MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP 3
1. Khái quát chung về mua bán doanh nghiệp 3
1.1. Khái niệm mua bán doanh nghiệp 3
1.2. Phân biệt mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp 7
2. Những đặc trưng cơ bản của hoạt động mua bán doanh nghiệp 8
2.1. Chủ thể của quan hệ mua bán doanh nghiệp 8
2.1.1. Bên bán 8
2.1.2. Bên mua 9
2.2. Đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp 10
2.3. Tài sản doanh nghiệp và vấn đề định giá giá trị doanh nghiệp 11
2.3.1. Tài sản doanh nghiệp 11
2.3.2. Định giá tài sản của doanh nghiệp. 17
2.3.2.1. Định giá tài sản hữu hình 17
2.3.2.2. Định giá giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp 19
2.3.2.3. Định giá các quyền và nghĩa vụ tài sản 23
2.4. Các phương thức mua bán doanh nghiệp 23
2.5. Hình thức của quan hệ mua bán doanh nghiệp 24
2.6. Đăng ký kinh doanh lại và sự kế thừa nghĩa vụ trong mua bán doanh nghiệp 24
2.6.1. Đăng ký kinh doanh lại 24
2.6.2. Sự kế thừa nghĩa vụ trong mua bán doanh nghiệp 24
CHƯƠNG II 26
PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP 26
VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 26
1. Pháp luật về mua bán doanh nghiệp 26
1.2. Pháp luật về Mua bán công ty nhà nước 29
1.3. Hợp đồng mua bán doanh nghiệp theo các quy định pháp luật hiện hành 39
2. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở việt nam hiện nay 40
2.1. Mở rộng đối tượng điều chỉnh 40
2.2. Hoàn thiện hệ thống các quy định về mua bán doanh nghiệp 42
KẾT LUẬN 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
BẢNG VIẾT TẮT 46
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2694 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán doanh nghiệp điều mà bên mua quan tâm và làm cơ sở để hình thành nên giá cả thoả thuận của bên mua và bên bán lại là “giá trị thực tế” của công ty hay doanh nghiệp đó:
- Giá trị thực tế của công ty là tổng giá trị tài sản thực có của công ty theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị công ty. (khoản 13 điều3 NĐ/80/-CP).
Trên thực tế giữa giá trị doanh nghiệp theo sổ sách kế toán và giá trị theo thị trường của doanh nghiệp (hoặc công ty) thường chênh lệch nhau rất lớn, một trong các nguyên nhân là do các số liệu kế toán thường không có tính chính xác và tính minh bạch cao, hơn nữa rất khó định giá chính xác bộ phận tài sản vô hình. Tuy vậy giá trị thực tế lại là điều mà bên mua quan tâm nhất, cũng như về nguyên tắc khi bán doanh nghiệp “giá trị thực của công ty, bộ phận công ty thực hiện bán được tính theo giá thực tế trên thị trường” (khoản 2 điều 5 nghị định 80/ NĐ-CP).
Ngoài ra, còn có các loại giá trị sau:
- Giá tối thiểu là mức giá thấp nhất do người bán xác định trên cơ sở giá trị phần góp vốn nhà nước và giá trị thực tế tài sản tại doanh nghiệp và đặt giá khi quyết định bán công ty. (khoản 10 điều3 NĐ80 /NĐ- CP).
- Giá bán công ty, bộ phận công ty là giá của người bán và người mua thoả thuận theo phương thức trực tiếp hoặc được xác định qua phương thức đấu thầu hoặc đấu giá. (khoản 11 điều3 NĐ80/ NĐ-CP).
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra những kết luận :
- Giá trị của doanh nghiệp được tính theo giá thị trường của tài sản( thời giá) tại thời điểm bán.
- Giá trị của doanh nghiệp là tổng giá trị của các tài sản hữu hình và tài sản vô hình (Xét về mặt tài sản).
- Giá bán doanh nghiệp là giá cả hình thành trên cơ sở thoả thuận thống nhất giữa hai bên.
Việc xác định giá trị của doanh nghiệp cũng là một vấn đề quan trọng cần phải được đề cập tới. Thông tư 126/2004/TT - BTC có đưa ra hai phương pháp để xác định giá trị doanh nghiệp như sau:
Phương pháp xác định giá trị của doanh nghiệp theo tài sản: là phương pháp xác định giá trị của một doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp tại thời điểm đó.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) : là phương pháp xác định giá trị của doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp ( Xem phần III: Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004.
).
Bên cạnh đó, các bên trong quan hệ cũng có thể dùng phương pháp thoả thuận để xác định giá trị của doanh nghiệp. Cụ thể là, khi việc mua bán doanh nghiệp diễn ra, các bên sẽ thoả thuận với nhau để lựa chọn và thành lập nên một hội đồng định giá tài sản. Hội đồng này sẽ có trách nhiệm đưa ra cách thức định giá phù hợp theo quy định của pháp luật hay ý chí của cả hai bên. Đối với trường hợp mua bán công ty nhà nước sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hay tổng công ty chỉ định các thành viên và quyết định thẩm quyền của hội đồng định giá. Trách nhiệm của hội đồng định giá là phải căn cứ vào thực trạng của tài sản, giá cả thị trường của tài sản và trình độ chuyên môn để xác định và đánh giá chính xác giá trị của doanh nghiệp.
2.3.2. Định giá tài sản của doanh nghiệp.
2.3.2.1. Định giá tài sản hữu hình
Các tài sản hữu hình của doanh nghiệp như: nhà xưởng, đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị, dây truyền sản xuất là bộ phận chủ yếu để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ phận tài sản này được định giá theo phương pháp giá trị thực tế dựa trên giá trị thường tại thời điểm định giá, theo đó:
+) Đối với các tài sản là hiện vật như các tài sản còn giá trị sử dụng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý sẽ căn cứ vào thời giá và chất lượng của tài sản để xác định.
+) Chất lượng của tài sản thường được xác định bằng giá trị còn lại tính theo tỷ lệ phần trăm so với nguyên giá tài sản mới mua hoặc mới bắt đầu xây dựng.
+) Giá thị trường dùng để tính giá trị thực tế là giá đang mua bán trên thị trường cộng với chi phí vận chuyển, lắp đặt (nếu có) đối với những tài sản là máy móc thiết bị, phương tiện vận tải có lưu thông trên thị trường. Nếu đó là những tài sản đặc thù thì căn cứ theo giá mua của tài sản cùng loại, có cùng công suất, có tính năng tương đương. Trường hợp không có tính năng tương đương thì căn cứ vào sổ sách kế toán ( Xem điểm 5, mục A, phần III. Thông tư 126/2004/TT-BTC.
).
Bên cạnh các tài sản trên, quyền sử dụng đất cũng là một tài sản có giá trị trong khối tài sản của Doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay: đất đai là tài sản thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp được trao quyền sử dụng đất thông qua các hình thức như giao đất hoặc thuê đất. Đối với một doanh nghiệp giá trị quyền sử dụng đất nhiều khi chiếm phần lớn giá trị tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định giá trị của quyền sử dụng đất là một quá trình phức tạp, tuỳ thuộc vào từng trường hợp, từng loại hình doanh nghiệp mà quá trình này diễn ra không giống nhau. Đối với từng loại danh nghiệp khác nhau, giá trị quyền sử dụng đất được hình thành khác nhau, ví dụ như doanh nghiệp nhà nước thì thường được giao đất, doanh nghiệp tư nhân lại thường chọn hình thức thuê đất. Trong quan hệ mua bán công ty nhà nước, nếu người mua lựa chọn hình thức thuê đất thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị công, bộ phận công ty ngược lại nếu người mua lựa chọn hình thức giao đất thì giá trị quyền sử dụng đất là tài sản của công ty cần phải tính vào giá trị của công ty khi bán (điều 23 - nguyên tắc xác định giá bán công ty, bộ phận công ty trong mua bán công ty nhà nước - NĐ 80/2005/NĐ-CP). Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất được căn cứ theo khung giá do cơ quan có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Chính phủ) quyết định theo luật đất đai 2003.
2.3.2.2. Định giá giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tài sản, nhưng khác với các tài sản thông thường khác, doanh nghiệp là một thực thể sống động và có sự tham gia của con người. Vì vậy khi xem xét, đánh giá một doanh nghiệp không thể không đi vào đánh giá yếu tố vô hình trong đó, đặc biệt là bộ phận tài sản vô hình.
Tài sản vô hình là một khái niệm rất mới dù nhìn dưới góc độ kinh tế hay pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, ở nhiều nước trên thế giới bộ phận tài sản này chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các quốc gia này đã tập trung mọi nỗ lực để đầu tư cho việc phát triển các tài sản vô hình. Theo số liệu thống kê: Hà Lan đã giành 35% tổng vốn đầu tư để đầu tư cho bộ phận tài sản này, tại Thụy Điển con số này chiếm 20% GDP, còn tại Mỹ vốn đầu tư cho các tài sản vô hình đã vượt vốn đầu tư cho các tài sản hữu hình.
Chính vì thế, việc xác định giá trị của tài sản vô hình trong doanh nghiệp là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Vậy làm cách nào để nhận dạng các tài sản vô hình và có thể định giá được giá trị của tài sản vô hình của một doanh nghiệp. Câu trả lời ở đây là hoàn toàn có thể, tuy nhiên, độ chuẩn xác của giá trị được tính ra tuỳ thuộc rất nhiều vào các phương pháp định giá, độ tin cậy của các thông tin thu thập được, trình độ xử lý và kỹ năng nghề nghiệp của người định giá.
Trong mua bán doanh nghiệp bộ phận tài sản vô hình được định giá thông qua hai cách thức cơ bản sau:
Một là, trực tiếp đánh giá giá trị tài sản vô hình bằng phương pháp chi phí hoặc phương pháp siêu lợi nhuận.
Hai là, gián tiếp tính toán thông qua việc xác định tổng thể toàn bộ giá trị doanh nghiệp sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình. Trong đó giá trị doanh nghiệp được tính bằng phương pháp dòng tiền chiết khấu còn giá trị tài sản hữu hình tính bằng phương pháp tài sản có hoặc thông qua bản cân đối kế toán hay theo giá thị trường (thông tư 126/2004/ TT- BTC)
Mặc dù vậy, có một thực tế là rất khó xác định chính xác giá trị của các tài sản vô hình. Trường hợp của Vinaconex- một tổng công ty nhà nước là một ví dụ cụ thể. Khi tiến hành định giá doanh nghiệp này giá trị tổng tài sản dự tính của công ty là 3600tỷ đồng, tuy nhiên giá trị của tên thương mại Vinaconex chỉ được định giá sấp sỉ 3.5 tỷ đồng, chưa bằng 1/1000 tổng giá trị tài sản doanh nghiệp. Trong khi Ban lãnh đạo của công ty này lại cho rằng giá trị của nó phải chiếm từ 5% cho tới 15% của 3600 tỷ. Với bối cảnh như hiện nay, chúng ta đã vô cùng ngạc nhiên khi cách đây ít năm các đối tác nước ngoài từng đề nghị mua một số nhãn hiệu, tên thương mại của Việt Nam với những mức giá bất ngờ: P/S (5triệu USD), Dạ Lan (hơn 1 triệu USD), Bia Sài Gòn (9. 5 triệuUSD)…( - Lúng túng trong định giá thương hiệu, ngày 16/6/2005.
). Trong khi quá trình cổ phần hoá, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, ngoài hoạt động mua bán doanh nghiệp còn có sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại, vì vậy gần như lúc nào việc xác định và định giá giá trị các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ hay các tài sản vô hình khác cũng là một trong những vấn đề cần quan tâm. Tuy vậy, cách giải quyết vấn đề nói trên chưa được đặt ra một cách hệ thống và hiệu quả. Điều này chắc chắn sẽ gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động nhượng quyền thương mại hay hoạt động mua bán doanh nghiệp.
Hiện nay, có thể tham khảo một số phương pháp tính giá trị của thương hiệu (khái niệm kinh tế), tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa (các đối tượng của tài sản vô hình) như sau:
Phương pháp 1: căn cứ vào mức tăng trưởng,sự ổn định và doanh thu tương lai của thương hiệu. Phương pháp này được lựa chọn để xác định các thương hiệu nổi tiếng như Coca-Cola, Microsoft, Nokia...trong trường hợp này phải thoả mãn hai tiêu chí
+) Một, phải là những thương hiệu đa quốc gia.
+) Hai, phải có ít nhất 20% doanh thu từ nước ngoài, đồng thời phải niêm yết công khai các số liệu về tiếp thị và tài chính.
Phương pháp 2: căn cứ vào lợi thế thương mại được tạo ra do mức sinh lợi của tài sản vô hình lớn hơn mức sinh lợi mà các nhà đầu tư đòi hỏi, lợi thế thương mại liên quan đến đầu tư tài sản vô hình và khả năng tạo ra thuận lợi cho doanh nghiệp từ tài sản đó.
Phương pháp 3: căn cứ vào giá thị trường của tài sản vô hình tại các thời điểm khác nhau
Phương pháp 4: căn cứ vào chi phí phải bỏ ra để xây dựng thương hiệu, có hai cách tính:
+) Cộng dồn các chi phí đã bỏ ra trong quá khứ để tạo dựng hoặc mua lại thương hiệu nhược điểm của cách tính này là không tính đến khả năng sinh lợi của thương hiệu khi khai thác.
+) Tính chi phí để tạo dựng nên thương hiệu tại thời điểm hiện tại
Phương pháp 5: dựa vào kết quả kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Giá trị của chứng khoán phản ánh mức sinh lợi do tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp mang lại. Nếu xác định được tài sản hữu hình và chứng khoán thì sẽ tính được giá trị tài sản vô hình trong đó có giá trị của thương hiệu.
Phương pháp 6: căn cứ vào mức sinh lợi hàng năm từ bán sản phẩm có nhãn hiệu hay không có nhãn hiệu của doanh nghiệp ( - Định giá thương hiệu, ngày 16/6/2005.
).
Tuy vậy, khi sử dụng các phương pháp nêu trên, cần phải phân biệt được các khái niệm “thương hiệu”, “ tên thương mại”, “nhãn hiệu hàng hóa”. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 quy định:
“Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” (khoản16 điều4 LSHTTVN 2005).
“ Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Quy định khu vực tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”. (khoản21 điều4 LSHTTVN 2005).
Trong khi đó “ thương hiệu” lại là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong thương mại cũng như trong đời sống hàng ngày.
Về vấn đề phân biệt sự khác nhau giữa “thương hiệu” với “nhãn hiệu hàng hóa” hay “ tên thương mại”, có một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: thương hiệu không phải là thuật ngữ được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật để chỉ các tài sản vô hình như tên thương mại hay nhãn hiệu hàng hóa mà nó là một khái niệm thương mại. Thương hiệu bao gồm rất nhiều yếu tố tạo nên hình ảnh của một công ty và các sản phẩm của nó. Nhãn hiệu chỉ là một trong những hình thức thể hiện ra bên ngoài của thương hiệu, cùng với các yếu tố khác như kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả (về mặt pháp lý), truyền thông, quảng cáo hay marketing (về mặt thương mại). Bên trong của thương hiệu còn có các yếu tố khác như đặc tính của doanh nghiệp, chiến lược phát triển sản phẩm, khả năng định vị của sản phẩm trong tâm trí của người tiêu dùng. Khi nói “ chiến lược xây dựng thương hiệu” là nói đến giải pháp tổng thể, chứ không nói đến việc thiết kế hay đăng kí nhãn hiệu ( Xem: TS. Lê Nết. Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia Thành p.hố Hồ Chí Minh, năm 2006.
).
Quan điểm thứ hai cho rằng: thương hiệu không phải là một thuật ngữ được quy định trong các văn bản pháp luật, một khái niệm mà nội hàm chưa hề được làm rõ, do đó nếu nhìn nhận nó trong các hoạt động kinh doanh, quảng cáo… thì sẽ gây cản trở rất lớn cho việc thực hiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ ( Xem: TS. Phùng Trung Tập. Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ. NXB Tư pháp, Hà Nội - 2006.
).
Như vậy, về cơ bản, các nhà làm luật, cũng như các học giả chuyên nghiên cứu về các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, đã thống nhất quan điểm: thương hiệu là một khái niệm thương mại, còn tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa là các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp. Tuy vậy, chúng đều là những khái niệm nhằm chỉ định các tài sản vô hình. Qua một số bài viết về chủ đề đánh giá giá trị tài sản vô hình từ các nguồn tư liệu khác nhau, tác giả tôn trọng và giữ nguyên các ý kiến, nội dung và ngôn từ được sử dụng trong bài viết, đồng thời đưa ra một số nhận định như trên để trong thực tế khi tiến hành định giá giá trị bộ phận tài sản vô hình có thể có được cách nhìn nhận đúng đắn đối với các khái niệm này.
2.3.2.3. Định giá các quyền và nghĩa vụ tài sản
Doanh nghiệp là chủ sở hữu của các quyền tài sản trong các hợp đồng kinh tế, thương mại, đồng thời cũng là chủ nợ trong các hợp đồng vay tài chính, nợ lương của người lao động, vì vậy, việc định giá phần tài sản này hoàn toàn căn cứ vào sổ sách, chứng từ hiện tại của doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai đầy đủ các hợp đồng này cho bên mua biết.
2.4. Các phương thức mua bán doanh nghiệp
Phương thức mua bán doanh nghiệp là cách thức để các bên thực hiện quá trình mua bán doanh nghiệp thông qua những trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
Hiện nay, theo nghị định 80/2005/ NĐ - CP thì hoạt động mua bán doanh nghiệp được thực hiện bằng một trong các phương thức sau:
+) Phương thức trực tiếp.
+) Phương thức đấu thầu.
+) Phương thức đấu giá.
Bán doanh nghiệp theo phương thức trực tiếp là phương thức bán doanh nghiệp thông qua đàm phán, thoả thuận và ký kết hợp đồng trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp, người có thẩm quyền bán công ty với người mua, theo đó các bên sẽ căn cứ vào điều kiện cụ thể để tiến hành các thủ tục và tổ chức quá trình bán doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và thoả thuận trực tiếp giữa hai bên.
Bán doanh nghiệp theo phương thức đấu thầu là trường hợp bán doanh nghiệp có kèm theo sử dụng lao động và phải có từ hai người trở lên tham gia đăng kí mua. Trong phương thức này người bỏ thầu với giá cao nhất và có phương án sử dụng lao động, kế thừa hay không kế thừa nợ khả quan nhất sẽ là người thắng thầu.
Bán doanh nghiệp theo phương thức đấu giá là hình thức lựa chọn người mua khi có từ hai hai người đăng kí trở lên thông qua trả giá cạnh tranh công khai tại phiên đấu giá. Quá trình đấu giá sẽ được tiến hành theo quy chế đấu giá do thủ tướng chính phủ ban hành. Cụ thể là theo Quy chế đấu giá công ty nhà nước, kèm theo quyết định số 330/2005/QĐ-TTg.
2.5. Hình thức của quan hệ mua bán doanh nghiệp
Hình thức của quan hệ mua bán doanh nghiệp là hợp đồng mua bán doanh nghiệp. Theo quy định của Luật dân sự và Luật thương mại: hình thức của quan hệ mua bán” có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập thông qua hành vi cụ thể. Đối với các hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó”. Đối với hợp đồng mua bán doanh nghiệp, trong nghị định 80/ 2005/NĐ-CP quy định : việc bán công ty hay bộ phận công ty phải thông qua việc ký kết hợp đồng mua bán công ty với những nội dung cơ bản sau : chủ thể mua bán, giá bán, cam kết của hai bên, phương thức chuyển giao tài sản, thanh toán tiền mua doanh nghiệp, thời hạn bàn giao doanh nghiệp và cách thức xử lý các vấn đề phát sinh khi có tranh chấp xảy ra (khoản2 điều24). Tại Quy chế bán đấu giá công ty nhà nước cũng quy định “ hợp đồng mua bán và biên bản bàn giao đã được ký kết là căn cứ pháp lý chứng minh quyền sở hữu của người mua đối với doanh nghiệp ”. (khoản 2 điều 17)
2.6. Đăng ký kinh doanh lại và sự kế thừa nghĩa vụ trong mua bán doanh nghiệp
2.6.1. Đăng ký kinh doanh lại
Tính từ thời điểm chuyển giao, tư cách pháp lý của doanh nghiệp cũ sẽ chấm dứt, chủ sở hữu doanh nghiệp mới nếu muốn tiếp tục kinh doanh, phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại cho doanh nghiệp được mua tại cơ quan đăng kí kinh doanh nơi công ty hay doanh nghiệp đó đóng trụ sở hoặc đăng kí là đơn vị phụ thuộc, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật, hồ sơ đăng kí kinh doanh phải kèm theo quyết định bán công ty, bộ phận của công ty (Điều 27 nghị định 80/NĐ-CP).
2.6.2. Sự kế thừa nghĩa vụ trong mua bán doanh nghiệp
Khi mua lại doanh nghiệp, chủ sở hữu mới có quyền chủ động sử dụng tài sản mua, lựa chọn ngành nghề kinh doanh mới, tổ chức lại sản xuất, đầu tư, thay đổi bộ máy quản lý, quyết định lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp và được tiếp tục thuê đất. Tuy nhiên, chủ sở hữu mới cũng phải kế thừa một số nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và các cam kết trước đó đã ghi trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp như : có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ phải trả theo thoả thuận trong hợp đồng, thu hồi các khoản nợ thuộc phạm vi kế thừa quyền tài sản của mình, thực hiện đúng cam kết về phương án sử dụng lao động khả thi. Luật doanh nghiệp 2005 cũng quy định : sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác, các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác được hiểu là các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đã có trước đó nhưng phát sinh sau khi việc mua bán doanh nghiệp đã hoàn thành mà chưa hề được thoả thuận chuyển nhượng thông qua hợp đồng mua bán doanh nghiệp và cũng chưa được giải quyết.
Chương ii
Pháp luật về mua bán doanh nghiệp
và một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở việt nam hiện nay
1. Pháp luật về mua bán doanh nghiệp
1.1. Pháp luật về mua bán doanh nghiệp tư nhân
Kế thừa Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 vẫn giữ nguyên quy định về quyền bán doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp tư nhân. Đó là “chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác ”. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu cho người khác. Là một trong các quyền đặc thù của doanh nghiệp tư nhân, giống như cho thuê doanh nghiệp, bán doanh nghiệp tư nhân cũng bao gồm bán các tài sản và các giá trị khác của doanh nghiệp (không giới hạn ở giá trị hữu hình) ( Xem: Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, 2006. NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2006, trang 95.
). Hơn nữa, sau khi mua doanh nghiệp, người mua phải đăng kí kinh doanh lại theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được khai sinh một tư cách pháp lý mới. Tuy nhiên pháp luật không quy định điều kiện cho người mua doanh nghiệp do đó sẽ dẫn tới hậu quả có người có khả năng về tài chính mua được doanh nghiệp nhưng không đủ điều kiện theo luật định về thành lập và quản lý doanh nghiệp sẽ không được phép tiếp tục kinh doanh từ doanh nghiệp được mua về. Trường hợp này việc mua lại doanh nghiệp chỉ đơn thuần là mua tài sản doanh nghiệp.
Về mặt thủ tục, chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày chuyển giao doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng kí kinh doanh. Trong thông báo phải nêu rõ tên, trụ sở của doanh nghiệp, tên, địa chỉ của người mua, tổng nợ và thời hạn thanh toán cho từng chủ nợ, hợp đồng lao động và các hợp đồng khác đã ký mà chưa thực hiện xong và cách thức để giải quyết cho các hợp đồng đó (khoản1, điều 145 LDN2005).
Về hình thức, mặc dù người mua vẫn có thể sử dụng tên doanh nghiệp và toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cũ vào việc kinh doanh sau khi mua, nhưng thực chất kể từ thời điểm chuyển giao tài sản trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp thì tư cách pháp lý của doanh nghiệp được đem bán đã chấm dứt và việc đăng kí kinh doanh lại là một thủ tục pháp lý bắt buộc mà chủ doanh nghiệp mới phải thực hiện. Hơn nữa sự chấm dứt đó cũng làm phát sinh một số nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp cũ: về nguyên tắc chủ sở hữu doanh nghiệp cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện được. Theo Luật công ty năm 1990, khi muốn thực hiện việc bán doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp nhất định phải hoàn thành hết các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, nhưng hiện nay, pháp luật đã mở rộng quyền tự do thoả thuận cho các bên trong quan hệ mua bán doanh nghiệp. Vì vậy bên bán, bên mua và các chủ nợ có thể thoả thuận với nhau để đi đến chuyển nhượng một số hoặc tất cả các nghĩa vụ như quá trình chuyển nhượng tài sản trong mua bán doanh nghiệp. Quy định này cũng như quy định về đăng kí kinh doanh lại đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích cho bên mua, người lao động và các chủ nợ của doanh nghiệp bởi vì với quy chế trách nhiệm vô hạn của mình nhất định chủ doanh nghiệp tư nhân mới sẽ đương nhiên phải gánh vác các khoản nợ cho doanh nghiệp cũ nếu như việc không kê khai các nghĩa vụ và các khoản nợ này xảy ra.
Toàn bộ trình tự, thủ tục để thực hiện một quan hệ mua bán doanh nghiệp tư nhân được tiến hành như sau:
Bước 1: Chủ doanh nghiệp có thể tự mình tìm kiếm đối tác có nhu cầu mua lại doanh nghiệp hoặc có thể thông qua IDJ (Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị quốc tế) làm môi giới để tìm đối tác mua lại doanh nghiệp, sau đó nếu muốn sử dụng các dịch vụ khác như tư vấn luật, thẩm định, phiên dịch, đại diện thì có thể chọn giải pháp phù hợp.
Bước 2: Sau khi tìm được đối tác đồng ý mua lại doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp cùng với bên mua sẽ tiến hành các thương lượng và công việc cần thiết như:
+) Xác định tài sản của doanh nghiệp
+) Thành lập hội đồng định giá tài sản doanh nghiệp hoặc lựa chọn cách thức thuê một trung tâm định giá để thực hiện việc này.
+) Tiến hành định giá tài sản doanh nghiệp và toàn bộ giá trị của doanh nghiệp.
+) Công khai các quyền và nghĩa vụ tài sản để đi đến thống nhất giải quyết cho từng nghĩa vụ riêng, thoả thuận những nghĩa vụ có tính kế thừa.
+) Thống nhất giá mua bán doanh nghiệp.
+) Soạn thảo và giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Bước 3: Chủ doanh nghiệp sẽ phải soạn thảo một thông báo về việc bán doanh nghiệp tư nhân theo hình thức được cơ quan đăng kí kinh doanh quy định,với những nội dung chủ yếu sau: bên bán, bên mua, lý do bán, việc thực hiện các nghĩa vụ, các cam kết tiếp tục thực hiện.
Bước 4: Người mua xin đăng kí kinh doanh lại bằng cách gửi một hồ sơ mua bán doanh nghiệp tư nhân, trong đó có một thông báo về việc bán doanh nghiệp tư nhân, một đơn đăng kí kinh doanh doanh nghiệp tư nhân do mình kê khai, bản chính Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cũ cùng bản sao hợp lệ chứng minh nhân dân của chủ doanh nghiệp mới kèm theo lệ phí.
Trong vòng 7 ngày cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành cấp đăng kí kinh doanh cho chủ sỏ hữu mới của doanh nghiệp.
Bước 5: Thực hiện các thủ tục về thuế : khi có hợp đồng mua bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp bán phải thông báo bằng văn bản, kèm theo hợp đồng doanh nghiệp, bản gốc giấy chứng nhận đăng kí thuế và quyết toán thuế gửi cho cơ quan Thuế.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp mua phải thực hiện thủ tục đăng kí thuế với cơ quan Thuế bằng cách gửi một hồ sơ đăng kí thuế bao gồm:
- Tờ khai đăng kí thuế.
- Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh mới (bản sao công chứng).
- Hợp đồng mua doanh nghiệp( bản sao).
- Bản thoả thuận chuyển giao số thuế còn nợ giữa doanh nghiệp mua và doanh nghiệp bán (nếu có).
Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng kí thuế đầy đủ, chính xác của doanh nghiệp, cơ quan Thuế phải cấp Giấy chứng nhận đăng kí thuế cho doanh nghiệp mua. Mã số thuế của doanh nghiệp mua phải giữ nguyên là mã số của doanh nghiệp bán (riêng đối với doanh nghiệp tư nhân sẽ được cấp mã số thuế mới).
1.2. Pháp luật về Mua bán công ty nhà nước
Trong mua bán doanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (83).doc