MỤC LỤC
Chương I Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt 1
1.Sơ lược về nguồn gốc và sự phát triển của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt 1
1.1. Sự cần thiết và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt 2
1.1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt 3
1.1.3. Các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay. 5
1.2. Quy định về việc mở tài khoản thanh toán. 5
1.3. Khái quát nội dung các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay. 6
1.3.1. Hình thức thanh toán bằng séc 7
1.3.2. Séc chuyển khoản 9
1.3.3. Thanh toán bằng séc bảo chi 10
1.3.4.Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT) 14
1.3.5.Thanh toán uỷ nhiệm chi- séc chuyển khoản 16
1.3.6. Thanh toán bằng thư tín dụng 19
1.3.7. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán 21
1.3.8. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán 21
Chương II Thực trạng vận dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội. 24
2- Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội. 24
2.1.1-Môi trường hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội. 24
2.1.2- Sự ra đời và cơ cấu tổ chức: 25
2.2.Thực trạng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 28
2.2.1.Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 28
2.2.2.Tình hình sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại 2.2.3. Đối với hình thức thanh toán séc: 36
Chương III Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện và mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 47
3. Một số kiến nghị cụ thể về các hình thức TT không dùng tiền mặt 47
3.1 Kiến nghị về séc 47
3.2. Về séc chuyển khoản 51
3.3. Kiến nghị về thẻ thanh toán ở chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 52
3.4. Một số kiến nghị khác 54
Kết luận 55
Tài liệu tham khảo Error! Bookmark not defined.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện và mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hoạt động tín dụng thì công tác thanh toán tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội ngày càng được mở rộng, việc thanh toán không ngừng lại ở trên địa bàn mà mở rộng thanh toán ra toàn quốc.
Trong thời gian qua việc thanh toán giữa khách hàng với Ngân hàng và giữa các Ngân hàng với nhau doanh số tăng lên rõ rệt, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt. Điều đó được thể hiện qua bảng 2.
" Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội năm 2000- tháng 3 năm 2001".
Bảng 2: Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Đơn vị: tỷ đồng.
Chỉ tiêu
Tổng doanh số thanh toán (1)
Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt (2)
Tỷ lệ (2) so với (1)
Năm 2000
Quý I- 2000
854.973
749.657
87%
Quý II- 2000
947.411
840.567
88%
Quý III- 2000
852.992
726.240
85%
Quý IV- 2000
959.215
806.605
84%
Năm 2001
Quý I- 2001
897.932
835.995
93%
* Qua bảng số liệu về cơ cấu thanh toán ta thấy:
- Tổng doanh số thanh toán và thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội ngày càng cao, năm sau cao hơn năm trước.
- Nhìn chung năm 2000 và tháng 3 đầu năm 2001 doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đều chiếm tỷ trọng cao trên 84% tổng doanh số thanh toán. Năm 2000 doanh số thanh toán không dùng tiền mặt cao nhất là 840.567 triệu đồng, chiếm 88% tổng doanh số thanh toán.
Năm 2001 doanh số thanh toán không dùng tiền mặt quý I là 835.995 triệu đồng, chiếm 93% tổng doanh số thanh toán. Qua đây ta thấy một vấn đề là khách hàng đến thanh toán, giao dịch tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội ngày càng nhiều. Ngân hàng đã tích cực trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch làm cho hoạt động thanh toán tăng lên cả về quy mô lẫn khối lượng.
- Năm 2000 thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh quý II cao nhất so với quý chiếm 88% tổng doanh số thanh toán và quý IV chiếm 84%, thấp hơn so với các quý nhưng vẫn cao so với tổng doanh số thanh toán chung. Vì vào cuối năm các đơn vị thường phát sinh nhu cầu rút tiền mặt về chi các khoản như lương, thưởng... cho cán bộ công nhân viên ăn tết.
- Năm 2001 trong quý I đầu năm doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng doanh số thanh toán chung93%.
Điều này cho thấy, thanh toán không dùng tiền mặt đã thực sự chiếm ưu thế trong thanh toán tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Sự tăng lên rất lớn về doanh số thanh toán không dùng tiền mặt có nhiều nguyên nhân. Một phần do 2 năm qua tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn có nhiều thuận loựi, các doanh nghiệp tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh. Cũng vì thế mà nhu cầu về thanh toán mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cũng tăng lên. Đây là nguyên nhân khách quan đem lại một phần thành công của Ngân hàng. Song một lý do chính là Ngân hàng chủ động cải tiến công tác thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng, an toàn và thuận tiện nên đã tạo được uy tín đối với khách hàng. Chính vì lẽ đó mà trong hai năm qua đã thu hút được một số doanh nghiệp lớn đến mở tài khoản và giao dịch tại Ngân hàng. Đây là nguyên nhân chính nâng cao doanh số thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng.
Có được kết quả này cũng là do một phần ngân hàng mua sắm trang thiết bị công nghệ ngân hàng, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Việc nối mạng thanh toán với các Chi nhánh Ngân hàngtrong toàn quốc qua MODEM truyền tin đã tạo điều kiện cho Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội sử lý nhanh các món chuyển tiền trong hệ thống. Mặt khác, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội luôn chuẩn bị đầy đủ kịp thời vốn trong thanh toán, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của khách hàng. Đây cũng là nhân tố gây nên niềm tin với khách hàng của Chi nhánh, giúp thanh toán không dùng tiền mặt phát huy vai trồ trong nền kinh tế.
2.2.2.Tình hình sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
- Hiện nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đang áp dụng rộng rãi cả 6 hình thức thanh toán không dùng tiền mặt do Ngân hàng Nhà nước quy định đó là:
+ Thanh toán bằng séc.
+ Thanh toán uỷ nhiệm chi- chuyển tiền.
+ Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu.
+ Thanh toán bằng thư tín dụng.
+ Thanh toán bằng ngân phiếu.
+ Thanh toán bằng thẻ.
Mỗi hình thức thanh toán đều có những ưu, nhược điểm tuỳ điều kiện sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, tuỳ vào uy tín cũng như hợp đồng kinh tế ký kết mà khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán.
Đối với khách hàng mà chưa hiểu biết về các hình thức cũng như thủ tục thanh toán, các thanh toán viên luôn sẵn sàng tư vấn, giải đáp các thác mắc của khách hàng để khách hàng có thể lựa chọn hình thức thanh toán có hiệu quả nhất ( nhanh chóng, an toàn, phí rẻ...)
Để có cái nhìn sơ lược về tình hình thanh toán không dùng tiền mặt chung Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội chúng ta xem xét các bảng số liệu sau:
Bảng 3: Số món các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
Năm 1999- 2000 và quý I năm 2001"
Đơn vị: triệu đồng
Các hình thức
1999
2000
Quý I- 2000
Số món
tỷ trọng %
Số món
Tỷ trọng
%
Số món
Tỷ trọng
%
1.Các loại séc
4720
21,36
6140
21,11
1640
14,26
-séc chuyển khoản
2543
11,5
3434
11,81
924
-séc bảo chi
2177
9,86
2706
9,3
176
-séc định mức
0
0
0
0
0
2.Uỷ nhiệm chi
9072
41,06
13469
46,33
7082
61,46
3.Uỷ nhiệm thu
2546
11,6
4496
15,46
1577
13,68
4.Thư tín dụng
1272
5,75
1583
5,44
402
3,48
5.ngân phiếu thanh toán
3869
17,52
3024
10,4
736
6,39
6.Thẻ thanh toán.
598
2,7
364
1,26
86
0,75
Tổng
22095
100
29076
100
11523
100
Bảng 4: Doanh số các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
năm 1999- 2000 và quý I năm 2001.
Đơn vị: triệu đồng.
Các hình thức
1999
2000
Quý I-2001
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
1.Các loại séc
180401
7,57
279860
10,37
110842
13,05
-Séc chuyển khoản
84368
3,54
145244
5,38
64052
7,55
-Séc bảo chi
96032
4,03
134616
4,99
46790
5,5
- Séc định mức
0
0
0
0
0
0
2.Uỷ nhiệm chi
829338
34,8
1038989
38,52
386856
45,55
3.Uỷ nhiệm thu
8017
0,33
1160
0,04
306
0.03
4.Thư tín dụng
835023
35,07
946430
35,09
240608
28,33
5.Ngân phiếu thanh
toán
525984
22,09
428908
15,9
110270
12,98
6.Thẻ thanh toán
2014
0,88
1352
0,05
353
0,04
Tổng
2380777
100
269699
100
849235
100
* Về số món thanh toán: Ta thấy uỷ nhiệm chi- chuyển tiền có tỷ trọng về số món thanh toán nhiều nhất, tiếp đến là các loại séc, sau đó đến uỷ nhiệm thu, ngân phiếu thanh toán, thư tín dụng và cuối cùng là thẻ thanh toán.
- Xét sự biến động về số món thanh toán: Nhìn vào bảng số liệu về số món thanh toán ta thấy sự biến động từ năm 1999 đến năm 2000 và quý I năm 2001 séc và uỷ nhiệm thu có số món giảm rõ rệt. Ngược lại uỷ nhiệm chi- chuyển tiền chiếm ưu thế tuyệt đối. Năm 1999 với 9072 món giao dịch, chiếm 41,06%/ tổng số món thanh toán. Sang năm 2000 tỷ trọng lại tiếp tục tăng lên 46,33% và đầu năm 2001 lên tới 61,4% số món. Cụ thể:
+ Doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi- chuyển tiền cũng tăng lên. Việc uỷ nhiệm chi- chuyển tiền chiếm tỷ trọng lớn về cả số món lẫn doanh số giao dịch là do hình thức này sử dụng khá đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng đối với bên mua hàng.
+ Về thanh toán séc: Mặc dù chiếm tỷ trọng khá nhỏ về số món giao dịch nhưng doanh số thanh toán lại chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2000 số món giao dịch thanh toán bằng séc chiếm tỷ trọng 21,11%, giảm 0,25% so với năm 1999. Nhưng tỷ trọng doanh số lại đang có xu hướng tăng từ 180401 triệu đồng lên 279860 triệu đồng. Điều này cho thấy rằng giá trị thanh toán của mỗi tờ séc đang tăng lên và khách hàng đang dần sử dụng các tờ séc có giá trị lớn cho thanh toán hàng hoá và dịch vụ.
+ Trái ngược với séc- thư tín dụng ( L/ C ) mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏvề số giao dịch thanh toán nhưng doanh số thanh toán bằng thư tín dụng lại chiếm tỷ trọng rất lớn. Năm 1999 tỷ trọng số món thanh toán bằng thư tín dụng ( L/ C ) lại chiếm tỷ trọng 5,75%, nhưng doanh số thanh toán lại chiếm 35,07% tổng doanh số thanh toán.
Năm 2000 và quý I năm 2001 mặc dù tỷ trọng có xu hướng giảm, nhưng xét doanh số thanh toán thực tế ta thấy vẫn tăng lên đôi chút, thực tế là năm 1999 doanh số bằng 946.430 triệu đồng, chiếm tỷ trọng35,09%/ tổng doanh số thanh toán. Riêng quý I năm 2001 doanh số đã đạt 240.608 triệu đồng, tăng 4001 triệu đống so với trung bình các quý năm 2000. Do thư tín dụng chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế với các hàng hoá có giá trị lớn nên ta có thể hiểu tại sao số món ít mà doanh số thanh toán lại lớn.
+ Về ngân phiếu thanh toán, do thủ tục thanh toán rất đơn giản, thuận tiện nên trong cả số món lẫn doanh số chiếm tỷ trọng không nhỏ.
Năm 1999 thanh toán bằng ngân phiếu diễn ra khá phổ biến, nhưng sang năm 2000 về cả tỷ trọng lẫn doanh số đang có xu hướng giảm mạnh. Tuy nhiên việc thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán giảm chính là một điều kiện thuận lợi cho các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác như séc, uỷ nhiệm chi- chuyển tiền,... phát triển.
+ Về uỷ nhiệm thu ( UNT ) chiếm tỷ trọng khá lớn về số món giao dịch, nhưng doanh số giao dịch lại chiếm tỷ trọng quá nhỏ. Hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu do tính bị động nên rất ít được các khchs hàngưa dùng để thanh toán và giao dịch những món hàng có giá trị cao. Thường tồn tại hiện nay ( UNT ) để thanh toán các món hàng, dịch vụ có số tiền nhỏ như tiền điện, tiền nước, tiền thuê nhà...
+ Xét về thẻ thanh toán:
Một phần là do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là đơn vị chấp nhận thẻ, phần là do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Âu nên cả về số món lẫn doanh số giao dịch dù là chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng vẫn đang có xu hướng giảm.
Qua 2 bảng số liệu về số món, doanh số thanh toán không dùng tiền mặt ta nhận thấy mâu thuẫn---thanh toán có số món lớn nhưng doanh số thanh toán lại nhỏ và ngược lại.
Để giải thích mâu thuẫn này ta đi tính chỉ tiêu doanh số thanh toán bình quân một món. Ta có công thức:
Doanh số thanh toán Tổng doanh số thanh toán
=
bình quân một món Tổng số món
Ta có bảng số liệu về doanh số thanh toán bình quân một món các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Bảng 5: Doanh số thanh toán bình quân một món của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt năm 1999- 2000 và quý I năm 2001.
Đơn vị: triệu đồng
Các hình thức
Doanh số thanh toán bình quân một món năm 1999
Doanh số thanh toán bình quân một món năm 2000
Doanh số thanh toán bình quân
một món quý
I- 2001
1. Séc
38,2
45,6
67,6
2. Uỷ nhiệm chi
91,4
77,1
67,6
3. Uỷ nhiệm thu
3,1
0,3
0,2
4. Thư tín dụng
656,5
597,9
598,5
5.Ngân phiếu thanh toán
135,9
141,8
149,8
6. Thể thanh toán
3,4
3,7
4,1
- Từ bảng 5 nhìn chung doanh số thanh toán bình quân một món của tất cả các hình thức đều tăng lên qua các năm trừ uỷ nhiệm thucó giảm một chút. Nguyên nhân chính là do tình hình kinh tế- chính trị- xã hội trên địa bàn Hà Nộ rất ổn định, thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, từ đó kéo theo nhu cầu mua bán hàng hoá nguyên vật liệu cũng tăng lên. Một nguyên nhân nữa là do trong thời gian qua có một số doanh nghiệp mới được thành lập.
Trên điạ bàn thành phố đến mở tài khoản và giao dịch tại ngân hàng . Doanh số thanh toán của một số doanh nghiệp này khá lớn đã kéo theo tổng doanh số thanh toán và doanh số thanh toán bình quân một món tăng lên.
2.2.3. Đối với hình thức thanh toán séc:
Thực tế nghiên cứu hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội trong năm 1999-2000 và quí I năm 2001, hình thức thanh toán bằng séc chiếm ttỷ trọng lớn. Về số món thanh toán đứng thứ hai nhưng doanh số thanh toán lại đứng thứ 4 trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Bảng 6: Tình hình thanh toán séc năm 1999-2000
Đơn vị: triệu đồng
Các hình thức
1999
2000
Số món
doanh số
Số món
doanh số
Các loại séc
- Séc chuyển khoản
Séc bảo chi
Séc định mức
4.720
2.543
2.177
0
180.401
84.368
96.032
0
6.140
3.434
2.706
0
279.860
145.244
134.616
0
2. Thanh toán không dùng tiền mặt chung.
22.095
2.380.777
29076
2.696.699
- Nhìn bảng số liệu ta nhận thấy sự gia tăng trong việc sử dụng các hình thức thanh toán séc cả về số món lẫn doanh số.Còn so với doanh số thanh toán không dùng tiền mặt chung của toàn Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thì năm 2000 cũng tăng lên 10,37% so với 7,57% năm 1999.
Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội tiến hành áp dụng tất cả các hình thức thanh toán séc từ khi nghị định 30/CP của chính phủ ban hành, nhưng do điều kiện của ngân hàng cũng như nhu cầu thanh toán của khách hàng, hiện ngân hàng chủ yếu áp dụng 2 loại séc là: Séc chuyển khoản và séc bảo chi. Còn séc định mức không được khách hàng ưa chuộng, là vì séc séc này có nhược điểm lớn là phát hành vẫn có thể xảy ra trường hợp quá số dư nên độ bảo đảm kém, mặc dù cũng được bảo chi như séc bảo chi. Khách hàng khi sử dụng séc định mức phải lưu ký số tiền rất lớn của cả quyển séc mà không được hưởng lãi. Mặt khác mỗi quyển séc gồm 10 tờ mà thời gian hiệu lực của cả quyển là 30 ngày nên việc sử dụng hết cả quyển là rất ít xảy ra. Vì vậy, séc định mức không được ưa dùng.
* Năm 2000- Qúi I/2001, thanh toán séc bảo chi về só món, doanh số thanh toán nhỏ hơn so với séc chuyển khoản, nhưng về doanh số thanh toán bình quân một món lại lớn hơn so với séc chuyển khoản 24,5 triệu đồng so với 219,7 triệu đồng của séc bảo chi. Nó phản ánh một khoản thanh toán doanh số lớn , người bán thường yêu cầu người mua bảo chi tờ séc để tránh rủi ro. Trong khi đó đối với các doanh nghiệp lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội thì họ có quan hệ giao dịch với các bạn hàng ở khắp nơi trên đất nước và bạn hàng của họ là các doanh nghiệp lớn cho nên khách hàng này thường mở tài khoản giao dịch. Do đó có thể trong quan hệ mua bán, họ thường phải giao dịch với bạn hàng có tài khoản ở khác địa bàn, khác hệ thống nên điều tất nhiên trong trường hợp này là họ sẽ chọn uỷ nhiệm chi. Đây là nguyên nhân khách quan giải thích tại sao uỷ nhiệm chi lại có doanh số thanh toán bình quân một món lớn hơn séc chuyển khoản.
- Thanh toán bằng séc bảo chi có ưu điểm là đối với người thụ hưởng séc có thể được ghi có ngay sau khi nộp séc vào ngân hàng, còn đối với người chi trả không xảy ra tình trạng phát hành quá số dư.
- Nhược điểm: đối với những người phát hành phải làm thủ tục xin bảo chi, đồng thời phải lưu ký vào tài khoản riêng một số tiền tương đương với số tiền phát hành séc mà không được hưởng lãi.
Người mua hàng vì lý do nào đó chưa sử dụng đến tờ séc thì bị ứ đọng vốn.
Với hạn chế như vậy người mua chỉ có nhu cầu sử dụng séc bảo chi khi cần hoặc khi người bán yêu cầu.
Tuy hình thức thanh toán bằng séc bảo chi vẫn còn tồn tại nhất đinhj, song về cơ bản, séc bảo chi là hình thức thanh toán có ưu điểm từ lâu tới giờ nên ngày càng được ưa dụng của khách hàng.
*Séc chuyển khoản: Thanh toán bằng séc chuyển khoản cả về số món lẫn doanh số thanh toán tăng qua các quí. Tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, séc chuyển khoản được thanh toán chủ yếu qua phương thức thanh toán chuyển khoản nội bộ ngân hàng (Tức liên hàng cùng hệ thống) rồi qua trung tâm bù trừ- ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, có nhiều chi nhánh ngân hàng trong và ngoài nước hoạt động thanh toán diễn ra rất mạnh, cho nên, lượng séc chuyển khoản được thanh toán qua bù trừ chiếm tỷ trọng rất lớn.
Séc chuyển khoản có ưu điểm:
+ Thanh toán đơn giản, người phát hành séc chỉ cần ghi đầy đủ các yếu tố trên tờ séc và giao trực tiếp cho khách hàng (người thụ hưởng) mà không cần phải đến ngân hàng làm thủ tục thanh toán cho khách hàng như séc bảo chi,uỷ nhiệm chi, thư tín dụng: Nó tránh được sự phiền hà cho người phát hành do đó nó rất được bên mua ưa dùng.
Séc chuyển khoản được thanh toán theo nguyên tắc ghi nợ trước và có sau, điều này sẽ rất thuận tiện khi khách hàng có cùng tài khoản tại một ngân hàng
+ Trường hợp hai bên Mua và Bán có mở tài khoản ở hai Chi nhánh ngân hàng khác nhau tham gia thanh toán bù trừ thì khi ( Ghi có ) cho người thụ hưởng phải mất từ một đến hai ngày ( Sếc hợp lệ). Cồn nếu không hợp lệ như: quá số dư...thì dẫn đến quá trình thanh toán bị chậm trễ và người thụ hưởng séc đã bị chiếm dụng vốn.
Chính vì lẽ đó mà người bán cũng không thích nhận séc chuyển khoản nếu quan hệ mua bán chưa có sự tín nhiệm lẫn nhau séc chuyển khoản chủ yếu được vận dụng thanh toán giữa các khách hàng có sự tín nhiệm lẫn nhau,hoặc có cùng mở tài khoản tại một ngân hàng và số tền thanh toán của mỗi tờ séc là không quá lớn. Do vậy, đây là hạn chế của séc chuyển khoản .
Trung bình một món thanh toán của séc chuyển khoản tại ngân hàng Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là 42,2 triệu đồng .Đây là thông số tương đối cao, mặc dù có những hạn chế,song thanh toán bắngéc chuyển khoản vẫn tăng đều.
*Hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi –chuyển tiền từ bảng số liệu 7 cho thấy uỷ nhiệm chi –chuyển tiền (UNC-CT) Tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội được áp dụng phổ biến nhất, với doanh số thanh toán lớn nhất- chiếm 38,5% trên tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
So với năm 1999, doanh số năm 2000 thanh toán bằng UNC-CT tăng 4,0% còn về số món tăng 5,3%.
Để xem xét sự biến động tăng lên của UNC-CT ta xem bảng 7.
Ta thấy số món và doanh số thanh toán bằng UNC-CT qua các quúi năm 2000 và quí I năm 2001 tăng đều, nó phản ánh công tác thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền được khách hàng ưa chuộng. Nguyên nhân chính là do hình thức này đơn giản, thuận tiện, ít xảy ra sai sót. Sử dụng hình thức này, người mua chỉ cần viết lồng 3 liên giấy uỷ nhiệm chi - chuyển tiền gửi đến ngân hàng phuch vụ mình yêu cầu trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng không cần đến ngân hàng làm thủ tục như đối với các hình thức khác. Ngay khi nhận được giấy báo có từ ngân hàng phục vụ người thụ hưởng, ngân hàng sẽ có trách nhiệm ghi có ngay vào tài khoản của người thụ hưởng.
Do vậy thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền thuận tiện cho cả người mua và năời bán. Ngoài ra hiện nay, việc thanh toán bằng liên hàng điện tử và thanh toán bù trừ trên địa bàn Hà Nội rất nhanh gọn, kịp thời, do đó, việc thực hiện thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được thực hiện nhanh chóng từ 1 đến 2 ngày, thậm chí sau mấy tiếng đồng hồ.
Bên cạnh các ưu điểm trên, uỷ nhiệm chi - chuyển tiền còn tồn tại một số nhược điểm sau:
+ Việc trả tiền cho người bán hàng là do thiện chí của người mua, vì khi nhận được hàng của người bán hàng thì người mua mới tiến hành lập Uỷ nhiệm chi. người bán sẽ không thu hồi được tiền hàng ngay và có thể bị mất, từ đó gây ảnh hưởng cho việc sản xuất kinh doanh vì vậy, uỷ nhiệm chi thường được áp dụng trong thanh toán đối với các bên mua và bán có độ tin cậy lẫn nhau.
- Uỷ nhiệm thu :
+ Qua bảng số liệu III và IV các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, ta thấy hình thức uỷ nhiệm thu không được sử dụng phổ biến cho các món thanh toán có doanh số lớn, cụ thể năm 1999 thực hiện thanh toán với 2.564 món mà doanh số chỉ đạt 8017 triệu đồng, chiếm tỷ trọng chỉ 0,3% và sang năm 2000, doanh số thanh toán giảm xuống với tỷ trọng là 0,021%
+ Uỷ nhiệm thu chỉ áp dụng thanh toán các món có giá trị nhỏ như tiền thuê nhà, điện, nước...
Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu không được ưa dùng là do hình thức này người thụ hưởng chịu rất nhiều rủi ro, chậm trả trong thanh toán và thậm chí bị không trả. Vì vậy ủy nhiệm thu không được sử dụng thanh toán các khoản có giá trị lớn mà chủ yếu các khoản có giá trị nhỏ.
Thư tín dụng L/C
Tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội hình thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) được áp dụng thanh toán không phải là thanh toán trong nước.
Điều này là do thủ tục phát hành thanh toán rắc rối rườm rà nên không được khách hàng lựa chon thanh toán trong nước. Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế thanh toán bằng thư tín dụng lại là hình thức thanh toán chiếm ưu thế rất phù hợp với cả hai bên mua và bán vì nó đảm bảo cho cả hai bên mua bán nhận được tiền thanh toán khi xuâts hàng bên mua khi nhận hàng mới tiến hành thanh toán.
Năm 1999 tổng doanh số thanh toán bằng thư tín dụng là 385023 triệu đồng. Trung bình mỗi món khoảng 656 triệu đồng. Năm 2000 doanh số thanh toấn tăng lên 946430 triệu đồng nhưng doang số bình quân mỗi món giảm xuống chỉ còn 597 triệu đồng. Năm 2000 doanh số thanh toán có sự giảm sút. Vậy điều nay do đâu? Đây chính là do cuộc khủng hoảng xảy ra nủa cuối năm 1999 của một số nước châu á như Indonexia làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu làm ăn khó khăn do phía đối tác nước ngoài cắt giảm doanh số mua bán. Mặt khác tỉ giá biến động quá nhanh làm cho hoạt động dè dặt cầm chừng tránh rủi ro trong mua bán ngoại tệ, điều đó làm cho ngánh ngân hàng giảm sút doanh số thanh toán năm 2000 với sự phục hồi nền kinh tế của các nước châu á đã làm cho công tác thanh toán L/C có dấu hiệu tăng trở lại. Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã triển khai ứng dụng thanh toán L/C qua mạng SWIFT, đẩy nhanh tỗc độ thanh toán tạo uy tín, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đồng thời ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội còn có những chính sách thích hợp trong việc ký qũy chiết khấu, lệ phí mở và thanh toán L/C tạo điều kiện cho thanh toán L/C ngày càng mở rộng góp phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngân phiếu thanh toán (NPTT)
Ngân phiếu thanh toán đi vào lưu thông đã giải quyết đựoc một phần thiếu tiền mặt và đặc biệt là khắc phục được một phần khó khăn trong thanh toán.
Ngân phiếu thanh toán đáp ứng được nhu cầu của bên mua và bán đạt được mục đích của mình một cách nhanh chóng. Đặc biệt là nó bảo vệ quyền lợi cho người bán, người bán khi nhận được ngân phiếu thanh toán thì coi như nhận được tiền mặt. Vì khi họ nộp ngân phiếu vào ngân hàng thì ngân hàng lập tức ghi có ngay vào tài khoản mà không phải đợi đến ngày thứ hai.
Qua thực tế ngân phiếu thanh toán chứng tỏ những ưu thế về tính thuận tiện, đơn giản, ...
Nhưng ngân phiếu thanh toán thực chất là đồng tiền mệnh giá cao, Lưu thông có thời gian xác định do đó chứa đựng nhiều rủi ro và chi phí cao, đòng thời cũng rất bị làm giả. Mặt khác khi phiếu thanh toán đòi hỏi phải in giấy đặc biệt như giầy tiền mặt do đó chi phí cũng cao trong khi tiền mặt thì có thể lưu thông đén rách nát còn ngân phiếu thanh toán chỉ được lưu thông trong thời gian nhất định là 6 tháng.
Tại chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội năm 1999 doanh số thanh toán là 525984 triệu đồng chiếm 22,09% trên tổng doanh số thanh toán, song sang năm 2000 doanh số thanh toán là 428908 chỉ chiếm 15,90% ta thấy danh số thanh toán bàng ngân phiếu rất lớn chỉ đứng sau doanh số thanh toán của uỷ nhiệm chi trong các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Nhưng dù sao hình thức thanh toán này cũng góp phần làm tăng tỉ trọng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt đồng thời cũng làm giảm nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt.
Thẻ thanh toán.
Thực tiễn vận dụng hình thức này trên thế giới đã khẳng định tính ưu việt của nó nhưng ở Việt Nam do cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên hình thức này vẫn đang nằm dưới dạng tiềm năng mà chưa đưa vào sử dụng phổ biến. Một mặt là do thu nhập người dân còn thấp, mặt khác vốn đầu tư cho cơ sở vật chất thẻ thanh toán còn nhiều hạn chế. Hiện nay chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội tiến hành cả bốn loại thẻ quốc tế là: VISACARD, MASTERCARD, JCBCARD, AMEXCARD. Nhưng chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội mới chỉ dừng lại là một cơ sở chấp nhận thẻ thanh toán điều này chỉ chửng tỏ công tác thẻ ở ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội còn yếu kém, chưa phát triển tương xứng với một hình thức thanh toán hiện đại.
Thực tế cho thấy, thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh ngân hàng Hà Nội đã có nhiều chuyển biến tích cực đó là thanh toán đảm bảo an toàn, thuận tiện và tiết kiệm thời gian tối đa cho khách hàng.
Chương III
Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện và
mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
3. Một số kiến nghị cụ thể về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, kết hợp với những kiến thức đã học, tích luỹ tại trường tôi nhận thấy với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và nghiệp vụ thanh toán còn nhiều tồn tại cần khắc phục và hoàn thiện thêm, với thời gian hạn hẹp, chưa có điều kiện nghiên cứu rộng rãi, phạm vi ở đây là quan sát từ chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. Tôi nêu một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. Từ đó có thể góp phần vào công tác thanh toán chung trong ngành Ngân hàng.
3.1 Kiến nghị về séc
Séc là một hình thức thanh toán có nhiều ưu điểm nổi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28203.doc