Mặc dù kiến thức khá dài gồm cả lí thuyết và bài tập nhưng bản thân môn học lại có tính logic rất cao. Tính logic trong hoá học được thể hiện trong mối quan hệ giữa cấu tạo, tính chất lí, hoá, ứng dụng và điều chế các chất; trong các mối quan hệ giữa các phần kiến thức của chương trước với chương sau; giữa Hoá học vô cơ với Hoá học hữu cơ; giữa Hoá học với các môn học khác. Chẳng hạn, trong chương trình Vật lí và Hoá học đều đề cập đến kiến thức về hiện tượng vật lí, khái niệm về phân tử, định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng, các thuyết về cấu tạo chất trong đó kiến thức về cấu tạo chất được coi là một trong những trục chính của chương trình. Vì vậy cần phải giúp học sinh nắm được bản chất của vấn đề thông qua việc làm rõ được các mối quan hệ này.
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2840 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số kỹ thuật mở đầu bài giảng hiệu quả môn Hoá học ở THPT theo quan điểm sư phạm tương tác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học đạt được mục đích mong muốn, vượt qua khó khăn, tự khẳng định và tự đánh giá mình.
Cuối cùng, và cũng là giai đoạn kết thúc trong quan điểm sư phạm hứng thú, người học phải có mối quan hệ giữa chính bản thân và đối tượng học đến mức mà khơi dậy ở người học một sự hứng thú thực sự, ở thời kỳ này, người học trở thành bên nhận của đối tượng học: đó là mối liên hệ có ý nghĩa với đối tượng học. Mối quan hệ tương hợp vì vậy đã đạt tới nấc cuốn hút, chuyển đổi thành động cơ hành động. Hứng thú thực sự khởi động sự năng động, thúc đẩy người học muốn thoả mãn nhu cầu học của mình.
Cụ thể hoá vấn đề này đó là: việc kích hoạt nhu cầu thỏa mãn tri thức ở người học, người học sẽ tìm kiếm một mối quan hệ tương hợp giữa người học và đối tượng học. Mối quan hệ này sẽ tạo nên hứng thú ở người học. Để hình thành được mối quan hệ này giữa học sinh và đối tượng học, giáo viên - người dẫn dắt hoạt động dạy phải lựa chọn những “chiến lược” sư phạm thích hợp. Hiển nhiên người dạy sẽ loại bỏ ngay tức khắc bất cứ một phương pháp cưỡng bức nào với bất cứ một biện pháp nào dù chúng là gì. Bên cạnh đó người dạy cũng không thể áp đặt hoặc dành sự hứng thú bằng các phương tiện xa lạ với đối tượng học như là các phần thưởng, sự trừng phạt hoặc các dụng cụ học mới. Trong những trường hợp này, người học có thể dễ dàng chạy trốn, bằng cách hoàn toàn đơn giản là giả vờ hứng thú.
Đối với người dạy - người dẫn dắt hoạt động, vấn đề là sắp xếp một tình huống thực sự có ý nghĩa đối với người học. Khi người học bắt gặp một vấn đề mà không có giải pháp, những khó khăn sẽ nảy sinh. Vì vậy, người dạy phải gắng giúp người học, hoá giải vấn đề, biến những nội dung trừu tượng, khó hiểu thành những điều cụ thể và thực tế.
Tính hiệu quả của chiến lược này, phần lớn dựa trên việc hình thành vấn đề, hay nói cách khác chính là khâu mở đầu bài giảng. Với mục đích gây nên sự tò mò thậm chí ngạc nhiên cho người học, người dạy cố gắng xác định một vấn đề cụ thể chính xác, đi từ thực tế hoặc gắn với môi trường trước mắt. Vấn đề cũng như giải pháp phải có một mối liên hệ chặt chẽ với đối tượng học. Chẳng hạn như trong vấn đề nghiên cứu động cơ, rất nên gợi lại sự bay của các máy bay phản lực, sự chạy của các ô tô trong các cuộc đua và thậm chí là sự di chuyển riêng của họ để đi đến trường. Và trong tất cả những chuyển động này họ sẽ giải thích như thế nào? Trách nhiệm thuộc về người học là tìm ra giải pháp. Nghệ thuật của người dạy - người dẫn dắt hoạt động là đưa ra được vấn đề thực tế mà những người học muốn tìm ra giải pháp. Đó chính là điểm xuất phát cho bài học, điểm quy chế cho quá trình học và sự hồi quy sau khi đã tìm ra giải pháp.
Tóm lại, việc gây hứng thú ở người học phải được bắt đầu từ phần mở đầu bài giảng và duy trì đến hết tiết học. Người học bắt đầu từ việc hứng thú với nội dung học sẽ tích cực, chủ động tham gia vào bài học và có trách nhiệm với hoạt động học của mình. Phần tiếp theo, tôi nghiên cứu lý thuyết chung về mở đầu bài giảng và mối quan hệ giữa mở đầu bài giảng với việc tạo hứng thú học tập cho học sinh.
1.3. Lý thuyết chung về mở đầu bài giảng.
1.3.1. Vị trí và vai trò của mở đầu bài giảng.
Mở đầu bài giảng là công đoạn khởi đầu cho mỗi tiết học thường diễn ra trong khoảng thời gian từ 5 – 10 phút và phải đảm bảo thực hiện được hai nhiệm vụ:
- Định hướng học tập cho học sinh (nghĩa là bài học này nhằm mục đích gì, để trả lời câu hỏi gì, học sinh thu được gì sau tiết học này, ...)
- Thu hút sự chú ý của học sinh vào bài học, qua đó quản lý và kiểm soát lớp học thông qua các hình thức triển khai dạy học.
1.3.2. Yêu cầu chung để có mở đầu bài giảng hiệu quả.
Để có một mở đầu bài giảng hiệu quả thì trước hết phải hoàn thành được hai nhiệm vụ của mở đầu bài giảng đã nêu ở trên. Bên cạnh đó, giáo viên phải lôi cuốn được học sinh vào bài giảng của mình, tạo hứng thú và khiến học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. Một người giáo viên giỏi là những người tạo ra môi trường lớp học thân thiện với người học sôi động, kích thích khả năng tư duy và tạo ra được những thách thức cho người học. Họ làm được điều đó bởi vì họ khởi đầu với đầy đủ các bước trong quy trình quản lý lớp học. Với phần mở đầu hấp dẫn, hiệu quả thì giáo viên không chỉ định hướng học tập cho học sinh mà còn kích thích tư duy học sinh, hình thành động cơ chủ động tìm tòi và lĩnh hội kiến thức, giáo viên không chỉ thu hút được sự chú ý của học sinh mà còn tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Theo quan điểm sư phạm tương tác, phần mở đầu bài giảng - khoảng thời gian bắt đầu một tiết học, là thời điểm hâm nóng, thời điểm tạo tình huống, thời điểm dạo đầu lôi cuốn việc thu lượm tri thức mới. Giáo viên phải đặc biệt chú ý đến hứng thú của học sinh ngay từ đầu tiết học. Đó chính là khoảng thời gian góp phần quyết định đến sự thành bại của tiết học. Thành công là khi hứng thú học tập được hình thành và duy trì đến hết tiết học, học sinh cảm thấy nhu cầu tiếp nhận tri thức của mình được thoả mãn. Thất bại là khi học sinh không biết mình đã thu được kiến thức gì sau giờ học, không biết kiến thức đó để làm gì.Vai trò của giáo viên là mở ra cánh cửa học tập cho học sinh. Trong từng tiết học cụ thể, giáo viên lại tìm cách sao cho cánh cửa được mở ra trong sự mong chờ và đầy hứng thú của học sinh. Vẫn là cánh cửa cũ kĩ, nhưng mỗi ngày chúng ta “sơn” cho nó một màu khác nhau, nó sẽ trở nên mới lạ và hấp dẫn. Công việc “sơn” lại cánh cửa học tập chính là thiết kế phần mở đầu cho mỗi bài giảng.
Tuỳ thuộc vào mục tiêu tiết học, nội dung bài học và đối tượng học sinh mà giáo viên có thể xây dựng các hình thức mở đầu bài giảng khác nhau. dưới đây là phân loại một số cách mở đầu bài giảng cơ bản.
1.3.3. Phân loại mở đầu bài giảng
Mở đầu bài giảng chính là khoảng thời gian đầu tiên giáo viên bắt đầu triển khai các phương pháp dạy học, tổ chức lớp học và sắp xếp các hoạt động dạy và học. Trong nội dung này, tìm hiểu một số kỹ thuật mở đầu bài giảng cơ bản trong dạy học phổ thông.
1.3.3.1. Mở đầu bài giảng trực tiếp
Đây là cách mở đầu bài giảng đi thẳng vào vấn đề cần trình bày, gọi nôm na là “đi đường thẳng”. Đây là cách phổ biến nhất với các giáo viên vì nó có ưu điểm là nhanh chóng và trực tiếp truyền tải thông tin đến học sinh mà không tốn nhiều thời gian và công sức. Người dạy không cần phải đầu tư, nghiên cứu nhiều vẫn có thế giới thiệu ngay bài học và những nội dung chính của tiết học. Cách thức triển khai hình thức này cũng rất đơn giản: giáo viên trực tiếp đi thẳng vào vấn đề cần nói đến, giới thiệu chủ đề chính của bài học, và tiến hành triển khai tiết học. Xem xét hai nhiệm vụ chung của phần mở đầu bài giảng đó là định hướng học tập và thu hút sự chú ý của học sinh thì cách mở đầu bài giảng trực tiếp đã đảm bảo hoàn thành được cả hai nhiệm vụ. Khi giáo viên triển khai hình thức này, học sinh sẽ không phải tư duy nhiều, mà trực tiếp tiếp cận được ngay với nội dung bài học, xác định được ngay định hướng học tập mà không bị “lạc đường”. Cũng chính vì thế mà cách này sẽ không tạo ra được “thách thức” với người học, mà người học sau khi định hướng mục tiêu học tập sẽ phải tự đặt ra thách thức cho mình. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng làm được điều này.
Hiệu quả của mở đầu bài giảng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nếu chọn cách trực tiếp thì giáo viên cần tạo hứng thú cho học sinh bằng phong cách, ngôn ngữ, giọng nói, …qua đó mà hấp dẫn học sinh vào bài học. Vì đây là cách phổ biến và thông dụng nên cũng rất dễ gây nhàm chán, không tạo được hứng thú học tập, do đó, gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
1.3.3.2. Mở đầu bài giảng gián tiếp
Mở đầu bài giảng bằng các trò chơi
Các trò chơi được xây dựng có thể dựa trên cơ sở nội dung của bài học, cũng có thể chỉ mang tính chất thu hút sự chú ý của học sinh. Vì là phần mở đầu bài giảng nên thời gian cũng được giới hạn , thường là khoảng 5 – 10 phút. Do đó, Các trò chơi tổ chức cho học sinh cũng phải hết sức đơn giản, nhanh gọn nhưng vẫn phải hiệu quả. Có thể chia trò chơi thành hai nhóm là: nhóm trò chơi tạo hưng phấn và nhóm trò chơi kích thích tư duy.
Với nhóm thứ nhất, chỉ mang tính chất vui vẻ, tạo sự hứng khởi cho học sinh trước khi vào bài học. Cách này đem lại một hiệu quả rõ rệt đó là học sinh sẽ cảm thấy thoải mái trong giờ học và thân thiện với giáo viên. Tuy nhiên, một bất lợi khác có thể xảy ra đó là học sinh sẽ “quá” hưng phấn mà quên mất nhiệm vụ học tập. Mặt khác, các trò chơi dạng này không liên quan đến nội dung bài học nên không có tác dụng kích thích tư duy và không tạo ra được thách thức với người học. Do đó mà các trò chơi kiểu này không được sử dụng nhiều, đôi khi nó được tổ chức nhằm mục đích thu hút sự tập trung của người học vào giáo viên và quản lý lớp học.
Nhóm trò chơi thứ hai là các trò chơi được xây dựng dựa trên nội dung bài học. Với các trò chơi kiểu này không những hút được sự chú ý của học sinh vào bài học mà còn kích thích tư duy học sinh, qua đó tạo hứng thú nhất định trong tiết học và hứng thú lâu dài với môn học. Giáo viên sẽ tốn khá nhiều thời gian và công sức để thiết kế các trò chơi như vậy, nhưng đổi lại sẽ thu lại những kết quả bất ngờ. Khi tham gia trò chơi, học sinh sẽ tự tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, mỗi người đều phải tư duy hết sức để dành chiến thắng. Khi thiết kế các trò chơi như vậy, giáo viên phải chú ý đảm bảo các yêu cầu đó là: nhanh chóng, vừa sức và gắn liền với nội dung bài học. Khi tham gia trò chơi, học sinh được tư duy nghĩa là giáo viên qua đó đã tạo được một “thách thức” nhất định. Đây là nhóm trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong mỗi tiết học cụ thể. Nội dung của trò chơi phải gắn kết trực tiếp với nội dung bài học, vừa sức với học sinh, tạo được hứng thú với số đông học sinh và hình thức tổ chức phải phù hợp với đối tượng học sinh, không gian lớp học, thời gian, …
Các hình thức trò chơi phổ biến đó là trò chơi ô chữ, trò chơi ghép hình, đóng vai … với môn Hoá học còn có thêm các trò chơi lắp ghép các mô hình phân tử, …Những mở đầu bài giảng dưới dạng các trò chơi sẽ mang lại cho học sinh một không khí hứng khởi và sôi nổi, đó là tiền đề thích hợp để tạo ra những hứng thú và động cơ học tập tích cực.
Mở đầu bài giảng bằng cách nêu vấn đề
Đây cũng là một hình thức phổ biến, thường được giáo viên sử dụng trong khi giảng dạy. Nêu vấn đề là cách dễ tạo “thách thức” nhất với người học. Giáo viên tổ chức các tình huống học tập bằng cách đặt câu hỏi và nêu ra vấn đề cần giải quyết dựa trên cơ sở là nội dung bài học. Câu hỏi đặt ra phải đảm bảo yêu cầu ngắn gọn, bao quát, gắn liền với nội dung bài học, kích thích tư duy học sinh và phải là câu hỏi mở. Câu hỏi hay tình huống giáo viên đưa ra trong phần mở đầu sẽ định hướng cho học sinh trong tiết học, và sau khi kết thúc bài học, học sinh tự mình trả lời được câu hỏi và giải quyết được tình huống của giáo viên đưa ra ban đầu nghĩa là đã lĩnh hội được kiến thức. Có hai cách đặt vấn đề thông thường là: cách thứ nhất là nêu vấn đề để học sinh tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc của vấn đề, cách thứ hai là đưa ra tình huống để học sinh tự xác định vấn đề. Mỗi hình thức sẽ mang lại một hiệu quả khác nhau, tuỳ thuộc vào nội dung cụ thể của tiết học, nhưng với hình thức nào cũng phải đảm bảo ba yêu cầu:
- Vấn đề đưa ra phải rõ ràng và sát thực với nội dung kiến thức học sinh cần tiếp thu.
- Vấn đề đưa ra phải gắn kết được với kiến thức cũ, chỉ ra được những điều cơ bản học sinh cần tập trung ở bài mới.
- Vấn đề đưa ra phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh và tạo được hứng thú cho học sinh.
Nêu vấn đề là hình thức dễ triển khai, đơn giản, thuận tiện và mang lại hiệu quả cao cho tiết học. Để tổ chức cách mở đầu bài giảng kiểu này, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài học, trên cơ sở đó thiết kế những câu hỏi mang tính chất gợi mở, kích thích tư duy, chuẩn bị những tình huống học tập để học sinh tham gia vào bài học một cách tự nhiên và thoải mái. Cách mở đầu bài giảng này có thể áp dụng hiệu quả với tất cả các môn học và với tất cả các đối tượng học sinh.
Nói chung, mỗi cách mở đầu đều có những thuận lợi hay hạn chế khác nhau và tính phù hợp nhất định. Người giáo viên trong quá trình giảng dạy nên linh hoạt sử dụng các hình thức này để bài học thêm sinh động. Cũng không nên thường xuyên lặp đi lặp lại một kiểu mà nên thay đổi cho phù hợp với từng nội dung và yêu cầu của bài học. Một mở đầu hiệu quả sẽ là tiền đề đem lại thành công cho tiết học.
Đối với mỗi môn học khác nhau, ứng với từng nội dung cụ thể sẽ có những đặc điểm gây hứng thú khác nhau mà giáo viên từ đó có thể triển khai một mở đầu bài giảng hiệu quả. Trong phạm vi của khoá luận này, tôi đi sâu nghiên cứu về môn Hoá học, nên trong phần tiếp theo, tôi tập trung tìm hiểu đặc điểm cơ bản của môn Hoá học và các phương pháp chung dạy học Hoá học.
1.4. Những đặc điểm cơ bản của môn Hoá học và bản chất của dạy học Hoá học ở THPT
1.4.1. Đặc điểm môn Hoá học
Môn Hoá học là môn học thực nghiệm trong nhóm các môn Khoa học tự nhiên, cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản về các chất, sự biến đổi các chất, mối liên hệ qua lại giữa công nghệ hoá học, môi trường và con người. Hoá học phổ thông bao gồm ba nội dung chính là: hoá đại cương, hoá vô cơ và hoá hữu cơ. Những tri thức này rất quan trọng, giúp học sinh có nhận thức khoa học về thế giới vật chất, góp phần phát triển năng lực nhận thức và năng lực hành động, hình thành nhân cách con người lao động mới năng động, sáng tạo.
Hóa học là môn khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm, có nội dung kiến thức lí thuyết cụ thể, được kiểm chứng bằng việc thực hiện các thí nghiệm. Vì vậy học sinh có thể quan sát và dễ dàng mô hình hoá các khái niệm có trong bài học. Tuy nhiên, kiến thức lí thuyết hoá học khá dài, lại có nhiều lưu ý đặc biệt nên với phần lớn học sinh, Hóa học vẫn là một môn học khó. Do vậy việc dạy hóa học ở THPT cần có những điểm khác biệt so với các môn khoa học khác, đó là: phải trực quan hoá nội dung kiến thức, lí thuyết phải được kiểm nghiệm, chứng minh bằng các mô hình, thí nghiệm để học sinh thấy được sự tồn tại và biến đổi các chất….
Mặc dù kiến thức khá dài gồm cả lí thuyết và bài tập nhưng bản thân môn học lại có tính logic rất cao. Tính logic trong hoá học được thể hiện trong mối quan hệ giữa cấu tạo, tính chất lí, hoá, ứng dụng và điều chế các chất; trong các mối quan hệ giữa các phần kiến thức của chương trước với chương sau; giữa Hoá học vô cơ với Hoá học hữu cơ; giữa Hoá học với các môn học khác. Chẳng hạn, trong chương trình Vật lí và Hoá học đều đề cập đến kiến thức về hiện tượng vật lí, khái niệm về phân tử, định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng, các thuyết về cấu tạo chất…trong đó kiến thức về cấu tạo chất được coi là một trong những trục chính của chương trình. Vì vậy cần phải giúp học sinh nắm được bản chất của vấn đề thông qua việc làm rõ được các mối quan hệ này.
Hơn nữa, Hoá học là một ngành khoa học ứng dụng có tính thực tiễn cao, dễ khiến người học hăng say tìm hiểu các tri thức khoa học để khai thác và giải thích các hiện tượng ứng dụng Hoá học trong đời sống. Đó là một động lực để phát triển năng lực tư duy logic, ghi nhớ và tổng hợp kiến thức ở người học. Vậy quá trình dạy học phải giúp người học hiểu đúng vấn đề và biết cách vận dụng kiến thức để xử lí các tình huống thường gặp trong đời sống cũng như hoạt động học tập nghiên cứu tiếp theo. Để quá trình dạy học môn Hoá đảm bảo được những nội dung nêu trên, cần phải có các phương pháp dạy học phù hợp. Phương pháp luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học, nó thể hiện trình độ nghiệp vụ sư phạm của giáo viên: Khoa học trong nội dung, kĩ thuật trong thao tác, nghệ thuật trong thể hiện, đảm bảo tính thống nhất, toàn vẹn của hoạt động đặc thù này bởi vậy muốn tăng hiệu quả của quá trình dạy học phải bắt nguồn từ việc đổi mới phương pháp dạy học Hoá học.
Vì vậy, để dạy học Hoá học trong trường phổ thông giáo viên cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học và đối tượng học sinh cũng như điều kiện dạy học. Phần tiếp theo tôi tìm hiểu một số phương pháp chung dạy học Hoá học ở trường phổ thông.
1.4.2. Một số phương pháp chung dạy học Hoá học ở trường phổ thông
Định nghĩa phương pháp dạy học:
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của thầy trong việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động nhận thức của trò nhằm giúp trò chủ động đạt các mục tiêu dạy học. [10]
Với từng nội dung và mục tiêu của tiết học mà có những phương pháp dạy học phù hợp. Trong khoá luận này, các phương pháp dạy học Hoá họci chia thành hai nhóm phương pháp chính là: các phương pháp dạy học khi dạy học bài mới và các phương pháp dạy học khi hoàn thiện kiến thức, kỹ năng.
1.4.2.1. Các phương pháp dạy học khi dạy học nội dung kiến thức mới
Các phương pháp trực quan
Trong các phương pháp trực quan, học sinh dùng giác quan để tri giác tài liệu do giáo viên trình diễn và dùng tư duy để rút ra kiến thức mới. Phương tiện trực quan được sử dụng làm “nguồn” chủ yếu dẫn đến tri thức mới, lời của giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn sự tri giác các tài liệu trực quan (mẫu vật, tranh ảnh, thí nghiệm, băng hình, …) và khái quát hoá các kết quả quan sát.
Trong dạy học Hoá học ở trường phổ thông, thường sử dụng:
- Mẫu các chất, dụng cụ, máy móc, thiết bị, các quá trình vật lý và hoá học (thí nghiệm hoá học).
- Đồ dùng trực quan tạo hình: mô hình phân tử, hình mẫu các máy móc, thiết bị, tranh ảnh, hình vẽ, băng hình, phim giáo khoa, …
- Đồ dùng trực quan tượng trưng (kí hiệu hoá): biểu đồ, sơ đồ, đồ thị.
Việc sử dụng một hình minh hoạ, một mô hình, một thí nghiệm, … sẽ đem lại những hiệu quả khác nhau khi giáo viên sử dụng các phương pháp khác nhau như giải thích – minh hoạ hay tìm tòi từng phần hoặc nghiên cứu phát hiện. Khi tiến hành triển khai phương pháp trực quan, giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu nhất định, đặc biệt là khi biểu diễn các thí nghiệm:
- Bảo đảm an toàn, tuân thủ đầy đủ những quy định về bảo hiểm, hoá chất phải tinh khiết, dụng cụ sạch sẽ và tiến hành đúng quy trình thí nghiệm.
- Thí nghiệm phải bảo đảm thành công, đây là yếu tố ảnh hưởng đến lòng tin vào khoa học của học sinh. Giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và làm thử nhiều lần trước khi biểu diễn trên lớp.
- Thí nghiệm cũng như các mô hình, tranh ảnh hay hình ảnh phải rõ ràng, học sinh phải được quan sát đầy đủ.
- Đảm bảo tính khoa học và mỹ thuật, phù hợp với nội dung bài học.
- Số lượng minh hoạ vừa phải trong một tiết học.
Phương pháp trực quan nhằm mục đích minh hoạ kiến thức, cụ thể hoá và thực tế hoá kiến thức, nên khi giáo viên sử dụng thành công phương pháp này sẽ có một bài dạy sinh động và hiệu quả cao.
Các phương pháp dùng lời
Nhóm phương pháp dùng lời gồm thuyết trình (diễn giảng, trần thuật, giảng giải), vấn đáp (đàm thoại), học sinh làm việc với sách. Học sinh thu được kiến thức mới khi nghe giáo viên diễn giảng, trần thuật hoặc đàm thoại với lớp. Phương pháp dùng lời không chỉ được áp dụng đơn thuần mà kết hợp với phương pháp trực quan để bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhằm tăng hiệu quả. Những ưu điểm nổi bật của các phương pháp dùng lời khi dạy bài mới đó là:
- Cho phép truyền đạt những nội dung khó, phức tạp mà học sinh không thể tự tìm hiểu.
- Học sinh qua cách trình bày của giáo viên sẽ rèn luyện kỹ năng trình bày một vấn đề.
- Lời giảng của giáo viên gây cảm xúc và sức thuyết phục cho học sinh, có tác dụng lớn trong việc giáo dục tình cảm, thái độ ở học sinh.
- Tiết kiệm thời gian, có thể truyền đạt một lượng thông tin lớn cho nhiều học sinh trong một thời gian hạn chế.
Để phát huy được những ưu điểm trên, khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần đảm bảo những yêu cầu:
- Tính khoa học, tính giáo dục và tính thiết thực trong nội dung trình bày.
- Tính chặt chẽ về mặt logic.
- Tính thuyết phục.
- Tính truyền cảm.
Các phương pháp dùng lời còn phát huy tính hiệu quả khi triển khai các phương pháp khác: các phương pháp trực quan, phương pháp nhóm, …
1.4.2.2. Các phương pháp dạy học khi củng cố, hoàn thiện kiến thức, kĩ năng
Các phương pháp trực quan
- Biểu diễn thí nghiệm và phương tiện trực quan khi ôn tập, tổng kết. Chúng có tác dụng rất lớn trong việc gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Thí nghiệm thực hành của học sinh: có tác dụng rất lớn trong việc ôn tập, củng cố, vận dụng kiến thức và đặc biệt là rèn kỹ năng thực hành, giáo dục kĩ thuật tổng hợp.
Phương pháp trực quan khi hoàn thiện kiến thức và kỹ năng khác với khi dạy kiến thức mới. Những thí nghiệm biểu diễn khi ôn tập, tổng kết có thể là:
- Thí nghiệm đã được biểu diễn khi học bài mới nhưng do các hiện tượng xảy ra nhanh, chỉ xem một lần thì học sinh chưa quan sát kĩ được.
- Thí nghiệm đã biểu diễn nhưng có nhiều hiện tượng đồng thời xảy ra, biểu diễn lại để hướng học sinh vào việc quan sát kĩ một hiện tượng nào đó.
- Thí nghiệm mới mang tính chất mở rộng và phát triển kiến thức.
- Thí nghiệm vận dụng kiến thức để giải các bài tập thực nghiệm.
Những phương tiện trực quan khác được sử dụng để học sinh so sánh giữa kiến thức cũ và kiến thức vừa học, những bảng mô hình hoá kiến thức nhằm cụ thể những kiến thức đã học, những biểu đồ, sơ đồ, … nhằm hệ thống hoá kiến thức. Phương pháp trực quan bên cạnh việc đưa ra những khái niệm, định nghĩa, … mới mà còn giúp học sinh tái hiện và khắc sâu kiến thức.
Các phương pháp dùng lời
- Diễn giảng, giảng giải khi ôn tập, tổng kết, hệ thống hoá, mở rộng, đào sâu kiến thức khi ôn tập, tổng kết cuối chương, cuối học kì và cuối năm để làm bật những kiến thức cơ bản nhất trong từng phần hoặc toàn bộ chương trình.
- Đàm thoại là một phương pháp dùng lời quan trọng nhất khi ôn tập, tổng kết, có ưu điểm hơn giảng giải vì không gây nhàm chán, không chỉ đơn thuần nhắc lại kiến thức và giáo viên có thể biết được tình trạng kiến thức của học sinh để điều chỉnh nội dung ôn tập cho có hiệu quả nhất.
- Làm việc với sách giáo khoa: giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh làm việc tự lập với sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh lập bảng tổng kết và giao các nhiệm vụ cụ thể đã được lựa chọn cho học sinh. [10]
Các phương pháp dùng lời là một phần không thể thiếu trong tất cả các tiết học. Tuỳ theo nội dung, mục tiêu của bài học mà giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Trong một tiết học không chỉ dừng lại ở một phương pháp mà cần có sự kết hợp hài hoà để đạt được hiệu quả cao nhất và phát huy tối đa tính ưu việt của từng phương pháp.
Để triển khai bất kỳ phương pháp dạy học nào trong tiết học, giáo viên đều phải bắt đầu với khâu mở đầu bài giảng. Hình thức triển khai mở đầu bài giảng phụ thuộc vào phương pháp dạy học mà giáo viên chọn lựa. Trong mỗi tiết học, mở đầu bài giảng chính là khoảng thời gian làm “đòn bẩy” cho các phương pháp dạy học. Giáo viên phải sử dụng một số kỹ thuật mở đầu bài giảng nhất định để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc định hướng học tập và tạo hứng thú cho học sinh. Để làm rõ vấn đề này, nội dung nghiên cứu tiếp theo là Mối quan hệ giữa mở đầu bài giảng và hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh.
1.5. Mối quan hệ giữa mở đầu bài giảng và hứng thú học tập môn Hoá học của học sinh THPT
“Không có lần thứ hai cho sự mở đầu”.
Bất kỳ một hoạt động nào cũng đều có mở đầu. Sự khởi đầu là một khâu quan trọng quyết định đến diễn biến của hoạt động. Cổ xưa có câu “vạn sự khởi đầu nan”, đối với mỗi giáo viên, sự khởi đầu cho một bài học mới là hết sức quan trọng, đó là một nghệ thuật không chỉ đơn thuần dựa trên mục tiêu, nội dung của bài học mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng học sinh (năng lực, kiểu học, tâm lý, …). Môn Hoá học cũng như tất cả các môn học khác, nếu giáo viên có một mở đầu thành công cho bài dạy của mình sẽ tạo được không khí học tập và niềm say mê cho học sinh, làm chủ được lớp học và kích thích khả năng tư duy, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh lĩnh hội kiến thức mà giáo viên truyền đạt.
Dựa trên quan điểm sư phạm tương tác, những giáo viên hiệu quả là người có khả năng ảnh hưởng và tác động tới học sinh của mình. Vai trò của giáo viên là mở ra cánh cửa học tập cho học sinh. Một giáo viên giỏi và hiệu quả biết cách làm cho học sinh phải học tập. Để tạo ra ảnh hưởng với học sinh, giáo viên cần có những biện pháp hiệu quả. Học sinh sẽ chỉ học tập khi giáo viên có một ảnh hưởng đáng kể tới các em. [7]
Một giáo viên Hoá học hiệu quả là người không chỉ khiến học sinh học Hoá chỉ với lý do đó là một môn thi ĐH, CĐ. Trong mỗi tiết Hoá học, giáo viên phải giúp học sinh nhận thấy kiến thức mới là một “món ăn” hấp dẫn và đầy thú vị. Ví dụ như: các hợp chất hoá học có ứng dụng như thế nào trong sinh hoạt và sản xuất, các hợp chất hoá học có mối quan hệ với nhau như thế nào, hay dẫn dắt học sinh vận dụng những kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng có liên quan trong đời sống hàng ngày, … Để có một tiết học thành công thì đầu tiên phần mở đầu bài giảng phải tốt. Những giáo viên hiệu quả là những người mở đầu bài giảng tốt. Mở đầu bài giảng bao gồm hai nhiệm vụ là định hướng học tập cho học sinh, thu hút sự chú ý qua đó quản lý lớp học. Như vậy, nếu như không hoàn thành được hai nhiệm vụ này, tiết học sẽ không thể hiệu quả. Không những thế, mở đầu bài giảng còn là khoảng thời gian để giáo viên “tạo ấn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- g hoa hoc o thpt.doc