MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 4
1.1. Khái niệm tài sản và quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 4
1.1.1. Khái niệm tài sản 4
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 5
1.2. Đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng 7
1.3. Khái quát về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 10
1.3.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 10
1.3.2. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 11
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 13
2.1. Quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng 13
2.1.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng 13
2.1.2. Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung 21
2.1.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng 24
2.1.4. Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng 32
2.2. Quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng 34
2.2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ chồng 34
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng 37
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 42
3.1. Một số vướng mắc 42
3.2. Kiến nghị hoàn thiện 47
3.2.1. Tài sản chung của vợ chồng 47
3.2.2. Tài sản riêng của vợ, chồng 54
KẾT LUẬN 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2082 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về pháp luật điều chỉnh quyền sở hữu tài sản của vợ chồng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cùng ký tên vay hoặc khi vay phải hỏi ý kiến người kia, và khi hậu quả xảy ra, thì cả vợ và chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc trả nợ, đó là nợ chung của vợ và chồng. Trường hợp có tranh chấp, chẳng hạn như một bên vay để tiêu xài chung mà bên kia không đồng ý liên đới trả nợ, thì người vay mượn có nghĩa vụ phải chứng minh việc vay mượn là để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu trong gia đình.
Như vậy, quy định tại Điều 25, Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý trong thực tiễn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 liên quan đến các quy định về các giao dịch dân sự trong BLDS.
2.1.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
- Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000)
Theo nguyên tắc chung, chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cặp vợ chồng vì những lý do khác nhau muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (có thể xuất phát từ việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung hoặc do có mâu thuẫn về mặt tình cảm... nhưng không muốn ly hôn mà muốn độc lập về tài sản).
Xuất phát từ thực tế trên, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 29, Điều 30) trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 18) tiếp tục quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo đó, trong trường hợp có lý do chính đáng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ chồng hoặc bằng bản án, quyết định của tòa án. Khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân quan hệ nhân thân giữa vợ chồng không thay đổi. Đây chính là điểm khác biệt nhất của chế định này so với chế định ly thân được quy định trong pháp luật của một số nước phương tây. Việc quy định theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là hoàn toàn phù hợp bản chất hôn nhân được xác lập dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định trên, các trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là:
+ Chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng: Đây là trường hợp khi một bên vợ hoặc chồng muốn tự mình kinh doanh hoặc hợp tác với người thứ ba nhưng không muốn ảnh hưởng đến khối tài sản chung của vợ chồng khi thua lỗ, hoặc không đủ vốn, hoặc do một bên muốn đầu tư kinh doanh vào một lĩnh vực nào đó nhưng người còn lại không đồng ý.... Do đó, để thuận tiện cho việc đầu tư kinh doanh riêng của mình vợ, chồng có thể yêu cầu được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
+ Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: Nghĩa vụ phát sinh từ khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhưng sử dụng vào mục đích cá nhân, mà không vì lợi ích chung của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng; nghĩa vụ cấp dưỡng cho con riêng; nghĩa vụ cấp dưỡng cho vợ hoặc chồng cũ (rơi vào cảnh khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng)...
+ Chia tài sản chung của vợ chồng khi có lý do chính đáng khác.
Pháp luật không có quy định cụ thể lý do chính đáng khác ở đây là bao gồm những gì? Xuất phát từ thực tiễn, có thể hiểu: Lý do chính đáng khác trong trường hợp này là những mâu thuẫn sâu sắc về tình cảm giữa vợ chồng, song do tuổi cao, địa vị xã hội, nghề nghiệp, danh dự, uy tín trách nhiệm đối với các con... mà họ không muốn ly hôn.
Về phương diện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, trên cơ sở kế thừa và phát triển Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 : “Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại đều do Toà án quyết định”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho phép hai vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn hoặc yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình không quy định nguyên tắc chia.
Xuất phát từ đặc điểm hình thức sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, trong đó tỷ lệ tài sản của mỗi bên vợ chồng trong khối tài sản chung là ngang nhau. Pháp luật cần phải quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng theo nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng, trong đó có xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng để tạo cơ sở pháp lý thống nhất áp dụng trong thực tiễn.
Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
+ Hậu quả pháp lý về nhân thân: không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật, các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng vẫn phải được đảm bảo
+ Hậu quả pháp lý về tài sản:
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng (Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung còn lại vẫn thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận (khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2000), được hướng dẫn cụ thể tại Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Đây là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Bên cạnh đó, trong trường hợp sau khi chia tài sản chung mà vợ chồng muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung thì theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ ngày văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác định phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng. Như vậy, vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà không cần có sự xem xét của Tòa án. Đây là một quyền hạn khá rộng mà pháp luật trao cho vợ chồng, đảm bảo quyền tự do định đoạt tài sản của công dân.
- Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Khi phán quyết ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt cả về mặt nhân thân và tài sản. Về tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của vợ chồng. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Tài sản của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó (khoản 1 Điều 95).
Quy định như vậy đảm bảo quyền tự định đoạt của vợ chồng. Trong trường hợp vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, nuôi con khi ly hôn (còn gọi là thuận tình ly hôn) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án khi phân chia tài sản của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận với nhau, có yêu cầu Tòa án giải quyết, tòa án cần phải xem xét: xác định tài sản chung, tài sản riêng, người có quyền, lợi ích liên quan, công sức đóng góp.
+ Đối với tài sản riêng: tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó, nếu có tranh chấp về tài sản riêng, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng của mình, phải có nghĩa vụ chứng minh; nếu không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài chung của vợ chồng.
+ Đối với tài sản chung: theo khoản 2 Điều 95: về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ quyền lợi của vợ, con chưa thành niên, tàn tật... Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch. Việc chia tài sản cũng phải bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định các trường hợp chia tài sản chung trong trường hợp sống chung với gia đình (Điều 96), chia quyền sử dụng đất của vợ chồng (Điều 97), chia nhà ở thuộc sở hữu chung (Điều 98), giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên (Điều 99) và được cụ thể hóa trong Nghị định số 70/2001/NĐ-CP (Điều 23 đến Điều 29) và bảo đảm quyền lưu cư của vợ, chồng trong thời hạn 6 tháng (khoản Điều 30 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
Tuy nhiên, trên thực tế các tranh chấp phát sinh liên quan đến chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thường rất phức tạp, dẫn đến tình trạng thời gian giải quyết kéo dài.
Ví dụ: Theo bản án sơ thẩm số 18/2009/HNGĐ- ST, ngày 28/9/2009 của Tòa án nhân dân (sau đây viết tắt là TAND) quận Cầu Giấy, trong đơn ly hôn ngày 9/11/2008 và lời khai tại Tòa, nguyên đơn Nguyễn Thu Hương trình bày: Ngày 26/1/1999, chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Giang. Sau một thời gian, hạnh phúc đổ vỡ do chị không thể sinh con theo nguyện vọng của chồng. Anh Giang có quan hệ với phụ nữ khác. Vợ chồng chị đã ly thân trong nhiều năm. Đến nay, do thấy không thể tiếp tục sống chung nên chị đề nghị ly hôn.
Tài sản chung của vợ chồng chị là ngôi nhà 4 tầng, trên diện tích 87m2 ở số 11, ngõ 46, phố Quan Nhân, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy (gọi tắt là nhà số 11); một xe ô tô Isuzu - Lander biển kiểm soát 29T - 5572 và đồ dùng sinh hoạt trong nhà. Khi ly hôn, chị Hương đề nghị Tòa xử chị được chia giá trị chiếc xe. Còn về ngôi nhà, chị đã đóng góp 70% trong việc mua đất, xây nhà nên đề nghị Tòa căn cứ vào quy định của pháp luật để chia. Chị đề nghị Tòa chia bằng hiện vật, theo cách chia dọc nhà từ dưới lên trên để thuận tiện sử dụng. Cũng trong bản án sơ thẩm này, bị đơn, anh Nguyễn Giang trình bày. Về tài sản, anh cho rằng chiếc xe ô tô Isuzu – Lander, biển kiểm soát 29T - 5572 là của riêng anh. Về ngôi nhà, anh cho biết đó là tài sản của anh, chị Hương và bố mẹ anh (đóng góp 65 cây vàng 9999). Số tiền này, anh nhận từ mẹ mình là bà Bùi Thị Khang vào khoảng tháng 8/1998. Thời điểm này anh và chị Hương chưa sống chung với nhau. Việc đưa số vàng 65 cây có sự chứng kiến của những người thân trong gia đình anh như bố, mẹ, em gái. Theo anh Giang, phần đóng góp của chị Hương 200.000.000 trên tổng giá trị ngôi nhà lúc đó là 1.270.000.000. Khi ly hôn, anh sẽ thanh toán cho chị Hương bằng tiền đúng với giá trị chị đã đóng góp theo giá trị mà Hội đồng định giá xác định để chị Hương đi tìm nơi ở mới.
Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND quận Cầu Giấy quyết định: Xác nhận ngôi nhà có tổng giá trị hiện thời 7.261.590.860; Xác nhận ngôi nhà số 11, là tài sản chung của bà Bùi Thị Khang, chị Nguyễn Thu Hương và anh Nguyễn Giang. Trong đó, bà Khang sở hữu 25% giá trị tài sản nhà đất, anh Giang và chị Hương sở hữu 75% giá trị nhà đất. Giao cho anh Giang toàn quyền sử dụng một phần nhà đất tại nhà số 11 và có nghĩa vụ thanh toán trả chị Hương tài sản chung bằng tiền là 2.723.096.500 Chị Hương không đồng ý với quyết định trên, nên đã có kháng cáo.
Theo chúng tôi, đối với vụ việc này, Hội đồng xét xử cần xem xét lại việc bố mẹ anh Giang có cung cấp tiền để anh mua ngôi nhà số 11 hay không trên cơ sở những căn cứ xác thực. Thực tế, đã có những trường hợp khi kết hôn, vợ hoặc chồng không biết đến những quyền sở hữu của những người khác trong tài sản của người vợ hoặc người chồng. Còn việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ trên lời khai của nhân chứng thì chưa đủ, bởi có thể những lời khai này không khách quan. Những giấy tờ có giá trị pháp lý về quyền sở hữu ngôi nhà số 11 của anh Giang và chị Hương đưa ra có phải là căn cứ khẳng định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của hai người không? Tòa án cũng có thể xem xét đến những chứng cứ khác để xác định quyền sở hữu ngôi nhà thuộc về những ai? Theo tình tiết vụ án, ngôi nhà số 11 là tài sản trước hôn nhân do chị Hương và anh Giang góp tiền mua (nhà mua từ cuối năm 1998, tháng 1/1999 chị Hương mới kết hôn với anh Giang). Khi mua ngôi nhà trên, xác định chị Hương và anh Giang cùng góp tiền mua, và cùng đứng tên trong giấy tờ sở hữu ngôi nhà trong suốt thời kỳ hôn nhân mà không xác định phần quyền của bố mẹ anh Giang. Có thể khi đó, bố mẹ anh Giang cho anh Giang tiền để mua nhà thì xác định đó là tài sản của anh Giang cùng góp vào với chị Hương, nếu anh Giang được bố mẹ cho vay tiền để mua nhà thì đó là số nợ riêng của anh Giang. Mọi giao dịch liên quan đến ngôi nhà đều đứng tên của chị Hương và anh Giang, khi chưa phát sinh tranh chấp hai bên đều không xác định rõ phần quyền của bố mẹ anh Giang trong ngôi nhà đó, bố mẹ anh Giang chỉ sống cùng trong ngôi nhà đó với vợ chồng anh Giang. Khi có yêu cầu ly hôn thì họ lại ra sức chứng minh phần quyền của mình trong khối tài sản đó có thể nhằm chia nhỏ khối tài sản, và phần quyền của chị Hương cũng được thu hẹp hơn. Do đó, cần phải xác định ngôi nhà số ngôi nhà 4 tầng, trên diện tích 87m2 ở số 11, ngõ 46, phố Quan Nhân, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy là tài sản chung của vợ chồng Hương Giang.
- Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước
Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết nhưng nguyên tắc “chia đôi” tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết là phù hợp. Vì trước đây, Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi”; và theo điểm a khoản 2 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi” (khi vợ chồng ly hôn). Tuy nhiên, để có quan điểm chung, thống nhất khi áp dụng cần phải bổ sung nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết vào Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của người chồng hoặc người vợ còn sống khi vợ, chồng chết trước, cũng như quyền lợi của các con, khoản 3 Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn dự liệu trường hợp hạn chế quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của những người thừa kế và được cụ thể hóa tại Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP và tại điểm a mục 4 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP cũng quy định: việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình là trong trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu đem di sản này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...
Đây là một trong những quy định mới, tiến bộ của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 bảo vệ được quyền lợi đúng đắn quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản chung.
Trường hợp người vợ, chồng chết mà không có yêu cầu của những người thừa kế chia di sản ngay thì người chồng hoặc người vợ còn sống quản lý tài sản chung của vợ, chồng; trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận để người khác quản lý di sản.
Đối với trường hợp vợ, chồng đã bị tòa án tuyên bố là đã chết, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, sau một thời gian người vợ, chồng đã bị Tòa án tuyên bố chết nay lại trở về. Vậy những tài sản do người chồng vợ kia tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của người chồng, vợ kia tạo ra trong khoảng thời gian từ khi phán quyết của tòa án có hiệu lực pháp luật, cho đến khi người vợ, chồng đó trở về thì những tài sản đó sẽ thuộc khối tài sản chung của vợ chồng? Vấn đề này cần thiết phải được Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 dự liệu nhằm tạo căn cứ pháp lý thống nhất khi áp dụng.
Như vậy, pháp luật hiện hành ở Việt Nam hiện nay đã dự liệu khá cụ thể, quyền sở hữu về tài sản của vợ chồng đối với khối tài sản chung góp phần bảo vệ được lợi ích đúng đắn của vợ chồng đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định còn mang tính khái quát dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, nên việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần phải có sự bổ sung hoàn thiện kịp thời các quy định của pháp luật đáp ứng được nhu cầu của thực tế.
2.1.4. Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng
Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng (còn gọi là nợ chung) có thể được hiểu là nghĩa vụ phát sinh khi một hoặc cả hai bên vợ chồng thực hiện hành vi vì lợi ích gia đình hoặc nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận của vợ chồng.
Để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của vợ chồng, các thành viên khác trong gia đình, bảo đảm nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ, chồng, nghĩa vụ nuôi dưỡng giáo dục con cái... thì vợ chồng cần phải tạo lập khối tài sản chung. Nhiều khi tài sản chung của vợ chồng không đủ đáp ứng nhu cầu của gia đình, vợ chồng đã phải vay mượn tiền bạc, tài sản của người khác. Đó chính là những khoản nợ mà vợ chồng phải có nghĩa vụ thanh toán, trả cho người chủ nợ Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình 2000: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Đây là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khi dự liệu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung của vợ chồng, khi đó tài sản chung của vợ chồng phải được đảm bảo cho các món nợ đó vì: Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng (khoản 2 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình 2000).
Như vậy, nếu một bên vợ, chồng vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì món nợ đó được bảo đảm thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng, nghĩa là cả hai vợ chồng đều có nghĩa vụ trả nợ khoản nợ đó.
Ví dụ: A, B kết hôn năm 2000 và có một con chung là C. Năm 2003, A đi xuất khẩu lao động tại Malayxia, B ở nhà nuôi con nhỏ. Năm 2004, C phải nhập viện để phẫu thuật tim bẩm sinh. Tài sản chung của gia đình không đáp ứng đủ nhu cầu, B đã phải vay thêm 50 triệu đồng để chữa bệnh cho con. Như vậy, 50 triệu đồng mà B vay là nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình nên được xác định là khoản nợ chung của vợ chồng và vợ chồng A, B phải liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó.
Mặt khác, khoản 5 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng.
Quy định này đã gắn kết trách nhiệm của gia đình đối với các khoản nợ phát sinh trong quá trình khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của một bên. Do đó, cần xác định chúng là khoản nợ chung của gia đình, xác định như vậy mới bảo đảm được lợi ích chính đáng của người có tài sản riêng, khuyến khích họ tạo ra nhiều của cải, vật chất hơn nữa cho gia đình. Đồng thời tăng cường sự gắn bó trong quan hệ gia đình, để gia đình thực sự là chỗ dựa vững chắc cho các thành viên của mình.
Theo quy định khoản 3 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 2000: Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ những phân tích trên có thể rút ra những khoản nợ chung của vợ chồng phải được thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng gồm: nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; nợ liên quan đến việc tạo lập, sử dụng khối tài sản chung; nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung, mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình; nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai vợ chồng cùng thực hiện; nợ theo thỏa thuận của hai vợ chồng.
2.2. Quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng
2.2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ chồng
Kế thừa và phát triển Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 1986, Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
Thời điểm tài sản phát sinh trước khi kết hôn, sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản và sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là căn cứ xác định tài sản riêng của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật, tài sản riêng của vợ chồng bao gồm:
- Tài sản mà vợ, chồng có từ trước khi hôn nhân
Trước khi kết hôn: là thời điểm chưa phát sinh quan hệ vợ chồng của hai bên nam nữ, giữa họ chưa có mối quan hệ về tài sản. Do đó, họ có toàn quyền sở hữu khối tài sản mà họ có được do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc được tặng cho, thừa kế (đó là quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 58 Hiến pháp 1992)
Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm những tài sản vợ chồng có từ trước khi kết hôn là một trong những quy định được pháp luật hôn nhân và gia đình nhiều nước trên thế giới ghi nhận (Pháp, Thái Lan, Nhật Bản...). Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có quy định như vậy là phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần bảo vệ quyền sở hữu cá nhân của vợ, chồng, là căn cứ vững chắc bảo vệ khối tài sản riêng của vợ chồng khi có tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng trong thực tế.
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
Nhằm đảm bảo ý chí tự định đoạt của người tặng cho tài sản và người để lại di sản thừa kế, đồng thời cũng bảo đảm quyền của người được tặng cho, người thừa kế có quyền sở hữu hợp pháp đối với những tài sản được thừa kế, được tặng cho được quy định tại BLDS năm 2005, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ghi nhận: Vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng. Trong thực tế, khi hôn nhân còn tồn tại vợ, chồng có thể được người thân, bạn bè tặng cho, để lại thừa kế tài sản cho mỗi bên vợ, chồng.
Ví dụ: Cha mẹ tặng quà riêng con trong ngày cưới, cha mẹ để lại di chúc chỉ định cho con trai hoặc con gái mình hưởng khối di sản đó. Hoặc có trường hợp chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ chồng khối tài sản nào đó nhưng xác định rõ tỷ lệ giá trị tài sản từ trước cho mỗi bên vợ chồng được hưởng thì về nguyên tắc tỷ lệ tài sản mà mỗi bên được hưởng đó thuộc quyền sở hữu riêng, là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
- Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân
Theo từ điển tiếng Việt: đồ dùng là vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, trong hoạt động hàng ngày; tư trang là các thứ quý giá đi theo người của một cá nhân. Đó là những đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, nhu cầu hoạt động hàng ngày của một cá nhân, đó có thể là tài sản có giá trị nhỏ hoặc giá trị lớn đối với khối tài sản chung vợ chồng.
Theo Luật hôn nhân và gia đình 2000, đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ chồng- đây là một quy định mới. Việc quy định như vậy là cần thiết đảm bảo quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ chồng.
Tuy nhiên, pháp luật không có hướng dẫn cụ thể nên hiện nay liên quan đến việc xác định đồ dùng tư trang cá nhân có phải là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng còn xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau:
+ Quan điểm thứ nhất: tất cả đồ dùng tư trang của vợ chồng đều là tài sản riêng của vợ chồng.
+ Quan điểm thứ hai: hoặc đồ dùng tư trang cá nhân mà vợ chồng có được từ tài sản riêng của vợ chồng mới thuộc tài sản riêng của vợ chồng [22, tr55].
Song nếu hiểu theo hai cách trên thì hoặc là đã tuyệt đối hóa quyền sở hữu của vợ chồng mà đã quên mất lợi ích chung của gia đình và mục đích sử dụng của các tài sản đó hoặc không phù hợp với thực tế cuộc sống chung vợ chồng: đời sống gia đình ngày càng được nâng cao, đồ dùng tư trang cá nhân trở nên đa dạng, phong phú về hình thức và giá trị; nhu cầu chuyển những thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc những thu nhập hợp pháp khác thành đồ dùng tư trang cá nhân để sử dụng hoặc coi đó là tài sản tích lũy cho cá nhân, gia đình càng trở nên phổ biến. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, đồ dùng tư trang cá nhân thường có giá trị rất lớn nếu xác định đó là tài sản riêng của vợ chồng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình cũng như lợi ích của vợ chồng, của người có đồ dùng tư trang cá nhân đó.
Vì vậy, cần phải xác định thế nào để bả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề về pháp luật điều chỉnh quyền sở hữu tài sản của vợ chồng ở Việt Nam hiện nay.doc