MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VIỆC KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 5
1.1 Khái niệm chung 5
1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài 5
1.1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài 12
1.2. Nguyên tắc áp dụng Luật và thẩm quyền giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài 14
1.2.1. Nguyên tắc áp dụng luật 14
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài 18
1.3. Điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam 20
1.3.1. Điều kiện kết hôn 21
1.3.2. Nghi thức kết hôn 23
Chương 2. THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI CÔNG DÂN HÀN QUỐC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TIÊU CỰC TRONG VIỆC KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI. 28
2.1. Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc 28
2.1.1. Nhận xét chung 28
2.1.2. Nguyên nhân chủ yếu gia tăng tình trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn quốc 29
2.1.3. Hậu quả xã hội và pháp lý từ việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc 38
2.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế tiêu cực trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài 48
PHẦN KẾT LUẬN 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3851 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp định. Theo nguyên tắc chung thì các hiệp định đều áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự để điều chỉnh các vấn đề về điều kiện kết hôn. Ví dụ: Khoản 1 điều 20 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Bungary quy định: “ Các điều kiện kết hôn giữa công dân của hai nước ký kết sẽ xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người kết hôn là công dân”.
1.3.2. Nghi thức kết hôn
Xuất phát từ bản chất giai cấp của nhà nước, từ phong tục tập quán mà pháp luật các nước có quy định nghi thức kết hôn khác nhau. Hiện nay, trên thế giới thường áp dụng các nghi thức kết hôn như nghi thức dân sự, nghi thức tôn giáo hoặc kết hợp giữa nghi thức dân sự và nghi thức tôn giáo. Ví dụ: Những nước theo thiên chúa giáo, hồi giáo như Irac, Isaren sử dụng nghi thức tôn giáo để thừa nhận tính hợp pháp của hôn nhân, còn một số nước như Đức, Pháp, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Anh lại sử dụng nghi thức dân sự hoặc kết hợp cả hai nghi thức dân sự và tôn giáo. Để giải quyết xung đột về nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài, trong thực tiễn quốc tế, các nước thường áp dụng hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn( Lex loci celebrationis), theo đó việc kết hôn được tiến hành ở đâu thì pháp luật ở đó sẽ quy định tính hợp pháp của nghi thức kết hôn. Tuy nhiên, ở một số nước còn bổ sung thêm các nguyên tắc khác để giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn: Ví dụ như ở các nước Đông Âu, về nguyên tắc chung là áp dụng hệ thuộc luật nơi tiến hành kết hôn để giải quyết các vấn đề về nghi thức kết hôn, tuy nhiên đối với những trường hợp kết hôn ở ngoài lãnh thổ của các nước này, một số nước còn quy định bổ sung: Chẳng hạn, theo khoản 2 điều 15 Luật tư pháp quốc tế Ba lan “ Việc kết hôn được đăng ký ở nước ngoài thì nghi thức kết hôn chỉ cần tuân theo các quy định của luật quốc tịch của cả hai vợ chồng là đủ”
Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 11 nghị định 68/2002/NĐ-CP và điều 57 BLDS 2005 thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức do pháp luật quy định. Moi nghi thức kết hôn không tuân theo các quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn đều không có giá trị pháp lý. Như vậy, đăng ký kết hôn là nghi thức kết hôn duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân, đây chính là nghi thức dân sự. Pháp luật Việt Nam không thừa nhận các trường hợp kết hôn được tiến hành theo các nghi thức khác mà đương sự không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hôn nhân chỉ được coi là hợp pháp khi nam, nữ tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn trước có quan nhà nước có thẩm quyền. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định khá cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn.
Theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP về hôn nhân có yếu tố nước ngoài quy định về trình tự, thủ tục giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài được thực hiện như sau:
Bước 1. Các bên đương sự chuẩn bị hồ sơ đầy đủ theo quy định. Hồ sơ đăng ký kết hôn bao gồm các loại giấy tờ sau:
a) Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định;
b) Giấy xác nhận về tình trạng hôn nhân của mỗi bên, do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người xin kết hôn là công dân cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại đương sự là người không có vợ hoặc không có chồng.
Trong trường hợp pháp luật của nước mà người xin kết hôn là công dân không quy định cấp giấy xác nhận về tình trạng hôn nhân thì có thể thay giấy xác nhận tình trạng hôn nhân bằng giấy xác nhận lời tuyên thệ của đương sự là hiện tại họ không có vợ hoặc không có chồng, phù hợp với pháp luật của nước đó;
c) Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc không mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
d) Bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy chứng minh nhân dân (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế như giấy thông hành hoặc thẻ cư trú (đối với người nước ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài);
đ) Bản sao có công chứng hoặc chứng thực sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể hoặc giấy xác nhận đăng ký tạm tú có thời hạn (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), thẻ thường trú hoặc thẻ tạm trú hoặc giấy xác nhận tạm tú (đối với người nước ngoài ở Việt Nam).
Ngoài các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật Nhà nước thì phải nộp giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức quản lý ngành cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh, xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật Nhà nước hoặc không trái với quy định của ngành đó.
Bước 2. Hồ sơ được lập thành hai bộ, nộp tại sở tư pháp (nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam), nộp tại cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài (nếu đăng ký kết hôn tại các cơ quan này)
Bước 3. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ, Sở tư pháp tiến hành phỏng vấn trực tiếp hai bên nam nữ tại trụ sở Sở Tư pháp.
Bước 4. Niêm yết hồ sơ kết hôn tại trụ sở Sở Tư pháp và UBND xã nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn của bên đương sự là công dân Việt Nam, nơi thường trú của người nước ngoài tại Việt Nam trong thời hạn 7 ngày.
Bước 5. Sở tư pháp nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn. Chuyển hồ sơ Công an tỉnh xác minh trong trường hợp có nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo của đương sự.
Bước 6. Chuyển Chủ tịch UBND tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn. Đến hẹn hai bên nam nữ đến dự lễ đăng ký kết hôn, ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn. Trường hợp từ chối việc đăng ký thì UBND tỉnh có văn bản thông báo, nêu rõ lý do.
Nhìn chung, so với nghị định 68/2002/NĐ-CP, Nghị định 69/2006/NĐ-CP đã có những sửa đổi bổ sung theo hướng đơn giản hóa thủ tục đăng ký kết hôn cho các bên đương sự. Đó là nghị định Nghị định 69/2006/NĐ-CP đã tách bạch tờ khai đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 13 nghị định 68/2002/NĐ-CP thành hai loại giấy tờ khác nhau đó là “ Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định” và “Giấy xác nhận về tình trạng hôn nhân của mỗi bên...”. Ngoài ra, theo quy định mới của Nghị định 69/2006/NĐ-CP thì hồ sơ đăng ký kết hôn cũng không cần có “ lý lịch cá nhân theo mẫu quy đinh” vì thực tế cho thấy, việc quy định thêm loại giấy tờ này là không cần thiết. Như vậy, theo quy định mới thì người xin đăng ký kết hôn đã giảm được phần nào một số giấy tờ không cần thiết, làm cho thủ tục kết hôn trở nên gọn nhẹ hơn, tạo sự thuận lợi cho các bên đương sự. Tuy nhiên, nghị định cũng bổ sung thêm một thủ tục mới trong phần trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn, đó là trách nhiệm của Sở tư pháp trong việc thực hiện phỏng vấn hai bên nam nữ nhằm làm rõ tính tự nguyện trong hôn nhân, việc đăng ký kết hôn sẽ bị từ chối, nếu qua phỏng vấn cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp, kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng... quy định mới này nhằm tránh tình trạng nhiều người lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để mua bán phụ nữ, trục lợi như thực tế thời gian qua đã diễn ra.
Chương 2. THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI CÔNG DÂN HÀN QUỐC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TIÊU CỰC TRONG VIỆC KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI.
2.1. Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc
2.1.1. Nhận xét chung
Trong sự phát triển của tiến bộ xã hội, tự do kết hôn đã trở thành một giá trị cơ bản của quyền con người. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt nam trải qua ba lần lập pháp đều nhất quán khẳng định mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững làm nền tảng cho sự phát triển của tiến bộ xã hội. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đời sống hôn nhân và gia đình Việt Nam đang đứng trước sự phát sinh những hiện tượng hôn nhân không bình thường của việc lợi dụng quyền tự do kết hôn nhằm hướng đến các quan hệ lợi ích. Trong đó hiện tượng kết hôn với người nước ngoài mà nổi lên là hiện tượng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua có thể coi là ví dụ điển hình về sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đối với quan hệ hôn nhân. Đây thực sự là một vấn đề xã hội phức tạp trong sự quan tâm của dư luận xã hội cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Theo giáo sư Kim Young Shin tại hội thảo “ Những vấn đề và phương hướng giải quyết trong quan hệ hôn nhân quốc tế Việt Hàn”, nhìn chung tình hình kết hôn quốc tế Việt - Hàn hiện nay đang gặp phải nhiều sóng gió gay go trong khi vẫn chưa tìm được phương án nào giải quyết thỏa đáng, chính phủ Hàn Quốc và Việt Nam đang nỗ lực để cải thiện tình hình nhưng vẫn còn khá nhiều vấn đề mà nhà nước chưa thể động tới, mặc dù được sự giúp đỡ của các cơ quan phi chính phủ và nhiều đoàn thể nhưng tình trạng trên vẫn tồn tại nhiều thiếu sót. Thực tế trong những năm qua cho thấy, số lượng các cuộc hôn nhân Việt - Hàn đã tăng lên đáng kể. Theo kết quả điều tra thực trạng người nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc của Bộ An toàn – hành chính Hàn Quốc năm 2008 cho biết: Cả nước Hàn Quốc có 127.683 cô dâu ngoại quốc thì trong đó số cô dâu người Việt Nam là 20.942 người tính luôn cả con, so với năm 2001 chỉ có 134 người, tăng 156 lần. Đặc biệt Tại Chung Nam của Hàn Quốc số cô dâu người Việt Nam đã tăng từ 347 người vào năm 2006 lên 1.238 người vào năm 2009. Còn ở Việt Nam, theo số liệu thống kê thì nếu trước năm 2004 chỉ có 560 trường hợp kết hôn thì đến năm 2005 là 1500 trường hợp, năm 2006 là 20.000 trường hợp và từ năm 2007 đến đầu năm 2008 là 25.000 [19], các cuộc hôn nhân ban đầu diễn ra ở các tỉnh miền tây Nam Bộ như An Giang, Cần Thơ...Từ năm 2005-2008, hôn nhân Việt Hàn lan rộng ra các tỉnh phía bắc, tập trung nhiều ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng... Hiện tại, Việt Nam đã trở thành nước có tốc độ gia tăng hôn nhân quốc tế cao, trong số các vụ hôn nhân quốc tế với người Hàn Quốc, Việt Nam chiếm nhanh nhất về tốc độ và đứng thứ hai về số trường hợp kết hôn sau Trung Quốc.
Qua phân tích của bà Trịnh Thị Bích tại hội thảo “ Hôn nhân xuyên biên giới vùng Đông và Đông Nam Châu Á”[19], nhìn chung, có thể đưa ra một số nhận xét chung về tình trạng trên như sau:
Về độ tuổi kết hôn của phụ nữ Việt Nam: Từ 18 đến 20 tuổi chiếm 18%; từ 21 đến 30 tuổi chiếm 52%; trên 30 tuổi chiếm 20%. Về nghề ngiệp, đa số chưa có việc làm, chỉ ở nhà nội trợ chiếm 86.3%, công nhân chiếm 2.8%, kinh doanh 5% và làm thuế 5%. Đối với nam giới Hàn Quốc, đa số có nghề nghiệp là nông dân, công nhân, làm thuê chiếm 83%, kinh doanh 11%, không có công chức và người thất nghiệp, về độ tuổi nhiều nhất từ 20 đến 40 tuổi chiếm 69%; từ 40 đến 50 tuổi chiếm 20% và trên 50 tuổi chiếm 11%
Về hoàn cảnh gặp gỡ quen biết và điều kiện tìm hiểu trước khi đăng ký kết hôn: Có đến 85% thông qua sự môi giới của người quen, họ hàng, bạn bè đã có chồng Hàn Quốc giới thiệu, thời gian tìm hiểu rất ngắn, chỉ từ một tháng đến ba tháng là tiến tới hôn nhân. Và có đến 60% chung sống với nhau trước khi đăng ký kết hôn.
2.1.2. Nguyên nhân chủ yếu gia tăng tình trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn quốc
Toàn cầu hóa hiện nay đã trở thành một xu thế tất yếu của đời sống xã hội, nó tác động đến tất cả các quốc gia, các khu vực trên thế giới mà hệ quả của nó là sự giao lưu quốc tế trên tất cả mọi mặt từ kinh tế, thương mại, đầu tư tới văn hóa...Hôn nhân quốc tế tự thân nó phát triển và trở thành trào lưu ở nhiều nước trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ đến những năm đầu của thập niên 90 của thế kỉ 20 trở lại đây, hiện tượng này mới thực sự phổ biến và gây sự chú ý trong dư luận xã hội. Hàng năm có khoảng 10.000 phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, chủ yếu là với người Đài Loan và Hàn Quốc.
Theo Cục Thống kê Hàn Quốc, trong vòng năm năm gần đây, tỉ lệ kết hôn với người nước ngoài của Hàn Quốc tăng lên ba lần, trong đó tỉ lệ đàn ông Hàn Quốc lấy vợ Việt Nam tăng đến 43 lần. Con số này chiếm 1/5 tổng số người Hàn Quốc kết hôn với người nước ngoài, đứng thứ hai sau Trung Quốc (18.527 người). Nhưng hầu hết phụ nữ Trung Quốc này có gốc là người Hàn. Như vậy, chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số người nước ngoài mà đàn ông HQ kết hôn là phụ nữ Việt Nam [14]. Những hậu quả của các cuộc hôn nhân Việt - Hàn trong thời gian qua đã được dư luận xã hội lên tiếng và trở thành vấn đề nhức nhối trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này cần tìm ra nguyên nhân tại sao lại có sự gia tăng một cách nhanh chóng như vậy, từ đó tìm ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trên, đồng thời bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của phụ nữ Việt Nam khi lấy chồng Hàn quốc.
2.1.2.1. Nguyên nhân khách quan
* Do Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách đối ngoại mở cửa, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có đất nước Hàn Quốc
Có thể thấy trong những năm vừa qua, nền kinh tế Hàn quốc phát triển trên hầu hết các lĩnh vực, điều đó tạo nên sự giao lưu hợp tác của công dân Hàn quốc với các nước mà đặc biệt là các nước nằm ở khu vực Đông Nam Á, trong đó quan hệ với Việt Nam ngày càng được tăng cường. Cùng với chính sách mở cửa, hội nhập là sự giao lưu, đi lại, hợp tác đầu tư sản xuất kinh doanh giữa công dân Hàn quốc với công dân Việt Nam, do đó tạo nên sự quen biết, gặp gỡ từ đó đi đến kết hôn với nhau. Việc nhà nước ta ban hành Luật HN&GĐ 2000, trong đó dành hẳn một chương quy định về quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, đồng thời với đó là việc Chính phủ ban hành nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN&GĐ về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài và nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều nghị định 68/2002/NĐ-CP cho thấy Nhà nước ta luôn khuyến khích các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài phát triển, đồng thời có chính sách nhằm bảo đảm quyền lợi cho các đương sự khi tham gia quan hệ đó
* Do chính sách của Hàn quốc
Hiện nay Hàn quốc đang đứng trước nguy cơ suy giảm dân số và mất cân bằng giới tính. Do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng nên gia đình truyền thống Hàn Quốc theo chế độ gia trưởng. Mục đích lớn nhất của hôn nhân trong gia đình Hàn Quốc là duy trì hậu duệ và thở cúng tổ tiên với biểu hiện cụ thể là sinh ra những người con trai để nối dõi, thừa kế gia sản, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Mặc dù trong xã hội hiện đại chế độ này đã phai nhạt đi khá nhiều nhưng vẫn còn tồn tại ở nông thôn hay những nơi vùng sâu vùng sa, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khiến cho nhiều nam giới Hàn Quốc ở nông thôn không lấy được vợ vì phụ nữ Hàn không muốn kết hôn với nam là nông dân, người có thu nhập thấp. Để khắc phục tình trạng này, Hàn quốc đã đề ra chính sách khuyến khích công dân nước mình kết hôn với người nước ngoài để giảm tình trạng suy giảm dân số, chẳng hạn như chính quyền một số tỉnh Hàn Quốc hỗ trợ cho các chàng trai kết hôn với người nước ngoài là 6000 đô la Mỹ một trường hợp.
Bên cạnh đó, các trung tâm môi giới kết hôn được nhà nước khuyến khích phát triển đã tích cực tìm nguồn khắp nơi, trong đó có phụ nữ Việt Nam với nhiều lý do ưu việt như hình thức ưa nhìn, khỏe mạnh, có khả năng sinh con duy trì nòi giống, chịu khó lao động không đòi hỏi nhiều vật chất là một điểm hấp dẫn để đáp ứng nhu cầu trong nước. Hoạt động của các trung tâm môi giới hết sức mạnh mẽ bởi vốn ít nhưng lợi nhuận cao. Ngược lại, ở Việt Nam môi giới kết hôn là loại hình dịch vụ bị pháp luật ngăn cấm, cho nên các tổ chức và cá nhân Hàn tìm mọi cách để móc nối với các tổ chức trong nước với nhiều hình thức lẩn tránh pháp luật Việt Nam. Đặc biệt pháp luật Hàn Quốc quy định việc kết hôn không cần sự có mặt của hai bên nên cô dâu Việt chỉ cần gửi hồ sơ sang là cơ quan có thẩm quyền sẽ cho phép kết hôn. Sau khi kết hôn, giấy kết hôn đã được đăng ký tại Hàn Quốc được chuyển sang Việt Nam để làm thủ tục công nhận và xuất cảnh. Có lẽ, đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng gia tăng số lượng các trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn quốc trong những năm qua.
* Do quản lý nhà nước còn nhiều bất cập
Việc quản lý của nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức làm dịch vụ môi giới kết hôn chưa chặt chẽ, đồng bộ. Có thể thấy, tính phức tạp của hôn nhân có yếu tố nước ngoài hiện nay phần lớn là do hoạt động của những tổ chức, cá nhân môi giới bất hợp pháp. Ở Việt Nam hiện nay nhà nước cấm các công ty tư nhân mở các trung tâm hành nghề môi giới nhưng ở Hàn Quốc, chính phủ Hàn khuyến khích các trung tâm môi giới phát triển, các tổ chức này đã tràn sang Việt Nam nhưng không quảng cáo một cách chính thức mà thường thông qua các tầng nấc người Việt Nam, vì vậy ở trong nước, hoạt động môi giới hôn nhân bất hợp pháp vẫn tiếp tục diễn ra không chỉ tại các thành phố mà còn mở rộng về vùng sâu, vùng xa. Trong một bài viết được đăng trên báo điện tử VnExpress ra ngày 7/4/2008, một vị chủ tịch xã ở huyện Thủy Nguyên( Hải Phòng )cho hay “ thu nhập của những người môi giới hôn nhân rất cao, có người kiếm được gần chục tỷ chỉ trong vài năm. Chuyện thay ôtô với họ như thay áo”. Cũng theo vị chủ tịch xã này, vì thu nhập cao nên người môi giới thường tìm mọi cách để trốn tránh pháp luật. "Có mấy khi họ tổ chức tuyển dâu trực tiếp tại nhà đâu. Chỉ khi chính quyền sơ hở (thứ bảy, chủ nhật nghỉ làm), họ tổ chức chớp nhoáng, khi biết tin chúng tôi đến mọi việc đã xong...”. Những người môi giới hôn nhân bất hợp pháp khi gặp những gia đình có hoàn cảnh khó khăn thì ra sức tô vẽ, ca ngợi cảnh giàu có của các nước phát triển hơn Việt Nam trong đó có đất nước Hàn Quốc, dựng lên viễn cảnh giàu sang khi kết hôn với các chàng trai Hàn Quốc. Một mặt do hoàn cảnh khó khăn trước mắt, cộng với sự lôi kéo của môi giới nên nhiều phụ nữ đã đã đồng ý kết hôn với người mà họ chưa từng quen biết. Trước tình hình đó, những Trung tâm hỗ trợ kết hôn do Hội liên hiệp phụ nữ cấp tỉnh thành lập đã ra đời nhằm thay thế cho các công ty tư nhân, có nghĩa là Nhà nước sẽ tham gia trực tiếp quản lý hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên thực tế hiện nay các trung tâm này hoạt động rất kém hiệu quả, các hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước vẫn được tiến hành nằm ngoài vòng kiểm soát của nhà nước và tình trạng môi giới bất hợp pháp vẫn tiếp tục ra tăng ngày càng cao.
2.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
* Nguyên nhân kinh tế
Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài và xuất cảnh ra sinh sống ở nước ngoài vốn dĩ được nhìn nhận như một hiện tượng tất yếu về sự chuyển dịch nhân khẩu trong xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên sự gia tăng nhanh chóng, tạo thành làn sóng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn quốc trở thành một hiện tượng xã hội bất bình thường bởi phần lớn, việc xác lập các quan hệ hôn nhân này xuất phát từ mục đích kinh tế. Đa số các cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc là người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập không cao, hoàn cảnh gia đình khó khăn dẫn đến tâm lý phổ biến là hy vọng việc kết hôn với người Hàn Quốc sẽ giúp thay đổi hoàn cảnh sống và tạo điều kiện giúp đỡ gia đình bớt khó khăn về kinh tế. Không ít người quyết định kết hôn trong tình trạng gia đình túng quẫn, thiếu nợ, trong tình trạng ấy, việc kết hôn để có ngay một khoản tiền là biện pháp duy nhất được lựa chọn để giúp gia đình giải quyết ngay khó khăn trước mắt. Mặt khác, có nhiều phụ nữ do nhẹ dạ cả tin hoặc lười nhác lao động cho rằng lấy chồng nước ngoài sẽ có cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, đầy đủ nên tìm mọi cách lấy chồng nước ngoài, kể cả qua trung gian, môi giới. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người Hàn Quốc hiện nay là “Xu hướng lấy chồng Hàn Quốc tăng lên, trẻ hoá cô dâu. Trước đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại quốc”. Báo chí vừa qua cũng đã phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía Bắc “cưới chồng” Hàn quốc với số tiền quy ra khoảng mười tấn thóc. Bởi lý do kết hôn là ra nước ngoài có việc làm: “ Đi lao động Hàn Quốc thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động lại có hạn, chỉ phù hợp với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô lấy chồng, tờ hôn thú sẽ đảm bảo cho các cô việc ở lại Hàn Quốc làm việc tới già. Thu nhập của các cô là niềm mong đợi của gia đình ở quê nhà. Đó là những cuộc hôn nhân hai trong một, vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các cô vay mượn bỏ ra mua chồng, sang đến Hàn quốc, đi làm vài tháng là dư trả” [21]
Về phía Hàn Quốc, một thực tế không thể phủ nhận là Hàn Quốc ngày càng phát triển và là một trong bốn con rồng Châu Á, cho nên đời sống của người dân Hàn Quốc ngày càng được cải thiện về cả vật chất và tinh thần. Ví dụ: Thu nhập của Hàn Quốc khoảng 19000 đô la một năm, còn Việt Nam chỉ khoảng 600 đô la một năm [17], do đời sống cao cộng với sự du nhập của văn hóa phương tây nên nhiều phụ nữ đã chuyển đổi nhận thức về cuộc sống gia đình với tiêu chuẩn tìm bạn đời cao hơn, đa số phụ nữ lấy chồng muộn và không muốn lấy chồng là nông dân, thu nhập thấp. Vì vậy, nhiều nam giới ở nông thôn không thể lấy được vợ, họ buộc phải chuyển hướng ra bên ngoài đất nước, với thu nhập thấp của họ nhưng đang là ưu thế đối với công dân các nước kém phát triển, họ đã dùng điểm mạnh này để lấy vợ nước ngoài, trong đó có cô dâu Việt là phù hợp với kinh tế của họ
* Do phụ nữ Việt Nam có nhiều ưu điểm. Do truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhiều vùng miền có sự khác nhau
Do tiếp thu những tinh hoa đạo đức của văn hóa phương Đông nên người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều được ca ngợi có đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, một lòng vì chồng, vì con. Điều này hết sức được coi trọng ở đất nước Hàn quốc bởi lẽ do chịu ảnh hưởng của văn hóa nho giáo nên người Hàn Quốc quan niệm rằng, phụ nữ lập gia đình thì họ hoàn toàn phải theo nhà chồng. Cũng chính vì vậy mà tại website của các trung tâm môi giới kết hôn quốc tế Việt Hàn có thể thấy những lời quảng cáo như “ Việt Nam có nền văn hóa ảnh hưởng nho giáo tương đồng với Hàn Quốc nên phụ nữ Việt Nam rất có tư tưởng phục tùng, tôn kính cha mẹ và đề cao gia đình, vì vậy phụ nữ Việt Nam chính là nàng dâu tốt nhất”
Một nguyên nhân khác cũng được coi là yếu tố không nhỏ dẫn đến tình trạng gia tăng của hôn nhân Việt- Hàn đó là do tập quán, lối sống ở mỗi khu vực khác nhau. Thực tế cho thấy, tình trạng kết hôn với người Hàn Quốc chủ yếu xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền tây Nam Bộ. Ở nước ta, thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm văn hóa, kinh tế, thương mại, xã hội có nhiều điểm thuận lợi: có cảng rộng lớn, giao thông thuận tiện...Với ưu thế đó, cộng với chính sách mở cửa thu hút đầu tư, mở rộng quan hệ hợp tác của của chính quyền thành phố làm gia tăng mối quan hệ hợp tác, giao dịch trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và các nước, trong đó có quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người Hàn Quốc. Có thể do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường nên từ lâu, quan niệm của mọi người về việc kết hôn với người nước ngoài cũng cởi mở hơn, dư luận ít khắt khe hơn. So với cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng kết hôn có yếu tố nước ngoài cao nhất nước với trên 60 quốc gia có công dân là chủ thể tham gia vào mối quan hệ hôn nhân với công dân Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Hàn Quốc lại có chiều hướng tăng nhưng không đáng kể, tính từ 2003 đến 2007 có 734 người lấy chồng Hàn Quốc( Sở Tư pháp TPHCM). Còn ở các tỉnh miền tây Nam bộ, chẳng hạn như Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, do ở đây chịu ảnh hưởng của nhiểu nền văn hóa khác nhau như Ấn Độ, Hồi giáo, Pháp và Mỹ cho nên việc hôn nhân với người nước ngoài được dễ dàng chấp nhận hơn, vì vậy số phụ nữ kết hôn với người Hàn Quốc tăng lên đáng kể. Ví dụ: Ở Đồng Tháp, số phụ nữ kết hôn với người nước ngoài nhiều đến mức ở đây đã xuất hiện một số “địa danh ngoại” như ấp Đài Loan, cồn Hàn Quốc...Tính từ năm 2000 đến 2005, mỗi năm Đồng Tháp có hơn 2000 trường hợp kết hôn với người nước ngoài, nhất là với người Đài Loan, Hàn Quốc [20]. Thực trạng này có thể xuất phát từ tuyền thống và văn hóa của khu vực miền tây Nam bộ đó là do ít bị ảnh hưởng của đạo Khổng như miền Bắc, do đó nơi này cởi mở hơn với việc kết hôn với người nước ngoài. Trong hôn nhân, người dân Nam Bộ ít câu nệ về vấn đề gia tộc, tuổi tác... cho nên có khá nhiều cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc khác nhau. Ở Hà Tĩnh, một tỉnh miền Trung hiện đang rất ngèo nhưng số lượng các cô gái kết hôn với người nước ngoài nói chung và người Hàn Quốc nói riêng rất ít, phải chăng cũng là do có nguyên nhân xuất phát từ cách sống, suy nghĩ của con người. Đã có nhiều bậc cha mẹ kiên quyết cho rằng, thà để con gái ế chồng chứ nhất định không cho đi lấy chồng nước ngoài, và thực tế thì ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, số lượng phụ nữ lấy chồng nước ngoài còn rất khiêm tốn so với các tỉnh phía nam
* Do ảnh hưởng của các phương tiện thông tin, truyền thông
Trong những năm qua, sự du nhập ồ ạt của các loại hình thông tin qua báo chí, phim ảnh, thời trang, mỹ phẩm... của Hàn Quốc đã tạo ra “ Làn sóng Hàn Quốc” ở Châu Á nói r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam.doc