MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN 3
CHỨNG KHOÁN 3
1. Khái niệm chứng khoán 3
1.1. Định nghĩa chứng khoán 3
1.2. Đặc điểm của chứng khoán 3
1.3. Phân loại chứng khoán 5
1.4. Vai trò của chứng khoán 7
2. Chào bán chứng khoán 9
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán 9
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán 10
2.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán 12
2.3.1. Đối với thị trường chứng khoán 12
2.3.2. Đối với chủ thể chào bán 12
3. Pháp luật về chào bán chứng khoán 14
3.1. Khái niệm pháp luật về chào bán chứng khoán 14
3.2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán 16
3.2.1. Pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 16
3.2.2.Pháp luật về chào bán chứng khoán của Chính phủ và chính quyền địa phương 20
3.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán 20
CHƯƠNG II 23
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN 23
1. Chủ thể chào bán chứng khoán 23
1.1. Chính phủ 23
1.2. Chính quyền địa phương 24
1.3. Doanh nghiệp 24
1.3.1. Chủ thể chào bán chứng khoán vốn 24
1.3.1.1. Công ty cổ phần 24
1.3.1.2. Công ty Nhà nước cổ phần hoá 25
1.3.1.3. Công ty quản lý quỹ đầu tư 26
1.3.1.4. Công ty đại chúng 26
1.3.2. Chủ thể chào bán chứng khoán nợ 27
2. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 28
2.1. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng 28
2.1.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng 28
2.1.1.1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng 29
2.1.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng 31
2.1.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng 32
2.1.2. Các quy định về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 33
2.1.2.1. Hồ sơ chào bán 33
2.1.2.2. Thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 36
2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ 37
2.2.1. Quy định về chào bán cổ phiếu 37
2.2.1.1. Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần 37
2.2.1.2. Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá 40
2.2.1.3. Phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần 44
2.2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu 45
2.2.2.1. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp 45
2.2.2.2. Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng 48
3. Chào bán chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương 50
3.1. Trái phiếu Chính phủ 51
3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương 54
4. Quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán ở Việt Nam 55
CHƯƠNG III 58
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN 58
1. Căn cứ để hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán 58
1.1. Căn cứ vào chủ trương chính sách của Đảng về phát triển kinh tế thị trường 58
1.2. Căn cứ vào đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 59
1.3. Căn cứ vào tình hình phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay 60
2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán 61
2.1. Bổ sung, sửa đổi một số quy định hiện hành về chào bán chứng khoán ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006 61
2.2. Sửa đổi bổ sung Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương 63
2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cổ phần hoá công ty Nhà nước 65
2.4. Xây dựng một cơ chế giám sát thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán đặc biệt là chào bán chứng khoán riêng lẻ 67
2.5. Hoàn thiện một số quy định khác liên quan đến chào bán chứng khoán 68
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4220 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án ra công chúng 567.235 cổ phần lần đầu; ngày 10/1/2007 công ty xây dựng công nghiệp (vốn điều lệ 38 tỷ đồng) chào bán ra công chúng 1376400 cổ phần [7].
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đang ký chào bán. Đây là quy định khá hợp lý thay vì quy định hai năm có lãi liên tục như trước đây. Lý do là để một số doanh nghiệp có lãi trong hai năm liên tiếp cần một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó có những doanh nghiệp đang rất cần chào bán chứng khoán để huy động vốn đầu tư. Vì vậy quy định như này là phù hợp, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng quy định trên là không cần thiết, đặc biệt là các doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ rất cần vốn. Nhưng họ lại gặp phải rào cản là bắt buộc phải lãi trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng.
Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được đại hội đồng cổ đông thông qua. Có thể nói, điều kiện này là rất cần thiết. Nó là cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, tạo niềm tin cho họ. Bởi vì, đối với công ty cổ phần, đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất.So với Nghị định 144/200/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định này có sự cụ thể hoá hơn. Trước đây, pháp luật không yêu cầu phải có phương án sử dụng vốn của tổ chức chào bán phải được đại hội đồng cổ đông thông qua nên không đem đến một sự đảm bảo từ phía tổ chức chào bán cho nhà đầu tư và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vì vậy không khuyến khích họ mua cổ phiếu. Như vậy Luật chứng khoán 2006 đã khắc phục được điểm hạn chế này của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 . 2.1.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại khoản 2 điều 12 Luật chứng khoán 2006, doanh nghiệp có đủ các điền kiện sau được chào bán trái phiếu ra công chúng.
Thứ nhất, doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Quy định này là sự kế thừa của nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Mức vốn tối thiểu mà pháp luật ấn định cho các tổ chức chào bán trái phiếu ra công chúng là hoàn toàn phù hợp. Mục đích là để đảm bảo chất lượng trái phiếu chào bán ra công chúng bởi vì mức vốn này đòi hỏi tổ chức chào bán phải là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính dồi dào. Đồng thời với mức vốn tối thiếu như vậy, doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo khả năng trả nợ cho người sở hữu trái phiếu.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ quá hạn trên một năm. So với quy định trước đây, điều kiện này có sự sửa đổi theo hướng cụ thể hơn, từ đó củng cố niềm tin ở nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, chủ thể sở hữu trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng được hoàn trả số tiền đầu tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư. Vì vậy, Luật chứng khoán 2006 phần nào thắt chặt điều kiện này là hoàn toàn hợp lý.
Thứ ba, có phương án phát hành phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được hội đồng quản trị, hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu thông qua. Quy định này góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào tổ chức chào bán, từ đó doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục đích huy động vốn.
Thứ tư, có cam kết thực hiện những nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Trên đây là những điều kiện để doanh nghiệp có thể chào bán trái phiếu ra công chúng. Những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản, chất lượng chứng khoán, đảm bảo tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. So với quy định trước đây, các quy định bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và việc xác định đại diện người sở hữu trái phiếu đối với việc phát hành trái phiếu ra công chúng không được đề cập trong Luật chứng khoán 2006. Việc loại bỏ các quy định bắt buộc này sẽ tạo ra một cơ chế mở thông thoáng hơn cho các chủ thể chào bán trái phiếu. Thực tế, trong năm 2007 một số doanh nghiệp lớn như: Vinashin, Petro Việt Nam, EVN đã có kế hoạch huy động vốn thông qua chào bán trái phiếu ra công chúng lên đến hàng nghìn tỷ đồng [7].
2.1.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng
Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán không phát hành riêng lẻ mà chỉ có hình thức phát hành ra công chúng. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư có những điểm khác biệt so với chào bán cổ phiếu và trái phiếu. Đó là chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư lần đầu bao giờ cũng gắn với việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Nói cách khác, quỹ đầu tư chứng khoán chỉ được thành lập nếu đợt chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư kết thúc thành công với số lượng, tỷ lệ theo quy định của pháp luật. Chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ đầu tư phát hành. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng được quy định tại khoản 3 điều 12 Luật Chứng khoán 2006.
Thứ nhất, tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt Nam. Có thể nói, đây là bước thay đổi đáng kể theo hướng cụ thể hoá của Luật, nhằm một mặt tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho nhiều tổ chức chào bán, mặt khác đảm bảo chất lượng của chứng chỉ quỹ được chào bán. Trước đây, tại điều 9 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định về điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng là: “1. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng lần đầu thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập quỹ đầu tư chứng khoán. 2. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của quỹ đầu tư chứng khoán phải được uỷ ban chứng khoán chấp nhận”. Quy định chưa rõ ràng như trên gây lúng túng cho chủ thể phát hành, nhưng đồng thời lại là kẽ hở cho nhiều chủ thể khác lợi dụng. Vì vậy việc Luật chứng khoán đã cụ thể hoá điều kiện chào bán là điều cần thiết.
Thứ hai, có phương án phát hành và phương án đầu tư vốn thu được từ đợt chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật chứng khoán 2006.
Trên đây là toàn bộ những điều kiện mà pháp luật về chứng khoán đòi hỏi một tổ chức chào bán phải có khi muốn chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 nhưng những quy định này thực sự góp phần tạo ra một thị trường chứng khoán an toàn, có hiệu quả, thực hiện đúng chức năng đối với nền kinh tế.
2.1.2. Các quy định về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng
2.1.2.1. Hồ sơ chào bán
Nếu như Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 chỉ dành một điều luật (điều 10) để qui định về hồ sơ chào bán thì Luật chứng khoán 2006 quy định về vấn đề này từ điều 14 đến điều 18. So với quy định trước, Luật chứng khoán đã có một số điểm mới.
Thứ nhất, Luật chứng khoán 2006 đã quy định cụ thể hồ sơ chào bán áp dụng đối với từng loại chứng khoán được chào bán ra công chúng, cụ thể là: hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng, hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, trong đó những quy định đối với việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư mới được đưa vào. Điều này chứng tỏ Nhà nước đã thấy được những lợi ích thiết thực của chứng chỉ quỹ đầu tư đối với việc huy động vốn .
Thứ hai, nếu như trước đây, nội dung của bản cáo bạch, báo cáo tài chính chỉ được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành thì giờ đây nó đã được Luật hoá cụ thể nhằm xây dựng một thị trường chứng khoán lành mạnh công khai, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin về từng tổ chức chào bán từ đó tạo niềm tin cho nhà đầu tư đối với từng tổ chức chào bán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Đồng thời Luật chứng khoán cũng quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, đảm bảo cho nhà đầu tư yên tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Theo Luật chứng khoán 2006, hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng được qui định tại điều 14. Điều luật này có đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với hồ sơ của từng loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ khi chào bán ra công chúng. Hồ sơ chào bán phải gồm các tài liệu sau: Giấy đăng ký chào bán (của từng loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư) ra công chúng; Bản cáo bạch; Điều lệ của tổ chức phát hành (đối với chào bán cổ phiếu và trái phiếu) hoặc dự thảo điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán (đối với chào bán chứng chỉ quỹ); Cam kết bảo lãnh (nếu có). Đối với từng loại chứng khoán khác nhau thì hồ sơ chào bán cũng đòi hỏi thêm một số giấy tờ khác. Như hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu cần có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng; hồ sơ chào bán trái phiếu cần có quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn và cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành; hồ sơ chào bán chứng chỉ quỹ cần có hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ đầu tư. Như vậy một bộ hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng gồm rất nhiều giấy tờ, nhưng quan trọng nhất là bản cáo bạch trong đó có báo cáo tài chính.
Về bản cáo bạch, điều 15 Luật chứng khoán 2006 quy định cụ thể nội dung của bản cáo bạch. Bản cáo bạch phải đáp ứng yêu cầu là có đầy đủ thông tin cần thiết, trung thực rõ ràng như thông tin về tổ chức phát hành, về đợt chào bán, hay báo cáo tài chính nhằm giúp nhà đầu tư có thể đánh giá đúng tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh và triển vọng của tổ chức chào bán. Có thể nói, bản cáo bạch là bức tranh hoàn chỉnh về tổ chức chào bán. Riêng đối với chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, có ý kiến cho rằng luật quy định quá chi tiết với nội dung như loại hình, quy mô quỹ; mục tiêu đầu tư chiến lược đầu tư, phương án phát hành, dự thảo điều lệ quỹ. Đây là những nội dung mang tính chất nghiệp vụ, không phải là biện pháp quản lý hay yêu cầu của thị trường. Ưu điểm của nó là tạo ra cơ sở pháp lý an toàn cho hành vi chào bán chứng chỉ quỹ từ đó quyền và lợi ích của nhà đầu tư cũng được đảm bảo. Tuy nhiên, chúng ta không thể không nhận thấy những bất cập của quy định này. Đó là việc đòi hỏi quá cao về những nội dung trong bản cáo bạch sẽ gây rất nhiều khó khăn cho chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng-loại chứng khoán và phương thức đầu tư còn đang rất mới mẻ ở Việt Nam. Thực tế, sau ba tháng kề từ ngày Luật chứng khoán có hiệu lực, vẫn chưa có công ty quản lý quỹ nào chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng [7].
Về báo cáo tài chính, theo quy định của pháp luật, báo cáo tài chính gồm bảng cân đối kế toán, các báo cáo về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận. Việc đưa ra yêu cầu phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán nhằm giúp cho công chúng đầu tư có được thông tin chính xác, cập nhật về tình hình tài sản và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây chính là yêu cầu gây nhiều khó khăn, thậm chí cản trở việc niêm yết chứng khoán của một số doanh nghiệp. Hiện nay việc kiểm toán do các đơn vị trong nước thực hiện. Chỉ có một số ít tổ chức kiểm toán của nước ngoài được phép kiểm toán các doanh nghiệp Việt Nam. Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, báo cáo tài chính phải được xác nhận của tổ chức kiểm toán “được chấp nhận” nên việc lựa chọn tổ chức kiểm toán phải tuân theo quyết định số 76/2004/QĐ-BTC ngày 22 tháng 9 năm 2004, theo đó, hầu hết các công ty kiểm toán Việt Nam không đủ điều kiện tham gia. Chính những quy định khắt khe này sẽ dẫn đến một tất yếu là sự độc quyền và chi phí kiểm toán vượt quá sức của tổ chức phát hành mới lần đầu bước vào thị trường chứng khoán [7].
Có thể nói những quy định về hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng tại Luật chứng khoán 2006 là rất cụ thể và chặt chẽ. Nhưng cũng chính vì sự chặt chẽ đó mà nhiều doanh nghiệp tuy đủ điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng vẫn chọn hình thức chào bán riêng lẻ để đảm bảo được bí mật kinh doanh của doanh nghiệp - một trong những điều kiện để cạnh tranh hết sức quan trọng.
2.1.2.2. Thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng
Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, việc phân phối chứng khoán chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm người mua chứng khoán tiếp cận bản cáo bạch của hồ sơ đăng ký chào bán. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức đại lý phải phân phối chứng khoán trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực. Trong trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn này, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn nhưng tối đa không quá 30 ngày. Quy định này đã khắc phục được hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Nghị định quy định trong thời hạn 90 ngày mà tổ chức phát hành không phân phối hết chứng khoán thì có thể làm đơn đề nghị Uỷ ban chứng khoán Nhà nước gia hạn phân phối nhưng lại không giới hạn thời gian được phép phân phối tiếp vì vậy gây khó khăn cho người quản lý cũng như tổ chức phát hành. Sau khi phân phối hết chứng khoán, tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban chứng khoán. Tiếp đó, sau 30 ngày kết thúc đợt chào bán chứng khoán, chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán phải được chuyển giao cho người mua.
Như vậy, về cơ bản Luật chứng khoán 2006 đã quy định tương đối đầy đủ về trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên trong mười điều luật của chương “chào bán chứng khoán ra công chúng” hoàn toàn không có quy định về phương thức phát hành trong đó có một nội dung rất quan trọng là hoạt động bảo lãnh phát hành. Đối với chào bán chứng khoán ra công chúng, sự thành bại của đợt chào bán có ý nghĩa rất quan trọng. Để đảm bảo sự thành công cho một đợt chào bán, đòi hỏi tổ chức chào bán phải lựa chọn phương thức phát hành tối ưu nhất. Trong các phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng thì bảo lãnh phát hành được xem là phương thức an toàn nhất. Hơn thế nữa một số trường hợp bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành thì luật lại không quy định.
2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ
2.2.1. Quy định về chào bán cổ phiếu
2.2.1.1. Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần
Chào bán cổ phiếu là quyền cơ bản của công ty cổ phần. Hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Cũng theo quy định của Luật, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần được thực hiện nhằm mục đích tạo lập vốn điều lệ hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực chất của việc chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần là việc công ty bán cổ phần để huy động vốn, kết quả của việc bán cổ phần sẽ làm tăng vốn điều lệ và tỷ lệ sở hữu cổ đông. Mặt khác, việc chào bán cổ phần có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người mua cổ phần. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu quản lý và kiểm soát của công ty. Vì vậy, việc quyết định số lượng cổ phần, giá trị cổ phần, loại cổ phần trong mỗi đợt chào bán cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Hiện nay, việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần được quy định tại điều 87-Luật doanh nghiệp 2005.
Về quyền quyết định chào bán, Luật doanh nghiệp 2005 quy định Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán. Theo quy định này, Hội đồng quản trị được trao thêm quyền năng mới. Nếu Luật doanh nghiệp 1999 chỉ quy định Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá cổ phần được đưa ra chào bán thì theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, Hội đồng quản trị được quyết định cả phương thức chào bán và thời điểm chào bán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không có quy định về quyền quyết định của cổ phần được đưa ra chào bán. Có thể nói, đây là một nội dung rất quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với các nhà đầu tư. Nó cho thấy khả năng về vốn của doanh nghiệp cũng như tiềm năng của các nhà đầu tư.
Về giá cổ phần, giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách tại thời điểm gần nhất. Luật doanh nghiệp 1999 cũng đưa ra qui định này, tuy nhiên về các trường hợp ngoại lệ, Luật doanh nghiệp 2005 bổ sung một số điểm mới sau:
Thứ nhất, cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập. Đây là quy định khá hợp lý vì đây là cổ phần được chào “lần đầu tiên”, đây cũng là lần đầu tiên nhà đầu tư tiếp cận với cổ phần của công ty nên chưa xác định được giá thị trường của cổ phần. Như vậy, Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá chào bán thất hơn giá thị trường. Điều này sẽ đảm bảo sự thành công của đợt chào bán cổ phần lần đầu, thu hút rộng rãi nhà đầu tư .
Thứ hai, cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty. Theo quy định này, các cổ đông đã nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp sẽ được quyền mua cổ phần theo tỷ lệ tương ứng, với giá bán không tham chiếu giá thị trường tại thời điểm chào bán. Khi đó, giá cổ phần áp dụng cho các cổ đông cũ có thể sẽ thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra. Theo quy định của pháp luật, công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại cổ phần mà họ nắm giữ, các cổ đông có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông sẽ được hưởng mức cổ tức thấp hơn cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức nhưng thay vào đó, những cổ đông này lại có quyền dự đại hội đồng cổ đông, có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị và biểu quyết về những quyết định của công ty. Vì thế để đảm bảo sự công bằng giữa các cổ đông, quy định này cần điều chỉnh theo hướng cụ thể hơn “ cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của từng loại hiện có của họ ở công ty” sẽ chính xác, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ ba, cổ phần chào bán cho người môi giới và người bảo lãnh. Qui định này là sự kế thừa của Luật doanh nghiệp 1999 tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 lại bổ sung một nội dung quan trọng khắc phục thiếu sót của văn bản trước đó. “Số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Như vậy, sự ưu tiên về giá cho các đối tượng này không phải là không có giới hạn. Tuy nhiên, khi bổ sung quy định về quyền biểu quyết của đại hội đồng cổ đông trong trường hợp này, Luật 2005 lại bỏ qua cách tính giá chào bán cổ phần- một nội dung rất quan trọng được quy định khá cụ thể và chi tiết tại điểm c khoản 1 điều 61 Luật doanh nghiệp 1999.
Về chào bán thêm cổ phần phổ thông, đây là một nội dung khá quan trọng của Luật doanh nghiệp 2005 và là một quy định hoàn toàn mới so với Luật doanh nghiệp 1999. Khoản 2- điều 87 quy định “trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty”. Điều luật cũng đã cũng đã cụ thể hoá thủ tục, trình tự chào bán cổ phần phổ thông cho các cổ đông hiện có của doanh nghiệp. Đó là quy định về thông báo chào bán thêm cổ phần cho các cổ đông; các nội dung cụ thể của thông báo trong đó có tổng số cổ phần dự kiến phát hành, số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán cổ phần, thời hạn đăng ký mua. Chính những quy định về việc gửi thông báo đến từng cổ đông đã khẳng định hình thức chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005 là chào bán riêng lẻ. Ngoài ra còn có quy định về chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông cho người khác, về xử lý số cổ phần còn lại sau đợt phát hành.
Tóm lại, hoạt động chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Như vậy có sự phân biệt giữa hai hình thức chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần là chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006. Thực tế, xu hướng từ trước đến giờ hầu hết các doanh nghiệp đều lựa chọn hình thức chào bán riêng lẻ để huy động vốn
2.2.1.2. Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá
Hiện nay ở Việt Nam việc chào bán cổ phiếu để chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần được quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Có thể nói, cổ phần hoá công ty Nhà nước chính là một tiến trình, một “dự án” phát triển kinh tế, cải cách kinh tế mang tính đột phá không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi nhằm thay đổi hình thức sở hữu của các doanh nghiệp từ Nhà nước sang đa sở hữu để Nhà nước không chịu áp lực về vốn, người lao động gắn bó với doanh nghiệp. Đồng thời nhằm tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Về đối tượng cổ phần hoá, như ta đã biết đó là những công ty Nhà nước không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần của công ty Nhà nước cổ phần hoá: tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội hoạt động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người Việt Nam định cư ở trong nước được quyền mua cổ phần với số lượng không hạn chế; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá theo quy định pháp Việt Nam. Có thể nói, những quy định về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là rất thông thoáng, nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá công ty Nhà nước ở nước ta.
Về cơ cấu cổ phần lần đầu, pháp luật quy định cơ cấu cổ phần lần đầu trong doanh nghiệp cổ phần hoá theo cơ cấu ưu tiên nhất định:
(i) Cổ phần Nhà nước nắm giữ.
(ii) Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc.
(iii) Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20%số cổ phần bán theo giá ưu đãi.
(iv) Cổ phần bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư không thấp hơn 20% vốn điều lệ
Việc sắp xếp thứ tự mua cổ phần cho những đối tượng như vậy vừa đảm bảo vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần, vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, việc dành tối thiểu 20% vốn điều lệ để chào bán đấu giá cổ phần công khai giúp doanh nghiệp có thêm điều kiện để thu hút vốn đầu tư và có thêm nhiều cổ đông ngoài doanh nghiệp- là điều kiện để doanh nghiệp có thể niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung.
Về giá bán cổ phần lần đầu, so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 thì quy định về giá chào bán cổ phần lần đầu tại điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là một quy định mới. Quy định này góp phần cụ thể hoá, tạo ra một khung pháp lý về giá bán cổ phần cho các đối tượng. Theo đó, điều luật đã đưa ra ba mức giá bán với ba đối tượng khác nhau. Đối với người lao động giá bán cổ phần được giảm 40% so với giá đấu bình quân; đối với nhà đầu tư chiến lược giá bán cổ phần được giảm 20% so với giá đấu bình quân; còn giá bán cho các đối tượng khác được thực hiện theo giá đấu bình quân. Như vậy, giá đấu bình quân là tiêu chuẩn xác định giá bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên chính quy định này cũng thể hiện những ưu thế và hạn chế rất rõ ràng. Nếu giá đấu thành công của từng nhà đầu tư cao thì tổ chức chào bán nhanh chóng thu hút được nguồn vốn lớn. Thế nhưng, khi đó tất yếu giá đấu bình quân cũng cao lên và vì vậy mà giá bán cổ phần cho người lao động cũng lên. Lúc này, khả năng được sở hữu cổ phần của người lao động tại doanh nghiệp hầu như khó thực hiện. Trên thực tế, thường xảy ra tình trạng các nhà đầu tư lớn “mua hộ” cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp. Như vậy, ưu đãi dành cho người lao động khó được đảm bảo mà mục tiêu cổ phần hoá công ty Nhà nước cũng không mấy khả thi.
Về phương thức bán cổ phần, nếu như Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 trước đây chỉ đơn thuần qui định phương thức bán cổ phần tại chính doanh nghiệp hoặc thông qua tổ chức trung gian tài chính thì đến Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004, đấu giá cổ phần là phương thức bắt buộc để chào bán cổ phần của công ty Nhà nước. Mục đích của việc áp dụng phương thức này là đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư. Theo quy định tại điều 30 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 tuỳ thuộc vào khối lượng cổ phần mà việc bán đấu giá cổ phần có thể diễn ra ở nhiều nơi khác nhau như tại chính công ty Nhà nước, tại tổ chức tài chính trung gian. Tuy nhiên nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ thì bắt buộc phải bán đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Với phươ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (106).doc