Khóa luận Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 2

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2

4. Kết cấu của khoá luận 2

CHƯƠNG I 3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 3

1. Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân 3

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ quan đại diện 3

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ quan đại diện 8

2. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của HĐND xã trong lịch sử lập pháp ở nước ta 12

3. Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ. quyền hạn của HĐND xã theo quy định của pháp luật hiện hành 16

3.1. Vị trí, tính chất, chức năng của HĐND xã 16

3.2. Nhiệm vụ quyền hạn của HĐND xó 18

4. Mối quan hệ của HĐND xã với UBND xã và với tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ở địa phương 23

4.1. Quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã 23

4.2. Quan hệ giữa HĐND xó với Đảng uỷ xó 24

4.3. Quan hệ giữa HĐND xã với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận 25

CHƯƠNG II 27

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HĐND XÃ 27

1. Thực trạng của việc tổ chức và hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay 27

1.1. Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND xã 27

1.2. Hoạt động của kỳ họp của HĐND xã trong thời gian qua 30

1.3. Hoạt động của Thường trực HĐND xã 33

1.4. Hoạt động của đại biểu HĐND xã 34

2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay 36

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay 37

3.1. Nâng cao hiệu quả của các kỳ họp HĐND xã 38

3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND xã 40

3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại biểu HĐND xã 42

KẾT LUẬN 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO 49

 

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8283 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rình thuỷ lợi theo phân cấp của cấp trên; biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, bảo vệ rừng, tu bổ và bảo vệ đê điều ở địa phương; Quyết định biện pháp xây dựng, tu sửa đường giao thông, cầu, cống trong xã và các cơ sở hạ tầng khác ở địa phương; Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội và đời sống, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, bảo vệ tài nguyên môi trường, HĐND xã thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn sau đây: Quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học; tổ chức các trường mầm non, thực hiện bổ túc văn hoá và xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi; Quyết định biện pháp giáo dục và chăm sóc thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, ngăn chặn việc truyền bá văn hóa phẩm phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ tục, phòng, chống các tệ nạn xã hội ở địa phương; Quyết định biện pháp phát triển hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao; hướng dẫn tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của pháp luật; Quyết định việc xây dựng, tu sửa trường lớp, công trình văn hoá thuộc địa phương quản lý; Quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn vệ sinh, xử lý rác thải, phòng chống dịch bệnh, biện pháp bảo vệ môi trường trong phạm vi quản lý; biện pháp thực hiện chương trình y tế cơ sở, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; Quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh. bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước, thực hiện công tác cứu trợ xã hội và vận động nhân dân giúp đỡ gia đình khó khăn, người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; biện pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, HĐND xã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự; xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và quốc phòng toàn dân; thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; Quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự công cộng, an toàn xã hội; phòng, chống cháy, nổ; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, HĐND xã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự; xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và quốc phòng toàn dân; thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; Quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự công cộng, an toàn xã hội; phòng, chống cháy, nổ; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn. Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, HĐND xã có những nhiệm vụ quyền hạn sau đây: - Quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số; bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương; - Quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân địa phương theo quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, HĐND xã, thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương; Quyết định biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; Quyết định biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước; bảo hộ tài sản của cơ quan tổ chức, cá nhân ở địa phương; Quyết định biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật. Trong việc xây dựng chính quyền địa phương, HĐND xã thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu HĐND và chấp nhận việc đại biểu HĐND, xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật; - Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu; - Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp; - Thông qua đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới hành chính ở địa phương để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định. Đó là nhiệm vụ quyền hạn mà HĐND xã phải thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, còn đối với HĐND phường do thấy được những điểm khỏc nhau giữa chớnh quyền đụ thị và chớnh quyền nụng thụn nờn ngoài những nhiệm vụ quyền hạn trên còn thực hiện thêm một số nhiệm vụ sau: - Quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch đô thị; thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng; bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường; - Quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; biện pháp phòng, chống cháy, nổ, giữ gìn vệ sinh; bảo vệ môi trường, trật tự công cộng và cảnh quan đô thị trong phạm vi quản lý; - Quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân trên địa bàn phường. Như vậy, so với quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có một số điểm mới về nhiệm vụ quyền hạn như sau: - Đã có sự phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã với HĐND cấp trên và với HĐND phường. Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được quy định chung cho tất cả các cấp trong tất cả các lĩnh vực từ việc quyết định các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống, khoa học công nghệ và môi trường, quốc phòng, an ninh, chính sách dân tộc chính sách tôn giáo... . Đây là một sự quy định bất hợp lý. Bởi như ai cũng biết đặc trưng của các cấp đơn vị hành chính có những đặc điểm về kinh tế, xã hội, về địa lý, mật độ dân cư... khác nhau. Vì vậy, không nên quy định chung nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cũng đã có sự phân định so với nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND phường do thấy được sự khác nhau giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. - Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định rất rõ ràng, cụ thể dễ áp dụng và thực hiện và cũng từ đó mà dễ nhận thấy được những công việc mà HĐND đã đạt được cũng như những hạn chế của HĐND. - Một trong những thay đổi cơ bản của luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 là đã xác lập chế định bỏ phiếu tín nhiệm của HĐND đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu ra. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994. Việc quy định thẩm quyền bỏ phiếu tín nhiệm của HĐND một mặt nâng cao vị trí, vai trò hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, mặt khác đề cao hơn tính trách nhiệm của những người được HĐND bầu ra trong việc thực hiện các nhiệm vụ, thẩm quyền được giao. 4. Mối quan hệ của HĐND xã với UBND xã và với tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ở địa phương 4.1. Quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã Như chúng ta đã biết giữa HĐND và UBND xã ngay từ khi ra đời đã có một mối quan hệ rất khăng khít không thể tách rời. Không có HĐND thì UBND không thể hoàn thành được trọng trách của mình là quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội, vì HĐND là cơ quan vạch ra những mục tiêu, yêu cầu để UBND xã thực hiện. Ngược lại, nếu không có UBND xã thì nghị quyết của HĐND xã sẽ không bao giờ được đưa vào cuộc sống. Với địa vị pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND xã bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã; giám sát hoạt động của UBND xã; có quyền bãi bỏ những quyết định sai trái của UBND xã; yêu cầu UBND xã báo cáo về tình hình thi hành các nghị quyết của HĐND xã và thi hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Các đại biểu HĐND xã có quyền chất vấn Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã. Chủ tịch HĐND xã được mời tham dự các phiên họp hàng tháng của UBND xã. Chủ tịch HĐND xã được mời tham dự các phiên họp của UBND xã bàn việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế ngân sách và các nhiệm vụ khác có liên quan đến HĐND và các phiên họp tổng kết công tác chuyên môn thuộc UBND cùng cấp. UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND. Vì vậy, UBND xã phải có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp. UBND xã phối hợp với Chủ tịch HĐND trong việc chuẩn bị nội dung các kỳ họp HĐND. UBND xã có trách nhiệm cung cấp cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và các đại biểu HĐND tài liệu hoạt động của HĐND . Trong mối quan hệ giữa HĐND với UBND xã, mặc dù UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND xã, nhưng với địa vị pháp lý là cơ quan chấp hành của HĐND xã, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND xã có tính độc lập tương đối so với HĐND xã, HĐND xã không phải là cơ quan cấp trên của UBND xã, cho nên HĐND xã không có quyền ra lệnh hành chính đối với UBND xã, mặc dù UBND xã vẫn phải thi hành các nghị quyết của HĐND xã và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng UBND xã vẫn có địa vị pháp lý, thẩm quyền riêng được pháp luật quy định. Mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã là mối quan hệ phân công và phối hợp với nhau trong một chỉnh thể thống nhất của chính quyền ở xã. Mỗi cơ quan có chức năng khác nhau: HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, UBND xã là cơ quan quản lý nhà nước ở xã - mối quan hệ này tạo ra khả năng, sức mạnh để thực hiện có hiệu quả quyền lực nhà nước ở địa phương. 4.2. Quan hệ giữa HĐND xó với Đảng uỷ xó Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc Hiến định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Tại Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định “ Đảng cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật nhằm đưa đường lối, chính sách của Đảng vào thực tế cuộc sống. ở cấp xã hoạt động của HĐND và UBND đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ xã. Sự lãnh đạo của Đảng uỷ xã được thể hiện: Khi thực hiện các kế hoạch quan trọng ở địa phương thì chính quyền xã phải báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Đảng uỷ xã. Căn cứ vào nghị quyết của huyện uỷ, dựa vào tình hình thực tế ở địa phương. Đảng ủy xã có biện pháp và kế hoạch cụ thể để chỉ đạo chính quyền, tổ chức quần chúng và nhân dân ở xã thi hành. Đảng uỷ xã đề ra nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác ở xã. HĐND có trách nhiệm triển khai việc thực hiện các nghị quyết của đảng uỷ. Đảng uỷ xã kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của đảng uỷ và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên tại địa bàn xã. Đảng uỷ xã chuẩn bị công tác tổ chức cán bộ ở xã trong đó có nhân sự của Thường trực HĐND xã để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trước khi HĐND bầu. 4.3. Quan hệ giữa HĐND xã với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận Trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng. Tại điều 9 Hiến pháp 1992 xác định : “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đoàn kết nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”. Mối quan hệ giữa HĐND xã và Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. HĐND xã phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương xây dựng mối quan hệ làm việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Mỗi năm hai lần vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND xã thông báo bằng văn bản đến Uỷ ban MTTQ xã về tình hình hoạt động của HĐND cấp mình và nêu những kiến nghị của HĐND với MTTQ. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Uỷ ban MTTQ báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền, về những ý kiến, kiến nghị đối với HĐND và đại biểu HĐND xã. Để tạo điều kiện cho MTTQ và các tổ chức thành viên tham gia vào công việc xây dựng chính quyền xã, điều 125 Hiến pháp 1992 quy định cụ thể: “HĐND thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho MTTQ và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, phối hợp với MTTQ và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. HĐND xã phải thường xuyên liên hệ và tạo điều kiện cho MTTQ và các đoàn thể quần chúng hiểu rõ nguyện vọng của nhân dân trước khi quyết định những chủ trương có liên quan đến đời sống nhân dân ở xã” [11]. Để giúp chính quyền xã và các đại biểu dân cử xã hoạt động có hiệu quả, chủ tịch HĐND xã phối hợp với Ban thường trực Uỷ ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở xã theo dõi hoạt động và giúp đỡ đại biểu HĐND làm nhiệm vụ đại biểu, tổ chức cho đại biểu HĐND làm nhiệm vụ đại biểu, tổ chức cho đại biểu tiếp xúc với cử tri, thu thập ý kiến nguyện vọng của nhân dân để báo cáo với HĐND, Uỷ ban MTTQ và các đoàn thể ở xã, thường xuyên giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu HĐND, đề nghị khen thưởng những đại biểu có thành tích xuất sắc, đề nghị bãi nhiệm những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân theo quy định của pháp luật. Tóm lại, qua các mối quan hệ trên ta thấy đều xuất phát từ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ những mối quan hệ này cho ta thấy được vị trí, vai trò của HĐND xã trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở xã cũng như bảo vệ lợi ích của nhân dân ở xã. chương II Nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã Như chúng ta đã biết cấp xã là địa bàn dân cư đã tồn tại hàng ngàn năm cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Là cấp cơ sở, chính quyền xã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Nhà nước ta mạnh hay yếu phụ thuộc vào sự đồng thuận về ý Đảng, lòng dân, chính trị xã hội có ổn định hay không phụ thuộc vào sự vững mạnh của chính quyền cơ sở, vai trò tổ chức thực hiện chăm lo đến đời sống nhân dân. Và một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tổ chức chính quyền xã chính là HĐND xã. Vì vậy việc tổ chức và hoạt động của HĐND xã như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất luôn là vấn đề được Nhà nước ta quan tâm. Để nâng cao được hiệu quả hoạt động của HĐND xã trước hết ta phải tìm hiểu thực trạng của việc tổ chức và hoạt động của HĐND xã trong thời gian qua. 1. Thực trạng của việc tổ chức và hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay Trên cơ sở những quy định cơ bản của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã, ở nước ta tính đến 31/12/2006 đã tổ chức được 9098 xã (Nguồn số liệu của Tổng cục thống kê). Qua thực tiễn hoạt động thì ta thấy HĐND xã trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả cũng như còn tồn tại một số hạn chế sau: 1.1. Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND xã - HĐND xã quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Như ta đã biết, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương HĐND xã quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương. Và để thực hiện được điều đó, HĐND xã đã ra những nghị quyết làm cơ sở pháp lý triển khai trên thực tế. Qua thực tế hoạt động của một số xã thì ta thấy HĐND xã trong thời gian qua cũng đã ra được các nghị quyết có khả năng thực thi vào đời sống. Để ra được những nghị quyết đúng đắn, hợp lòng dân thì HĐND xã phải thường xuyên tổ chức lấy ý kiến nhân dân, lắng nghe yêu cầu nguyện vọng của họ. Ngoài ra, phải nắm bắt tình hình phát triển kinh tế xã hội ở xã cũng như thế mạnh và hạn chế của xã mình. Chính nhờ thực hiện được điều đó mà nhiều nghị quyết của HĐND xã trong thời gian qua đã có khả năng thực thi cao, đem lại lợi ích không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của xã. Ngoài những nghị quyết thường kỳ, HĐND xã còn có những nghị quyết chuyên đề xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn cuộc sống như nghị quyết về chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi... . Nhìn chung, HĐND xã đã chọn đúng, quyết định những vấn đề cụ thể phù hợp với tình hình ở xã, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng ở xã vẫn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Điển hình là việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương còn mang tính hình thức, việc kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết nhìn chung còn thiếu cụ thể, chưa có giải pháp hữu hiệu để thực hiện nghị quyết một cách triệt để hoặc kiểm điểm quy trách nhiệm rõ ràng. Chẳng hạn, HĐND xã quyết định dự toán và phê chuẩn ngân sách của xã nhưng lại không trực tiếp nắm ngân sách. Mọi hoạt động của HĐND xã liên quan đến tài chính đều lệ thuộc vào UBND xã. Và thực tế là HĐND xã không thể kiểm soát chặt chẽ được các nguồn thu và các khoản chi trên cơ sở luật ngân sách mà chỉ dừng lại ở việc phê chuẩn những quyết toán ngân sách theo báo cáo của UBND xã. Điều này không khác nào việc phải phê chuẩn trước sự việc “đã rồi” nên không thể tránh khỏi tính hình thức. Về vấn đề này thì hầu hết các địa phương trên cả nước còn mắc phải. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do HĐND xã chưa ý thức được thực sự vai trò của mình, việc ra nghị quyết phải được đưa vào thi hành trong cuộc sống. Mặt khác, trình độ năng lực của đại biểu HĐND nói chung chưa cao, từng đại biểu chưa đi sâu sát vào quần chúng nên cũng không thể nắm bắt được hết tâm tư nguyện vọng của họ dẫn đến tình trạng có những nghị quyết đưa ra không hợp lòng dân nên việc thực hiện chúng là rất khó khăn. - Công tác giám sát của HĐND xã. Giám sát là chức năng quan trọng của HĐND. Trong những năm qua HĐND các cấp đã quan tâm thực hiện chức năng này góp phần thực hiện thắng lợi đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của HĐND. Trình tự, thủ tục, tổ chức thực hiện hoạt động giám sát của HĐND xã được pháp luật quy định cụ thể chi tiết hơn trước đây đã giúp cho HĐND xã thực hiện tốt hơn chức năng giám sát của mình. Hoạt động giám sát ở nhiều địa phương đã tập trung vào các lĩnh vự chủ yếu như: thu chi ngân sách, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, quản lý kinh tế. ở nhiều xã, HĐND đã phối hợp với Mặt trận tổ quốc xã tổ chức tốt các đợt giám sát: việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của nhân dân, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng. Nhìn chung, hoạt động giám sát của HĐND xã đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Công tác giám sát được đổi mới thể hiện: hình thức, nội dung, phương pháp của hoạt động giám sát được cải tiến có hiệu quả hơn. Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế tại địa bàn mỗi xã (chất vấn, trả lời chất vấn được coi trọng, đối thoại, tranh luận trực tiếp, cử nhóm đi kiểm tra được tăng cường). Công tác giám sát được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu là một trong những biện pháp đắc lực bảo đảm tính thống nhất của pháp chế và góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên hoạt động giám sát của HĐND xã chưa được tiến hành thường xuyên, hiệu quả giám sát còn hạn chế. Hoạt động giám sát mới chỉ dừng lại ở mức kiến nghị yêu cầu phải sửa đổi chứ chưa bắt buộc đối với các tổ chức và cá nhân. Thông thường HĐND xã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện giám sát giữa hai kỳ họp. Nhưng cụ thể giám sát như thế nào, giám sát những vấn đề gì thì nhiều đại biểu và Thường trực HĐND xã còn lúng túng. Bên cạnh đó, hoạt động thẩm tra, xem xét các văn bản của cấp xã khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 giao cho các ban HĐND giúp Thường trực HĐND thực hiện. Tuy nhiên, HĐND xã không có các ban chuyên trách trong khi thường trực HĐND xã chỉ có hai người nên việc cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật không đầy đủ, do đó, nhiệm vụ này từ trước đến nay hầu như không được HĐND xã thực hiện. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do trình độ đại biểu HĐND xã còn hạn chế, kỹ năng giám sát chưa được đào tạo cơ bản, chưa nắm vững được đối tượng, nội dung, hình thức giám sát, chưa hiểu hết các chính sách pháp luật liên quan đến lĩnh vực giám sát, đặc biệt là giám sát công tác thu chi ngân sách nhà nước, công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Trên thực tế, hoạt động giám sát được tiến hành chủ yếu do Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND xã, việc phối hợp lực lượng tiến hành giám sát còn mỏng dẫn đến hoạt động giám sát đạt hiệu quả chưa cao. 1.2. Hoạt động của kỳ họp của HĐND xã trong thời gian qua Xác định được tầm quan trọng của kỳ họp HĐND là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của HĐND, trong thời gian qua HĐND xã đã đảm bảo tiến hành các kỳ họp theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài hai kỳ họp thường lệ hàng năm, HĐND xã ở một số nơi đã tổ chức được các kỳ họp chuyên đề và bất thường để giải quyết các vấn đề bức xúc tại địa phương, đưa ra các nghị quyết chuyên đề: đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, thay đổi cơ câú kinh tế cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo. Trước kỳ họp, Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND xã đã phối hợp với UBND xã thống nhất dự kiến chương trình, nội dung, phân công chuẩn bị, báo cáo, các điều kiện đảm bảo cho kỳ họp, chỉ đạo các tổ đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri theo hướng của HĐND xã, các tổ đại biểu đã nghiên cứu tài liệu họp và chuẩn bị các ý kiến đóng góp cho kỳ họp, phối hợp với ủy ban mặt trận tổ quốc tại địa bàn dân cư ở đơn vị bầu ra mình tổ chức tiếp xúc cử tri, tổng hợp ý kiến của nhân dân gửi đến HĐND trước kỳ họp. Chất lượng các kỳ họp HĐND đã từng bước được nâng lên và đạt hiệu quả thiết thực được cử tri quan tâm. Thường trực HĐND đã chọn những vấn đề bức xúc, những đề án có tính khả thi trình ra kỳ họp. Các kỳ họp của HĐND xã được tiến hành đúng thủ tục, các báo cáo của HĐND, UBND, Uỷ ban mặt trận tổ quốc được chuẩn bị chu đáo. Việc điều hành kỳ họp được quan tâm cải tiến, các đại biểu phát huy dân chủ thẳng thắn phát biểu ý kiến. Thường trực HĐND đã hướng dẫn những nội dung cần tập trung thảo luận làm rõ để thống nhất ra nghị quyết. Việc chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành nghiêm túc tại kỳ họp đảm bảo phát huy dân chủ. Đa số các ý kiến chất vấn đã được trả lời nghiêm túc, rõ ràng hơn, phần nào đáp ứng được yêu cầu của người hỏi. Nhìn chung, các nghị quyết của HĐND đã sát hợp với ý Đảng, lòng dân và tình hình thực tế ở địa phương, đáp ứng được các yêu cầu bức xúc được nhân dân quan tâm theo dõi đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra trong thời gian qua đối với HĐND xã là nhiệm vụ quyền hạn của HĐND xã được pháp luật quy định quá nhiều nhưng thời gian họp của mỗi kỳ quá ngắn, chỉ trong vòng một ngày dẫn đến không tránh khỏi tình trạng nghị quyết đưa ra chưa được bàn bạc kỹ lưỡng. Việc chuẩn bị xây dựng nghị quyết của HĐND xã ở nhiều địa phương chưa được quan tâm, bảo đảm tính dân chủ, nhất là việc lấy ý kiến nhân dân về một số vấn đề quan trọng. Nội dung các kỳ họp còn nghèo nàn, chủ yếu là báo cáo có chất lượng chưa cao. Trong kỳ họp, các đại biểu HĐND ít phát biểu tranh luận để xây dựng nghị quyết. Chẳng hạn, ta có thể thấy trong năm 2007 có HĐND xã đã ban hành một số nghị quyết như sau [27]: Nghị quyết số 09/NQ-HĐND ngày 27-8-2007 về việc thu quỹ y tế cộng đồng. Nghị quyết số 10/NQ-HĐND ngày 27-8-2007 về việc thu tiền xây dựng đóng góp năm học 2007-2008 của các trường học trong xã. Nghị quyết số 11/NQ-HĐND ngày 27-8-2007 về việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất năm 2007 và kế hoạch sử dụng đất năm 2008 trên địa bàn xã. Nghị quyết số 12/NQ-HĐND ngày 27-8-2007 về việc miễn giảm thuế nông nghiệp cho xã viên. Trong một năm, HĐND đã ban hành Nghị quyết về các vấn đề: y tế, giáo dục, nông nghiệp, quản lý sử dụng đất. Như vậy, vẫn còn nhiều lĩnh vực mà HĐND xã chưa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (32).doc
Tài liệu liên quan