MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT 2
VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 2
1. Khái quát chung về hoạt động nhượng quyền thương mại 2
1.1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới 2
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại 4
1.2.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại 4
1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại 6
1.3. Đánh giá về mô hình kinh doanh theo phương thức NQTM 8
1.3.1. Đối với BNQ 8
1.3.2. Đối với BNhQ 11
1.3.3. Đối với nền kinh tế thị trường 14
2. Khái quát về pháp luật nhượng quyền thương mại 16
2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về NQTM 16
2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về NQTM và PLCT 17
CHƯƠNG II 21
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH 21
1. Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật Cạnh tranh ở một số nước trên thế giới 21
1.1. NQTM dưới góc độ PLCT của Liên minh Châu Âu EU 23
1.2. NQTM dưới góc độ PLCT ở Mỹ 29
2. Thực trạng pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật Cạnh tranh ở Việt Nam 33
2.1. Khái lược sự hình thành và phát triển của PLCT ở Việt Nam 33
2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam 35
2.2.1. Đối với các TTHCCT 35
2.2.2. Đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền 42
CHƯƠNG III 47
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI 47
PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM 47
1. Quan điểm đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh 47
1.1. Tình hình thực tế 47
1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT 49
2. Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam 50
2.1. Những giải pháp về phía Nhà nước 50
2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về NQTM và PLCT 51
2.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy thực thi pháp luật về NQTM và PLCT 55
2.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về NQTM cũng như PLCT 57
2.3. Những giải pháp đối với các bên tham gia hợp đồng NQTM 58
2.3.1. Tìm hiểu kỹ pháp luật về NQTM, PLCT trước khi ký kết hợp đồng 58
2.3.2. Thành lập hiệp hội về NQTM của Việt Nam 59
KẾT LUẬN 62
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 63
65 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3369 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ không được chuyển giao cửa hiệu cho một bên thứ ba khác mà không có sự đồng ý trước của BNQ cũng có mục đích là hạn chế các đối thủ cạnh tranh không được hưởng lợi một cách gián tiếp từ những bí quyết và sự hỗ trợ do BNQ cung cấp và; (ii) Thứ hai, BNQ phải có khả năng thực hiện các biện pháp cần thiết để duy trì hiện diện và uy tín thương mại của mạng lưới mang tên thương mại và biểu tượng của mình. Từ đó, suy ra là những quy định xác lập các biện pháp quản lý cần thiết để đạt được mục tiêu bảo đảm tính bền vững của hệ thống NQTM và uy tín của thương hiệu là không tạo nên các HCCT theo quy định tại Điều 85(1).
Suy luận trên cũng được áp dụng đối với nghĩa vụ của BNhQ là chỉ được bán hàng hoá thuộc phạm vi của hợp đồng trên các khu vực được quy định và phải trang trí địa điểm bán hàng theo chỉ dẫn của BNQ. Các yêu cầu tương tự cũng được áp dụng đối với việc lựa chọn địa điểm đặt cửa hàng vì việc này cũng có thể ảnh hưởng tới danh tiếng của hệ thống nhượng quyền. Vì vậy cũng dễ hiểu tại sao BNhQ không thể chuyển cửa hiệu của chính mình sang một địa điểm khác mà không có sự đồng ý trước của BNQ. Việc cấm không cho BNhQ chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng NQTM mà không được sự chấp thuận của BNQ có mục đích là đảm bảo BNQ có thể tự do lựa chọn BNhQ theo những tiêu chuẩn năng lực cần thiết để thiết lập và duy trì danh tiếng của hệ thống nhượng quyền.
Bằng cách quy định BNQ có quyền kiểm soát việc lựa chọn hàng để bán của BNhQ, công chúng tiêu dùng sẽ được đảm bảo rằng họ có thể mua được hàng hoá có cùng chất lượng tại bất kì cửa hàng nhượng quyền nào. Trong một số trường hợp, đặc biệt trong lĩnh vực thời trang, và khi số lượng các cửa hàng nhượng quyền là quá lớn, việc quy định một tiêu chuẩn, quy cách cụ thể cho sản phẩm nhiều lúc là không khả thi vì không thể kiểm tra được (hoặc quá tốn chi phí để kiểm tra) tất cả mọi tuân thủ. Trong những trường hợp như vậy, một quy định đòi hỏi BNhQ chỉ bán các sản phẩm được cung cấp bởi BNQ hoặc bởi các nhà cung cấp khác do BNQ lựa chọn (chỉ định) có thể được coi là cần thiết để đảm bảo uy tín của hệ thống. Hơn nữa, một quy định như vậy có thể không hạn chế việc mua bán sản phẩm giữa các BNhQ khác nhau.
Mặt khác, cũng cần phải nhấn mạnh rằng một số quy định HCCT như vậy giữa các thành viên của cùng một hệ thống NQTM còn hơn cả cần thiết để bảo vệ bí mật kinh doanh được chuyển giao hoặc để duy trì hình ảnh và danh tiếng của hệ thống. Điều này đúng với các quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và những BNhQ hoặc giữa các BNhQ với nhau, hoặc hạn chế các BNhQ không được tham gia vào cạnh tranh về giá cả với những BNhQ khác.
Liên quan tới vấn đề này, sự quan tâm của Toà án liên bang tập trung vào quy định về nghĩa vụ của BNhQ chỉ được bán hàng hoá/cung cấp dịch vụ trong phạm vi của hợp đồng NQTM trên các khu vực lãnh thổ được ghi trong hợp đồng. Quy định này không cho phép BNhQ được mở một cửa hàng thứ hai. Tác động của quy định này sẽ trở nên rõ ràng nếu nó được xem xét cùng với nghĩa vụ của BNQ phải đảm bảo rằng BNhQ có toàn quyền đối với tên thương mại và biểu tượng của BNQ trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Để đáp ứng được nghĩa vụ này, BNQ không những không được phép tự thiết lập một cửa hàng khác của mình trên lãnh thổ đó, mà còn phải quy định những BNhQ khác cam kết không mở một cửa hàng thứ hai ngoài phạm vi lãnh thổ dành cho họ. Tổng hợp các quy định này dẫn tới một kết quả là sự phân chia thị trường giữa BNQ và các BNhQ và giữa các BNhQ với nhau và do đó HCCT trong phạm vi các thành viên của hệ thống NQTM. Theo án lệ ngày 13/07/1966 (về các vụ kiện số 56 và 58/64 giữa Consten và Grundig của Uỷ ban Châu Âu, ECR 299 ECR), sự hạn chế như vậy có thể tạo thành HCCT theo Điều 85(1) nếu nó liên quan tới một tên hoặc biểu tượng thương mại đã trở nên nổi tiếng. Tất nhiên một khả năng có thể xảy ra là một BNhQ sẽ không chịu rủi ro tham gia vào hệ thống NQTM, đầu tư vốn và trả phí gia nhập tương đối cao, rồi cam kết thanh toán khoản phí nhượng quyền hàng năm rất lớn, trừ phi anh ta có hi vọng rằng với mức độ bảo hộ nhất định đối với cạnh tranh từ phía BNQ và các BNhQ khác trong hệ thống rằng công việc kinh doanh của anh ta sẽ có lãi. Tuy nhiên, lập luận này chỉ phù hợp khi xem xét hợp đồng NQTM theo các quy định tại Điều 85(3).
Mặc dù các quy định hạn chế BNhQ được tự do xác định mức giá riêng của mình gây HCCT nhưng điều này không xảy ra khi BNQ chỉ đơn thuần cung cấp cho BNhQ sự chỉ dẫn về giá cả, miễn là không có hiện tượng thông đồng giữa BNhQ và BNQ hoặc giữa các BNhQ với nhau về mức giá thực tế. Tại trường hợp
vụ án này, Toà án liên bang sẽ phải quyết định liệu đây có phải là trường hợp như vậy.
Cuối cùng, cần bổ sung thêm rằng hợp đồng NQTM phân phối hàng hoá có chứa những điều khoản phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ hoặc giữa các BNhQ với nhau trong mọi trường hợp sẽ đều được coi là tác động tới thương mại giữa các quốc gia thành viên mặc dù chúng được ký kết thông qua những cam kết được thiết lập trong phạm vi một quốc gia, miễn là chúng hạn chế người nhận chuyển nhượng không được thành lập cửa hiệu ở một quốc gia thành viên khác.
Trên cơ sở những lập luận trên, câu trả lời đối với câu hỏi được nêu ở trên sẽ là:
- Sự phù hợp của hợp đồng NQTM đối với Điều 85(1) phụ thuộc vào các quy định cụ thể trong hợp đồng đó cũng như hoàn cảnh kinh tế của nó.
- Những quy định tuyệt đối cần thiết nhằm đảm bảo rằng các bí quyết và sự hỗ trợ của Bên nhượng quyền không mang lại lợi ích cho các đối thủ cạnh tranh của anh ta và không được coi là HCCT theo Điều 85(1).
- Những quy định thiết lập nên sự kiểm soát chặt chẽ cần thiết để duy trì uy tín và danh tiếng của hệ thống NQTM được xác định bởi một tên hoặc biểu tượng chung không được coi là tạo ra HCCT theo Điều 85(1).
- Các quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ hoặc giữa các BNhQ với nhau được coi là HCCT theo Điều 85(1).
- Việc BNQ đưa ra các khuyến nghị về giá cho BNhQ không được coi là HCCT, miễn là không có hiện tượng thông đồng giữa BNQ và BNhQ hoặc giữa các BNhQ với nhau về mức giá thực tế. Bởi nó không ảnh hưởng đến quyền tự do ấn định giá của BNhQ, nên không vi phạm PLCT.
Như vậy, qua án lệ Pronuptia Toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đã khẳng định nghĩa vụ không cạnh tranh của BNhQ với BNQ là cần thiết, mà không hề vi phạm Điều 81(1) Hiệp định thành lập cộng đồng chung Châu Âu (TEC), tức ECJ chấp nhận các HCCT như: (i) cấm BNhQ mở cửa hàng giống hay tương tự ở trong khu vực mà BNhQ đó có thể cạnh tranh với một thành viên khác trong hệ thống các cửa hàng NQTM trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng NQTM và trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi hợp đồng đó kết thúc; (ii) cấm BNhQ chuyển giao cửa hàng NQTM cho một bên thứ ba khác mà không có sự đồng ý trước của BNQ,…
Nói tóm lại, theo pháp luật của cộng đồng chung Châu Âu, thì việc hợp đồng NQTM có quy định theo đó BNhQ có nghĩa vụ chỉ được bán hàng hoá được quy định theo hợp đồng ở các địa điểm bán hàng được bố trí và trang trí theo hướng dẫn của BNQ là chấp nhận được hay những điều khoản nhằm duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM, mà cụ thể là được thể hiện bằng các quy định đa dạng tại từng hợp đồng cụ thể, mặc dù có thể vi phạm PLCT, nhưng lại có thể được đánh giá là cực kỳ cần thiết để BNQ thực hiện quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh trong hệ thống NQTM để duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM. Bởi thế nên đã tồn tại một số trường hợp miễn trừ, mà cụ thể là: trên cơ sở phán quyết của ECJ trong án lệ Sylvania, Uỷ ban Châu Âu đã ban hành 5 quyết định miễn trừ áp dụng Điều 81(1) TEC cho các HCCT trong hợp đồng NQTM liên quan đến độc quyền về khu vực kinh doanh, nghĩa vụ không cạnh tranh của BNhQ, giới hạn về khách hàng,… Không những thế, Uỷ ban Châu Âu cũng đã ban hành Nghị định số 4087/88 về việc áp dụng Điều 81(3) TEC đối với hợp đồng NQTM, theo đó một số HCCT trong hợp đồng NQTM được tự động miễn trừ. Đến cuối năm 1999 trên cơ sở PLCT của EU có sự thay đổi đáng kể, Uỷ ban Châu Âu đã ban hành Nghị định số 2790/1999 về việc áp dụng Điều 81(3) TEC đối với các thoả thuận theo chiều dọc và hướng dẫn áp dụng Nghị định này để điều chỉnh các hợp đồng NQTM.
1.2. NQTM dưới góc độ PLCT ở Mỹ
Theo PLCT Hoa Kì (cụ thể là Đạo luật Sherman) thì việc chiếm độc quyền thương mại trong mọi trường hợp đều là bất hợp pháp và đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi sự tập hợp hoặc âm mưu hạn chế tự do thương mại, trong đó có hành vi sáp nhập hay hợp nhất các doanh nghiệp [29]. Điều 1 Đạo luật Sherman 1890 [41] của Mỹ quy định: “ mọi thoả thuận hợp tác với mục đích độc quyền hoá hay một mưu đồ nhằm hạn chế thương mại giữa các tiểu bang, hay với nước ngoài,… bị tuyên bố là bất hợp pháp”. Toà án tối cao Mỹ từng áp dụng quy định này một cách máy móc qua việc cấm tất cả các thoả thuận hạn chế thương mại, bất kể hạn chế đó có hợp lý hay không. Tuy nhiên, toà án này cũng nhanh chóng nhận ra rằng Đạo luật Sherman không áp dụng đối với các thoả thuận nhằm thúc đẩy kinh doanh hợp pháp, không có mục đích hạn chế thương mại giữa các tiểu bang mặc dù chúng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến thương mại. Quan điểm này được chính thức thừa nhận vào năm 1911 qua việc lần đầu tiên khẳng định áp dụng nguyên tắc lập luận hợp lý trong án lệ Standard Oil và American Tobacco [30]. Luật Sherman không cấm trở thành nhà độc quyền hoặc thậm chí là ứng xử như nhà độc quyền bằng cách tăng giá hoặc giảm sản lượng. Thay vì đó, hành vi bị cấm là hành vi sử dụng các biện pháp không lành mạnh để đạt được hoặc duy trì độc quyền chủ yếu bằng cách loại bỏ các đối thủ cạnh tranh có hiệu quả.
Tại quốc gia này các hành vi HCCT thường phải được xem xét trên nguyên tắc lập luận hợp lý, tức nó phải được đưa vào phân tích một cách toàn diện trên cơ sở bối cảnh kinh tế cụ thể. Lúc này tất cả các ảnh hưởng khuyến khích cạnh tranh cũng như các ảnh hưởng HCCT của một hành vi HCCT sẽ (và phải) được phân tích, đánh giá chi tiết, kĩ lưỡng nhằm xác định xem HCCT đó về bản chất có tác dụng khuyến khích cạnh tranh hay thực sự ngăn cản cạnh tranh. Tuy nhiên, để đảm bảo tính kịp thời và minh bạch, TATC Mỹ đã khẳng định, nếu một TTHCCT thoả mãn hai điều kiện: (i) có các ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh và (ii) không có các tác dụng thúc đẩy cạnh tranh để bù lại, tức không có sự biện minh hợp lý về tính hiệu quả của hành vi, thì thoả thuận đó mặc nhiên vi phạm PLCT mà không cần phải tiến hành các phân tích toàn diện theo nguyên tắc lập luận hợp lý. Điều này khắc phục được nhược điểm của nguyên tắc này là bởi vì để xác định được đâu là một HCCT đã là khó, thì việc phân tích các khía cạnh kinh tế của một TTHCCT lại càng khó hơn. Các phân tích kinh tế như vậy thường rất phức tạp, lại kéo dài mà nhiều lúc không đem lại kết quả. Hơn nữa việc quy định hai điều kiện để một TTHCCT được coi là mặc nhiên vi phạm PLCT còn tạo nên niềm tin cho các doanh nghiệp, các thương nhân vì nhờ thế mà họ có thể kiểm soát được các thoả thuận của chính họ có xu hướng HCCT liệu có vi phạm PLCT hay không.
Qua việc nghiên cứu chung về “nguyên tắc lập luận hợp lý” có thể thấy bản thân các TTHCCT nếu có trong một hợp đồng NQTM không phải lúc nào cũng xấu và không mặc nhiên vi phạm PLCT. Vì điều dễ thấy rằng các thỏa thuận kiểu này là biểu hiện của việc các bên tự bảo vệ quyền lợi của mình trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh trên thương trường và chúng mang lại những hiệu quả nhất định cho nền kinh tế. Bởi thế, những TTHCCT này hoàn toàn có thể được chấp nhận trong một giới hạn nhất định nếu tại giới hạn đó chúng không làm hạn chế một cách nghiêm trọng khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng khuyến khích cạnh tranh của một TTHCCT mà ảnh hưởng khuyến khích cạnh tranh có phần lớn hơn thì thoả thuận đó không được coi là vi phạm PLCT.
Trong án lệ Sylvania [39], Toà án tối cao Mỹ đã xem xét một quy định trong hợp đồng NQTM cấm BNhQ bán sản phẩm của BNQ ngoài khu vực đã thống nhất trước có phải là một hạn chế thương mại bất hợp lý vi phạm PLCT (Điều 1 Đạo luật Sherman 1890) hay không. Vụ kiện này xảy ra giữa hai bên là Công ty Continental T.V và Công ty GTE Sylvania. Tại vụ kiện này BNhQ đã viện vào quy định trong hợp đồng NQTM là BNQ cấm BNhQ bán sản phẩm của BNQ ngoài vị trí khu vực đã thống nhất trong hợp đồng NQTM là một quy định vi phạm PLCT để không thực thi hợp đồng.
Toà án này cho rằng, những HCCT như vậy làm giảm cạnh tranh đối với một thương hiệu nhất định của một loại sản phẩm (trong án lệ này chính là làm giảm cạnh tranh giữa các BNhQ từ Sylvania – BNQ), nhưng trên thực tế quy định này lại có thể thúc đẩy cạnh tranh giữa các thương hiệu khác nhau của cùng một loại sản phẩm hay giữa các sản phẩm tương tự có khả năng thay thế nhau (chính là thúc đẩy cạnh tranh giữa các BNQ với nhau, tức là giữa Sylvania và các đối thủ của nó). Mà điều này nếu đem so sánh giữa lợi ích khuyến khích cạnh tranh và ảnh hưởng HCCT và nếu coi sự cạnh tranh giữa các BNhQ trong một thương hiệu là không quan trọng bằng sự cạnh tranh giữa các thương hiệu sản phẩm với nhau (tức theo nguyên tắc lập luận hợp lý) thì sẽ là không vi phạm PLCT.
Theo nguyên tắc lập luận hợp lý thì những HCCT dạng BNhQ được độc quyền phân phối trên một khu vực địa lý nhất định giúp cho BNhQ mới có thể tạo chỗ đứng cho mình trên thương trường (nếu không có sự bảo đảm rằng bản thân BNhQ sẽ được độc quyền trên một khu vực nhất định, rất có thể tại một khu vực mà có quá nhiều cửa hàng nhận quyền của BNQ thì khả năng việc kinh doanh của BNhQ tiến triển là không cao,…), hay cũng nhờ có những TTHCCT này mà BNQ mới có thể duy trì và phát triển hoạt động NQTM của mình, qua đó góp phần thúc đẩy cạnh tranh giữa các BNQ của một loại sản phẩm. Điều này khiến cho nhìn về tổng thể thì giá trị khuyến khích cạnh tranh lớn hơn ảnh hưởng HCCT giữa các BNhQ của một thương hiệu nhất định, bởi thế nên chúng sẽ không vi phạm PLCT.
Thực tế là các TTHCCT theo chiều dọc (thoả thuận giữa các tác nhân kinh tế nằm ở vị trí khác nhau trong một chu trình sản xuất hoặc lưu thông) [19], không liên quan đến giá đã được TATC Mỹ phán quyết là không thể bị coi là vi phạm mặc nhiên, mà phải được xem xét trên nguyên tắc lập luận hợp lý. Minh chứng cho điều này chính là vụ Sylvania ( Continental TV v. GTE Sylvania 1977) đã trình bày.
Vậy qua nghiên cứu, tham khảo PLCT của Mỹ và Liên minh Châu Âu, nhận thấy hiện nay các nước này áp dụng rộng rãi “nguyên tắc hợp lý” (the rule of reason). Nguyên tắc này được coi là kim chỉ nam của Luật chống độc quyền Mỹ và cũng được áp dụng rộng rãi ở Liên minh Châu Âu. Cơ sở để áp dụng nguyên tắc này là dựa trên sự cân nhắc hợp lý giữa hiệu quả cạnh tranh và HCCT dưới góc độ kinh tế, theo đó một TTHCCT có thể đem lại hệ quả hạn chế thương mại hoặc không. Do đó, về nguyên tắc, một thoả thuận như vậy không bị cấm, nó chỉ bị cấm khi nó HCCT một cách đáng kể mà không có một lợi ích kinh tế nào quan trọng hơn có thể biện minh cho hành vi đó. Hay nói cách khác, Luật cạnh tranh không ngăn cản hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn mà chỉ ngăn cấm các doanh nghiệp đó lạm dụng quyền lực thị trường của mình một cách bất bình đẳng [26]. Xét ở góc độ hiệu quả kinh tế, lợi ích công và một số lợi ích khác như các TTHCCT trong một số trường hợp nhất định lại có tác dụng tiết kiệm chi phí, nguồn lực, tăng cường hiệu quả kinh tế, giảm thiểu rủi ro, tạo ra sản phẩm mới có chất lượng cao hơn, khắc phục khủng hoảng nhằm chuyên môn hoá hoặc hợp lý hoá các quy trình công nghệ. Vì vậy, pháp luật về chống HCCT của một số nước đều đặt ra những ngoại lệ, những trường hợp miễn trừ đối với một số TTHCCT nhất định.
2. Thực trạng pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật Cạnh tranh ở Việt Nam
2.1. Khái lược sự hình thành và phát triển của PLCT ở Việt Nam
Cạnh tranh không lành mạnh và HCCT hay độc quyền là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Khi môi trường cạnh tranh lành mạnh không được đảm bảo thì những hiện tượng này xuất hiện là tất yếu. Khi đó, để bảo vệ cho lợi ích của các chủ thể kinh doanh, của người tiêu dùng và của nhà nước cũng như định hướng cho sự phát triển đúng đắn của thị trường, của nền kinh tế mà Nhà nước cần phải có sự can thiệp đối với các quan hệ cạnh tranh. Sự can thiệp này thể hiện ở việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật về cạnh tranh để điều tiết sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật về cạnh tranh thoả mãn được yêu cầu khi một quan hệ xã hội mới xuất hiện trong xã hội cần phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh nó, ở đây là nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo sự vận hành bình thường của nền kinh tế.
Cho đến trước khi Luật cạnh tranh được ban hành thì hệ thống pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam hầu như chưa hình thành, chỉ có một số ít quy định trong các văn bản luật và dưới luật như Luật thương mại năm 1997, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995, Luật doanh nghiệp năm 1999, Pháp lệnh giá,…nhằm xây dựng và bảo đảm môi trường sản xuất, kinh doanh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng trong xã hội. Chính việc các quy định về cạnh tranh lại nằm trong nhiều văn bản khác nhau mà khiến cho việc áp dụng chúng là rất khó khăn, cùng với xu thế hội nhập, yêu cầu để tham gia vào các tổ chức kinh tế-xã hội ở quy mô khu vực và quốc tế mà Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam ra đời. Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 09/11/2004 và có hiệu lực vào ngày 01/07/2005).
Tuy Luật cạnh tranh đã được ban hành nhưng các quy định trong Luật cạnh tranh 2004 và các quy định có liên quan tới pháp luật về cạnh tranh trong các văn bản pháp luật khác còn khá mới mẻ với người dân nói chung và các chủ thể có hoạt động kinh doanh nói riêng. Điều này có thể thấy ở ngay tình trạng số lượng các doanh nghiệp trong nước có tham gia hoạt động xuất khẩu có hoạt tìm hiểu về PLCT của ta cũng như của các nước đối tác là còn rất khiêm tốn. Và điều này cũng không là ngoại lệ đối với các chủ thể kinh doanh trong hoạt động NQTM. Sẽ là không có vấn đề gì nếu như không có các tranh chấp xảy ra, và nếu có tranh chấp thì chính tình trạng mở cửa trong giai đoạn hiện nay đã và sẽ dẫn tới các thiệt hại lớn đối với các chủ thể kinh doanh. Pháp luật về NQTM bao gồm cả Luật thương mại năm 2005 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành của văn bản này như Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM, Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký NQTM khi quy định về hoạt động này mới chỉ quy định một cách chung nhất, khái quát nhất về quyền và nghĩa vụ của các bên, đăng ký hoạt động NQTM,…; còn lại tất cả những văn bản pháp luật này vẫn chưa để ý tới mặt liên quan giữa hoạt động này và sự điều chỉnh ở các luật khác, như: Luật SHTT (bởi NQTM là chủ thể kinh doanh cùng chia sẻ thành công của mình với các BNhQ, mà thành công này có được chính là nhờ các kết quả của lao động sáng tạo mà có, các Tên thương mại, Nhãn hiệu hàng hoá, Bí quyết kinh doanh,…chính là những vấn đề được điều chỉnh trong pháp luật về SHTT), Luật cạnh tranh (như các thỏa thuận của các bên trong hoạt động NQTM vốn thể hiện bản chất của hoạt động này nhưng có thể vi phạm pháp luật cạnh tranh ), và các pháp luật khác.. Tình hình này là đáng bàn nếu Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế một cách sâu, rộng hơn nữa, bởi hệ thống pháp luật về thương mại đang còn nhiều tồn tại, vốn hiểu biết về pháp luật NQTM của các BNQ và các bên dự kiến nhận quyền Việt Nam là còn hạn chế mà lại không có một văn bản pháp luật nào có khả năng hướng dẫn các chủ thể kinh doanh về ranh giới giữa hai lĩnh vực pháp luật: PLCT và pháp luật về NQTM.
2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam
2.2.1. Đối với các TTHCCT
Việc tồn tại những xung đột giữa các quy phạm pháp luật điều chỉnh TTHCCT trong LCT và các luật chuyên ngành khác là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi những thoả thuận mang tính chất HCCT hoặc tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả HCCT xuất hiện rải rác ở một số văn bản pháp luật khác nhau dưới những dạng rất phong phú. Mà vì những đặc trưng riêng của hoạt động đó lại dẫn đến trái với các quy định theo luật cạnh tranh. Một trong những ví dụ cụ thể, đó là việc những TTHCCT có thể được thiết lập trên cơ sở những quy định của pháp luật NQTM.
Nghiên cứu về khái niệm TTHCCT, cần phải xem xét cụm từ “TTHCCT”. Cụm từ này được dùng để chỉ sự thông đồng của một số chủ thể kinh doanh có những lợi thế trên những thị trường nhất định mà nội dung của những thoả thuận này nhằm vào việc duy trì và tiếp tục nâng cao hơn nữa vị thế của các thành viên của thoả thuận đồng thời HCCT của các đối thủ cạnh tranh khác.
Dưới góc độ pháp luật, TTHCCT được hiểu là một dạng quan hệ pháp lý đặc biệt cần được điều chỉnh. Các thoả thuận này đặc biệt ở chỗ, vẫn mang tính chất hạn chế sự cạnh tranh của các nhóm hoặc các chủ thể khác ngoài các bên của thoả thuận nhưng có những thoả thuận bị coi là bất hợp pháp và lại có những thoả thuận được công nhận là hợp pháp. TTHCCT được hình thành một cách rất tự nhiên giữa các chủ thể kinh doanh trong một môi trường kinh doanh có cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường là môi trường với đầy đủ những điều kiện để các TTHCCT ra đời và tồn tại. Đối mặt với TTHCCT, mỗi quốc gia đều phải đưa ra quan điểm của mình. Tuy có khác nhau về những nội dung chi tiết nhưng nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều thống nhất rằng không phải mọi TTHCCT đều bị coi là bất hợp pháp, chỉ có những thoả thuận nào gây ra tình trạng HCCT một cách nghiêm trọng đối với các bên thứ ba mới bị cấm. Điều quan trọng ở đây là mỗi quốc gia lại đưa ra những tiêu chí để xác định mức độ “gây HCCT nghiêm trọng” khác nhau.
Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam sử dụng phương pháp liệt kê khi đề cập đến khái niệm TTHCCT (tại Điều 8 LCT2004), theo Điều này thì có 8 loại TTHCCT. Tại Điều 9 của Luật này thì ba TTHCCT sau cùng tại Điều 8 là bị cấm tuyệt đối, những thoả thuận còn lại vẫn có trường hợp miễn trừ, cụ thể là tại các quy định Điều 9 khoản 2 và Điều 10 Luật cạnh tranh 2004. Theo Khoản 1 Điều 10 thì những trường hợp miễn trừ chủ yếu dựa trên mục đích của TTHCCT mà các bên đưa ra.
Các phân tích PLCT của Mỹ và EU trong hoạt động NQTM ở phần 2.1 trên đây cho thấy các TTHCCT liên quan đến: việc duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM và các thoả thuận về phân chia thị trường thường được xem là không vi phạm PLCT; còn các thoả thuận có liên quan đến giá của sản phẩm/dịch vụ thường được xem xét trên nguyên tắc lập luận hợp lý và vì vậy tuỳ từng trường hợp mà có vi phạm hay không vi phạm PLCT. Vậy ở Việt Nam, những vấn đề tương tự sẽ được giải quyết như thế nào?
* Thoả thuận liên quan đến duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM:
Theo pháp luật về SHTT (Điều 144.2.c Luật SHTT 2006) không cấm việc các bên trong hợp đồng ký kết điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM. Tuy nhiên, điều khoản này có thể bị coi là một trong các TTHCCT theo quy định tại Điều 8.5 LCT 2004. Điều khoản mà thoả thuận này có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của nó là “Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng”. Mà theo quy định tại Điều 9.2 LCT 2004 thì thoả thuận này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Như vậy có thể kết luận rằng theo PLCT Việt Nam: nếu các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30% thì thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của mạng lưới NQTM, mặc dù có thể bị coi là TTHCCT, nhưng vẫn được phép thực hiện.
Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam không những thế còn quy định thêm một số trường hợp miễn trừ khác khi quy định tại Điều 10.1 LCT 2004:
TTHCCT tại Điều 9.2 của luật này được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
(i) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
(ii) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
(iii) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
(iv) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
(v) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
(vi) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc quy định như trên chỉ có thể phát huy hết tính tích cực của nó nếu các bên tham gia hợp đồng NQTM (mà chủ yếu là BNQ) thực hiện nghiêm túc và tôn trọng pháp luật. Bởi theo Điều 10 LCT 2004 thì ràng buộc bán kèm trong NQTM thường sẽ được quy về là có mục đích hợp lý hoá mô hình kinh doanh (điểm a khoản 1 Điều 10), và/hoặc thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm (điểm c khoản 1 Điều 10). Không những thế, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP tại Điều 15.3 còn cho phép BNQ có quyền từ chối chuyển giao quyền thương mại nếu Bên dự kiến nhận quyền: (i) chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn của BNQ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (29).doc