điểm chủ yếu của công ty 7
1. Đặc điểm về sản phẩm 7
2. Đặc điểm về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 9
3. Đặc điểm về lao động 11
4. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty 13
4.1. Các bộ phận quản trị của Công ty 14
4.2. Các đơn vị trực thuộc 15
III. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. 16
1. Kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây 16
2. Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu 19
3. Tư vấn đầu tư và thương mại 20
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TẠI CÔNG TY 21
I. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại 21
1. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt Nam cũng như của Công ty thời kỳ trước 1990 21
2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty từ sau 1990 đến nay – Giai đoạn trưởng thành và lớn mạnh của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 26
II. Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty 36
1. Nghiên cứu thị trường 37
2. Gọi chào hàng 37
3. Lựa chọn đối tác giao dịch 37
4. Lập phương án kinh doanh 38
5. Đàm phán và ký kết hợp đồng 38
6. Ký hợp đồng uỷ thác 38
7. Thực hiện hợp đồng 39
III. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty và những khó khăn tồn tại mà doanh nghiệp cần khắc phục 42
1. Yếu tố chủ quan 42
1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp 42
1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện có của doanh nghiệp 44
1.3. Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp 46
2. Yếu tố khách quan 49
2.1. Môi trường chính trị pháp luật 49
2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước 50
2.3. Những vướng mắc về thuế 51
2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu 52
2.5. Các yếu tố khác 54
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ 57
I. Phương hướng nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới 57
II. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 58
1. Nâng cao trình độ và tăng cường phát triển nguồn nhân lực của Công ty 58
2. Hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ 62
3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng 63
4. Tạo nguồn vốn và quản lý nguồn vốn 66
5. Giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu của Công ty 67
6. Đổi mới hình thức kinh doanh 71
III. Một số các kiến nghị với Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung 73
1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế 74
2. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước 76
3. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 77
4. Phát triển hệ thống ngân hàng, cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài 78
5. Tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế 79
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật, công nghệ, giá cả, điều kiện thanh toán, giao hàng, bảo hành...
4. Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở kết quả thu thập được, các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu tiến hành lập phương án kinh doanh, trong đó bao gồm các nội dung như phân tích tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, đánh giá những khó khăn cũng như thuận lợi và lên kế hoạch sử dụng vốn, tính toán các chi phí, đề ra các mục tiêu hành động cụ thể...
Sau khi phương án kinh doanh được lập xong và trình lên Tổng giám đốc phê duyệt, công ty tiến hành đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng.
5. Đàm phán và ký kết hợp đồng
- Lập dự thảo hợp đồng: Với những đối tác có quan hệ lần đầu, cả Technoimport và đối tác đều lập dự thảo hợp đồng rồi gửi cho nhau xem xét. Còn với những đối tác đã có quan hệ làm ăn lâu năm, việc làm này thường do công ty đảm nhiệm. Việc lập dự thảo hợp đồng càng chi tiết, đầy đủ và chính xác càng thuận lợi cho việc đàm phán và ký kết hợp đồng sau này.
- Đàm phán hợp đồng: Việc đàm phán ký kết hợp đồng tại Technoimport có thể được tiến hành qua thư, fax hay gặp gỡ trực tiếp. Nhưng cho dù bằng hình thức nào đi nữa thì nội dung đàm phán cũng liên quan đến các vấn đề cơ bản như: giá cả, vận chuyển, thanh toán, bảo hành....
- Ký hợp đồng ngoại thương: Sau khi việc đàm phán được hoàn tất, Technoimport và phía đối tác nước ngoài tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng được ký kết phải quy định cụ thể các điều khoản: Tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, giao hàng, thanh toán... Bên cạnh đó, hợp đồng còn quy định cụ thể từng phần công việc, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên trong quá trình chuyển giao.
6. Ký hợp đồng uỷ thác
Hợp đồng uỷ thác được ký kết giữa chủ đầu tư và Technoimport, trong đó quy định cụ thể các điều khoản liên quan đến hàng hoá và nghĩa vụ trách nhiệm của mỗi bên. Ngoài ra, trong hợp đồng còn nêu rõ mức phí uỷ thác thông thường khoảng 1% nhưng không được thấp hơn 150USD.
7. Thực hiện hợp đồng
Sau khi việc ký hợp đồng ngoại thương và hợp đồng uỷ thác được hoàn tất, công ty tiến hành ký quỹ mở L/C bằng tiền đặt cọc của chủ đầu tư, thường là 10% trị giá hợp đồng ngoại thương. Khi hàng hoá và chứng từ của người bán đã về, công ty tiến hành nhận chứng từ đi mở tờ khai hải quan, nộp thuế các loại rồi tiến hành nhận hàng và giao ngay cho chủ đầu tư kèm theo hoá đơn bán hàng.
Công ty tiến hành thanh lý hợp đồng với ngân hàng và chủ đầu tư sau khi khách hàng nội địa đã thanh toán tiền hàng. Cuối cùng, công ty hạch toán hợp đồng uỷ thác và lưu hồ sơ.
Kết quả hoạt động nhập khẩu uỷ thác của Công ty trong những năm gần đây
Bảng 14: Kim nghạch nhập khẩu và nhập khẩu ủy thác 2003 - 2007
(đơn vị: USD)
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nhập khẩu
115.627.975
142.600.207
101.982.538
123.887.116
108.501.129
Nhập khẩu ủy thác
83.447.553
121.893.081
79.733.057
119.733.557
96.534.450
Tỉ trọng (%)
72,2
85,5
78,2
96,6
89,0
(Nguồn: Báo cáo nhập khẩu ủy thác năm 2007
– phòng Kế hoạch tài chính)
Trong những năm đầu cơ chế thị trường, Công ty đứng trước nhiều khó khăn do nhu cầu thiết bị toàn bộ, vốn là mặt hàng nhập khẩu ủy thác chính của công ty giảm mạnh, nhiều hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thực hiện còn gặp nhiều khó khăn do sự biến động về chính trị ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
Biểu 4: Biểu đồ so sánh giá trị kim ngạch nhập khẩu và nhập khẩu uỷ thác qua các năm của Công ty
(Nguồn: Báo cáo nhập khẩu ủy thác năm 2007
– phòng Kế hoạch tài Chính)
Trong 2 năm: năm 2003 và năm 2005 kim nghạch nhập khẩu tủy thác của Công ty đã giảm xuống do một vài yếu tố trong và ngoài nước. Tuy nhiên quy mô và tốc độ chưa phải là thước đo hiệu quả nhất với hoạt động nhập khẩu ủy thác của Công ty. Chúng ta cần nghiên cứu số liệu nhập khẩu ủy thác trong những năm gần đây của Công ty giữa chỉ tiêu kế hoạch và thực hiện để phân tích sâu hơn vấn đề này.
Bảng 15: Kim ngạch nhập khẩu ủy thác của Công ty năm 2003 – 2007
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
USD
USD
So với năm trước (%)
USD
So với năm trước (%)
USD
So với năm trước (%)
USD
So với năm trước (%)
Kế hoạch
70.682.809
93.650.088
132,5
75.001.574
80,1
106.500.000
142,0
91.316.618
85,7
Thực hiện
83.447.553
121.893.081
146,1
79.733.057
65,4
119.733.557
150,2
96.534.450
80,6
Thực hiện so với kế hoạch (%)
118,0
130,2
106,3
112,4
105,7
(Nguồn: phòng Kế hoạch tài chính)
Bảng so sánh kết quả nhập khẩu ủy thác giữa thực hiện và kế hoạch của Công ty cho thấy quy mô nhập khẩu ủy thác của Công ty tuy không tăng trưởng đều song xét về hiệu quả nhập khẩu ủy thác thì Công ty vẫn đạt, vượt kế hoạch chỉ tiêu đặt ra. Năm 2004 có thể nói là năm rất thành công của Công ty, kim ngạch nhập khẩu uỷ thác đạt 121.893.081 USD, chiếm tới 85,5% trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty và tăng 46,1% so với năm 2003. Tuy nhiên sang tới năm 2005 sự thành công đó đã không còn khi kim nghạch nhập khẩu ủy thác giảm mạnh so với năm 2004, chỉ còn 79.733.057 USD tương ứng 65,4% so với năm 2004. Năm 2006, kim nghạch nhập khẩu ủy thác của Công ty đạt 119.733.557 USD chiếm 96,6% kim nghạch nhập khẩu, tuy có tăng những vẫn chưa đạt được mức của năm 2004. Tới năm 2007 do Công ty phải tiến hành một số thủ tục để cố phần hoá nên kim ngạch nhập khẩu uỷ thác giảm chi đạt 96.534.450 USD. Những con số này cho thấy Công ty còn khá nhiều việc cần làm sau khi cổ phần hóa khi mà tính chất cạnh tranh gay gắt của thị trường và những thử thách khách quan khác đang là bài toán hóc búa đối với Công ty để tìm ra một phương hướng cho việc tìm ra một phương hướng cho việc duy trì hiệu quả của hoạt động nhập khẩu ủy thác vốn là thế mạnh của Công ty.
III. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty và những khó khăn tồn tại mà doanh nghiệp cần khắc phục
1. Yếu tố chủ quan
1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Trong sản xuất, kinh doanh, nguồn nhân lực của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sản xuất nhằm tạo ra nguồn tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính nguồn nhân lực sáng tạo ra những kiểu dáng mới phù hợp hơn với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp có thể bán được, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nguồn nhân lực còn tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu từ khâu tìm kiếm khách hàng, đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng....cho đến khâu cuối cùng. Chính vì vậy, doanh nghiệp có đạt được hiệu quả trong kinh doanh hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp mình.
Technoimport có đội ngũ cán bộ với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao trong hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhưng độ tuổi trung bình của hầu hết các cán bộ đã trên 45 tuổi. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của công ty do đội ngũ này kém năng động, chậm chạp trong việc tiếp thu khoa học công nghệ mới và sức ỳ là tương đối lớn. Cho đến nay ở Công ty nói riêng và trong các doanh nghiệp có liên quan nói chung vẫn chưa có các nhóm chuyên viên thông thạo mọi lĩnh vực công nghệ trong một dự án cho nên nhiều khi đã chuẩn bị mở thầu nhưng chủ đầu tư và thậm chí cả các chuyên viên tư vấn chưa thể hình dung được loại máy móc, thiết bị và công nghệ nào cho phù hợp nhất với dự án của mình. Nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ có nghĩa là sẽ nhập khẩu hàng trăm, thậm chí hàng nghìn loại máy móc thiết bị khác nhau, do đó không một tổ chức tư vấn nào của Việt Nam có thể hoàn toàn am hiểu các công nghệ đi kèm. Trong nhiều trường hợp phương án kỹ thuật và công nghệ đã được xem xét cẩn thận nhưng do không thể tính được hết các vấn đề nảy sinh khi áp dụng một công nghệ nào đó tại một địa điểm và trong một thời gian cụ thể nên dẫn tới tình trạng cùng một loại công nghệ song ở nơi này phát huy hiệu quả cao, còn ở nơi khác lại không có hiệu quả. Thêm vào đó, sự chênh lệch về trình độ quản lý và sử dụng công nghệ cũng dẫn đến sự khác nhau về hiệu quả phát huy kỹ thuật của công nghệ nhập khẩu. Xác định đúng loại công nghệ cần nhập khẩu cho dự án là khó khăn đầu tiên và có thể coi là lớn nhất đối với việc ra quyết định đầu tư nhập khẩu công trình của chủ đầu tư trong điều kiện hiện nay.
Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển làm cho hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực ngày càng phải tinh nhuệ. Chính vì vậy, vai trò của nguồn nhân lực trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh tại doanh nghiệp ngày càng quan trọng.
1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện có của doanh nghiệp
Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị...
Tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn cho máy móc thiết bị ở Việt Nam do Bộ khoa học Công nghệ có trách nhiệm lập và kiểm tra. Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện các tiêu chuẩn này có nhiều bất cập, bản thân các tiêu chuẩn được quy định cũng còn sơ sài, chưa đầy đủ. Việc nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng thực hiện theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 và phải đảm bảo các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường và chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng máy móc công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ với 76% máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang...; chỉ có 10% doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, 38% ở mức trung bình, 52% thuộc loại lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao của Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng 2%, trong khi đó Thái-lan là 31%, Singapore là 73%, Malaysia 51% (theo tiêu chí để đạt trình độ nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%). Ðầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, một tỷ lệ quá thấp so với các nước trong khu vực như Ấn Ðộ là 5%, Hàn Quốc 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị của Việt Nam hàng năm cũng chỉ đạt 8 - 10%, trong khi ở các nước trong khu vực có tỷ lệ tương ứng là 15 - 20%. Riêng về công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có tới 58% doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam có công nghệ lạc hậu.
Điều có thể nhận thấy ngay được là phần lớn máy móc thiết bị công nghệ của ta tụt hậu ngay từ đầu, từ lúc mua sắm dây chuyền “thiết bị mới”. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến. Chẳng hạn: Tổng tiêu hao năng lượng để sản xuất một tấn NH3 của Nhà máy phân đạm Bắc Giang lên tới 61,94 GJ (đơn vị tính về tiêu hao năng lượng), trong khi một nhà máy khác của công ty hoá chất sử dụng than chỉ tốn từ 42,79 đến 43,86 GJ. Một thực tế khác là vì không biết trình độ công nghệ chung trên thế giới đến mức nào mà chỉ so với ta thì thấy tiến bộ hơn rất nhiều và các doanh nghiệp “hí hửng mua về”. Đến khi sản xuất, phải cạnh tranh trên thị trường thì mới “ngã ngửa” rằng thiết bị công nghệ vừa mua quá lạc hậu so với thế giới. Và “câu chuyện” về việc hô hào tiếp tục đổi mới, cải tiến tại diễn ra. Thực tế dây chuyền vừa mua về chưa thu được đồng vốn nào thì lấy gì mà đổi mới. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước (là nơi tiêu “tiền chùa” và công nghệ càng lạc hậu thì càng có “lợi” cho kẻ đầu cơ thông qua việc mua). Tình trạng lạc hậu dây chuyền và công nghệ sản xuất cũng xảy ra phổ biến ở các doanh nghiệp tư nhân vì thiếu thông tin. Một số trường hợp công nghệ lúc mua là loại tiên tiến nhất, nhưng do xác định công suất quá lớn so với khả năng nguyên liệu lúc bấy giờ, cho nên 10 - 15 năm sau vẫn chưa thu hồi được vốn, không có tiền đổi mới công nghệ nên thành lạc hậu.
Hiện nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng với chu kỳ công nghệ ngày càng được rút ngắn, đóng vai trò to lớn, mang tính quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này đòi hỏi Công ty nói riêng và các doanh nghiệp nước ta nói chung phải tìm được giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến của thế giới, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có thể làm chủ được khoa học kỹ thuật hiện đại, sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật mới,... làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp
Với khối lượng đồ sộ thiết bị máy móc, hàng hoá và dịch vụ kèm theo nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật đòi hỏi một số vốn tương ứng rất lớn. Huy động trong nước đủ lượng vốn cho nhập khẩu nhiều công trình thiết bị toàn bộ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hiện nay là điều chưa thể thực hiện được đối với các doanh nghiệp trong nước hiện nay. Câu hỏi luôn đặt ra đối với các nhà nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật là làm sao để sử dụng nguồn vốn bỏ ra một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra là việc huy động được nguồn vốn quý báu ấy không phải dễ dàng, song làm sao để cho nguồn vốn đó phát huy tác dụng tích cực còn khó hơn nhiều.
Là một doanh nghiệp thương mại nên nguồn vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Chính vì vậy, Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì sẽ nâng cao hiệu quả của Công ty. Tuy nhiên việc sử dụng vốn lưu động còn nhiều hạn chế, không chỉ do việc quản lý còn chưa hiệu quả, Công ty còn chưa sử dụng vốn lưu động một cách hiệu quả. Trong quản lý Công ty, nguồn vốn lưu động chưa phân bố về các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nên nguồn vốn lưu động trong Công ty bị chia nhỏ đến 7 lần. Nguồn vốn này tuy lớn nhưng khi bị chia nhỏ ra như vậy thì không thể đảm bảo trả nợ cho các hợp đồng nhập khẩu vì vậy các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ có giá trị lớn, Công ty phải thường xuyên vay vốn ngân hàng. Mặt khác, thời gian thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường rất dài nên mức lãi suất phải trả ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kinh phí kinh doanh. Nếu nguồn vốn lưu động của công ty được quản lý tập trung thì việc vay nợ ngân hàng sẽ giảm đi rất nhiều, điều này sẽ giảm chi phí, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn lưu động, Công ty còn phải phát huy hiệu quả nguồn vốn cố định. Trong Công ty, nguồn vốn cố định chiếm 20% trong nguồn vốn kinh doanh, một tỷ lệ hợp lý đối với một doanh nghiệp kinh doanh thương mại đơn thuần. Nguồn vốn cố định bao gồm giá trị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc, việc sử dụng hiệu quả tài sản cố định cũng là vấn đề đặt ra đối với công ty. Hiện nay thiết bị văn phòng vẫn còn sử dụng một cách không hợp lý, có những thiết bị dư thừa như điện thoại nhưng cũng có những thiết bị còn thiếu như máy tính (có phòng kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ có 2 máy tính/6 cán bộ. Mà việc sử dụng máy tính là rất cần thiết cho nhu cầu kinh doanh).
Không thể phủ nhận một điều rõ ràng là một phần nguồn vốn của nhập khẩu đó không từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu thiết bị toàn bộ được nhập khẩu về không được đánh giá đúng và sử dụng một cách hiệu quả thỉ sẽ kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị nói riêng.
Vốn là nhân tố quan trọng thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ khâu hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh để làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương án sử dụng vốn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực hiện có, tổ chức chu chuyển, tái tạo và bảo toàn vốn. Đồng thời, khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng việc nghiên cứu biến động của thị trường tiền tệ đặc biệt là sự biến động của các ngoại tệ mạnh như USD, JPY, EURO...
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với môi trường kinh doanh có rất nhiều biến động. Chính vì vậy, nhân tố quản lý đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc quản lý tốt nguồn vốn của Công ty là rất cần thiết, góp phần quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho Công ty. Hy vọng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông chờ vào viện trợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật để rồi sau đó Việt Nam sẽ là nước xuất khẩu máy móc thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế.
2. Yếu tố khách quan
2.1. Môi trường chính trị pháp luật
Môi trường pháp lý bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Mọi quy định trong các văn bản này đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình mà còn điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô khác.
Hiện nay, các quy định về thủ tục nhập khẩu máy móc thiết bị cho các dự án do quá nhiều cơ quan thuộc nhiều cấp ban hành, dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn giữa các văn bản làm ách tắc nhập khẩu, gây thiệt hại vê thời gian và tiền bạc cho chủ đầu tư mặc dù trong đó có nhiều chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước cấp hoặc bảo lãnh.
Mặc dù mọi dự án đều đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhưng khi tiến hành nhập khẩu hàng hóa thiết bị và vật tư cho dự án thì lại một lần nữa phải xin phép Bộ Công Thương, khi xin phép lại phải xuất trình toàn bộ các văn bản trong quá trình lập báo cáo khả thi. Đối với máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được do Bộ Công nghiệp quyết định, nhưng để được miễn thuế nhập khẩu thì lại phải xin phép Bộ Công Thương một lần nữa mặc dù theo luật định, đã là hàng trong nước không sản xuất được thì chỉ cần bộ quản lý nghành xác nhận là được miễn thuế nhập khẩu. Những quy định phiền hà như thế này gây khó khăn không ít cho người nhập khẩu đôi khi làm mất cơ hội kinh doanh của công ty đối với đối tác nước ngoài. Bởi vì thiết bị toàn bộ là một mặt hàng nhạy cảm, nhanh chóng lỗi thời, giá trị của hợp đồng lớn với mức giá biến động cao. Nếu không tận dụng được thời cơ nhập khẩu sẽ làm giảm tính hiệu quả của thiết bị nhập về, điều này đòi hỏi dự án nhập khẩu của Công ty phải được nhanh chóng cấp phép.
Ngoài ra, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi tham gia vào các hợp đồng ngoại thương đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật của quốc gia mình mà còn phải nắm chắc và tôn trọng luật pháp ở nước sở tại cũng như Tập quán và các Điều ước quốc tế khác. Việc làm này tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng nhân tố này trước khi tham gia ký kết để tránh những rủi ro không đáng có sau này.
2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước
Môi trường kinh tế là các nhân tố bên ngoài như các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ...có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách này có thể ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể; do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nằm trong ngành hay vùng kinh tế nhất định. Việc xử lý tốt các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và đảm bảo tính công bằng, ... đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan.
Ngay các chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị và khoa học công nghệ trực tiếp của Việt Nam đã được xây dựng nhằm khuyến khích và hỗ trợ mua công nghệ mới, song chính luật thuế và hệ thống thu thuế lại đã đặt ra hạn chế cho quá trình mua công nghệ đối với các nhà máy. Thủ tục nhập khẩu khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng như những quy định chồng chéo về nhập khẩu thậm chí đối với tư liệu sản xuất, dịch vụ công nghệ đã làm hạn chế bớt việc tiếp cận kịp thời để có thể làm chủ các nguồn công nghệ cao của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho một số ngành công nghiệp hoạt động thuận lợi, gây mất lòng tin của đối tác nước ngoài cũng như giảm khả năng thu hút vốn đầu tư và xin vay vốn nước ngoài.
Những điều này có thể gây lãng phí về thời gian trong khi chờ đợi phê duyệt, làm chậm tiến độ triển khai dự án, làm cho phía nước ngoài kém tin tưởng vào các thoả thuận đã giành được trên bàn đàm phán, bởi vì những thoả thuận đó lại còn phải chờ đợi sự phê duyệt của các cơ quan quyền lực ở phía sau, từ đó sẽ tạo ra một tâm lý không tích cực cho các đối tác nước ngoài khi hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trong khi đó vấn đề tạo ra được một tinh thần tin cậy vào thiện chí của các bên chính là một trong những cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện thuận lợi hợp đồng sau này.
2.3. Những vướng mắc về thuế
Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ phục vụ cho các dự án với mục đính thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước do vậy chúng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế khi nhập khẩu. Tuy nhiên, do các văn bản trong lĩnh vực này được ban hành liên tục và quá nhiều nên đã dẫn đến tình trạng chồng chéo gây khó khăn cho người nhập khẩu, chủ đầu tư và các bên có liên quan. Chẳng hạn như khái niệm thiết bị toàn bộ và thiết bị đồng bộ vẫn chưa được làm rõ, chỉ có khái niệm duy nhất về thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ được đưa ra trong Quyết định số91/TTg ban hàng ngày 31/11/1992 mà hoàn toàn không có khái niệm thiết bị đồng bộ nên xảy ra tình trạng bất động giữa doanh nghiệp và hải quan về chế độ áp dụng thuế đối với từng loại thiết bị nhập khẩu và đây là nguyên nhân mà các lô hàng thiết bị toàn bộ của các dự án do doanh nghiệp nhập về không có máy chính bị cơ quan hải quan áp mã tính thuế đối với hàng thiết bị lẻ và chủ đầu tư buộc phải nộp trong thời gian quy định. Những ách tắc như thế này trong quá trình làm thủ tục thông quan đã dẫn đến những khoản thuế phải nộp khi nhập lô hàng lên đến hàng tỷ đồng, mà nếu chủ đầu tư chưa kịp thu xếp nguồn vốn vay tạm thời để nộp thuế thì lại gây rắc rối cho hoạt động kinh doanh của người nhập khẩu, do người nhập khẩu đứng ra nhập uỷ thác và làm thủ tục thông quan cho hàng hóa nên nếu không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, lô hàng đó sẽ bị cưỡng chế thuế, và toàn bộ hàng hóa của người nhập khẩu tại mọi cửa khẩu trên phạm vi toàn quốc sẽ không được phép tiếp tục làm thủ tục thông quan mà phải chờ giải quyết, khiến cho phát sinh thêm hàng chục tỷ đồng do chi phí lưu kho bãi, tiền bồi thường do tàu không được giải phóng và hàng loạt tổn thất khác.
Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chông lên thuế, tuy vậy, phương thức tính thuế GTGT cùng với những quy định về áp dụng luật thuế giá trị gia tăng tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện, gây trở ngại cho người nhập khẩu. Theo luật thuế giá trị gia tăng quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Như vậy, có thể nhận thấy là thuế GTGT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu khi mới đến cửa khẩu thì chưa thể xuất hiện khoản giá trị gia tăng, khoản này chỉ có thể xuất hiện khi hàng hóa được luân chuyển, còn thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa không thể được coi là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa.
2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu
Thủ tục hải quan là những việc phải làm của người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, có phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh hoặc của người được uỷ quyền (gọi tắt là người khai hải quan) th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10638.doc