Khóa luận Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH VẼ IV

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. TÍNH TẤT YẾU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÁC DNNVV VIỆT NAM 3

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DNNVV VIỆT NAM 3

1. Khái niệm 3

2. Đặc điểm hình thành, phát triển khu vực DNNVV ở Việt Nam 5

3. Vị trí và vai trò của DNNVV trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam 15

II. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DNNVV VIỆT NAM 18

1. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự phân chia lại các nền kinh tế 18

2. Cơ hội và thách thức với nền kinh tế Việt Nam 22

3. Cơ hội, thách thức và sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các DNNVV Việt Nam 25

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DNNVV VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 31

I. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DNNVV VIỆT NAM HIỆN NAY 31

1. Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp 31

2. Năng lực cạnh tranh sản phẩm các DNNVV Việt Nam sản xuất 38

II. PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DNNVV VIỆT NAM TRONG VÀI NGÀNH TIÊU BIỂU 43

1. DNNVV hoạt động trong ngành dệt may 43

2. DNNVV hoạt động trong ngành thuỷ sản 46

3. DNNVV trong ngành chế biến nông sản thực phẩm 49

4. DNNVV trong ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ 51

III. PHÂN TÍCH MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DNNVV VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 53

1. Về môi trường chính sách 54

2. Về vốn và tín dụng 56

3. Chuyển giao công nghệ 59

4. Về thông tin 61

5. Về kỹ năng quản lý 62

6. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh 63

7. Về sự lệ thuộc vào những yếu tố cơ bản 64

8. Nhận thức về vị thế cạnh tranh tương đối 65

9. Khả năng hướng tới hội nhập 66

10. Hợp tác giữa các Doanh nghiệp 67

11. Khả năng nắm bắt nhu cầu khách hàng và vấn đề xây dựng thương hiệu 68

12. Áp dụng ISO 9000 đối với các DNNVV 69

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DNNVV VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 72

I. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC 72

1. Hoàn thiện môi trường pháp lý 72

2. Tổ chức quản lý Nhà nước 73

3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV thực hiện quyền kinh doanh 75

4. Có chính sách ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước cho các DNNVV phát triển 75

5. Nhanh chóng củng cố hệ thống tài chính và ngân hàng của Việt Nam 77

6. Hoàn thiện việc tiếp cận công nghệ của DNNVV 78

7. Phát triển đầy đủ và đồng bộ các thị trường yếu tố sản xuất 79

8. Chính sách thị trường, khuyến khích xuất khẩu 81

II. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DNNVV 84

1. Tự kiểm tra và đánh giá về doanh nghiệp mình 84

2. Nâng cao khả năng cạnh tranh trên cơ sở những điều kiện sẵn có 85

3. Hạn chế những tác động xã hội tiêu cực của việc hội nhập 87

4. Tăng cường năng lực thu nhận thông tin kinh tế quốc tế và luật thương mại quốc tế 87

5. Xây dựng chiến lược hội nhập 88

6. Tham gia thương mại điện tử 93

7. Áp dụng ISO 9000 94

8. Tăng cường sự hợp tác giữa các DNNVV 95

III. SỰ HỖ TRỢ TỪ PHÍA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI 96

1. Thành lập các tổ chức hỗ trợ thị trường 96

2. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh 98

KẾT LUẬN 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

 

doc114 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá mua nguyên liệu lên cao, giảm giá bán xuống mức quá thấp hoặc hạ thấp chất lượng sản phẩm để cạnh tranh lẫn nhau đã tạo điều kiện để các nhà nhập khẩu nước ngoài lợi dụng gây thiệt hại lớn cho sản xuất trong nước; làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá thuỷ sản Việt Nam như trường hợp tôm bơm chích tạp chất hoặc việc giảm giá bán cá tra, cá basa. Gần đây nhất là vụ việc Hiệp hội các Chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) khiếu kiện các Doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm cá tra, cá basa phi lê đông lạnh cho thấy trình độ hiểu biết luật pháp, hiểu biết về các lực lượng kinh tế, thế lực chính trị tác động đến thị trường nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn rất yếu kém. Theo dự kiến, ngày 24/1/2003 sẽ có quyết định sơ bộ và vào khoảng tháng 4/2003 sẽ có quyết định cuối cùng về vụ tranh chấp này.[28] Như vậy, có thể thấy rằng các DNNVV hoạt động trong ngành hàng này đang có trong tay rất nhiều lợi thế triển vọng trên cả 3 mặt gồm nguồn hàng, thị trường và giá cả. Sản lượng đánh bắt và nuôi trồng không ngừng gia tăng qua các năm. Việc chào hàng, lựa chọn đối tác, mở rộng thị trường tiêu thụ cũng có những chuyển biến tích cực. Giá cả thuỷ sản xuất khẩu cũng liên tục tăng trên thị trường thế giới cũng là tín hiệu khả quan cho các DNNVV trong ngành này. DNNVV trong ngành chế biến nông sản thực phẩm Hiện các DNNVV tham gia vào ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm chiếm tới 70% các doanh nghiệp tham gia vào ngành này. Chẳng hạn trước đây, việc xuất khẩu các sản phẩm rau và hoa quả của khu vực doanh nghiêp này nói riêng và Việt Nam nói chung chủ yếu dựa vào sự bao tiêu trọn gói của Liên Xô và các nước Đông Âu. Các DNNVV chỉ cần đảm bảo một quy trình từ đầu vào, chế biến đến sản phẩm đầu ra ở mức “nhàng nhàng”. Đến nay, sau một thời gian “lao đao” để thích nghi với cơ chế thị trường mới, hoạt động xuất khẩu rau quả của các DNNVV đã bắt đầu phục hồi và trở thành một trong những nhóm hàng có khả năng cạnh tranh sau này. Kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2001 đạt 1,8 tỷ USD thì sang năm 2002 ước đạt 2,6 tỷ USD, trong đó lượng cao su xuất khẩu đạt trên 400.000 tấn - tăng gầp 40% so với năm 2001, hồ tiêu đạt 120 triệu USD - tăng 31,8%, điều đạt 187 triệu USD - tăng 23,5%. Năm nay (2002) xuất khẩu cà phê và rau quả gặp khó khăn do giá thấp: kim ngạch cà phê đạt 290 triệu USD, bằng 74% năm 2001, xuất khẩu rau quả cũng giảm hơn 30%. [16] Điều kiện sản xuất và giá trị sản phẩm: Theo các chuyên gia thương mại, do điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ chế biến và bảo quản của các DNNVV còn lạc hậu, nguồn cung cấp nguyên liệu còn manh mún và chưa đảm bảo chất lượng, không có phương tiện vận chuyển chuyên dụng... nên xuất khẩu nông sản của khu vực này vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, do chưa sản xuất và xuất khẩu được ở quy mô lớn với các sản phẩm mang tính công nghiệp cao như cao su, cà phê nên giá trị sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, phần lớn chưa cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu khác trong khu vực. Hơn nữa vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm hay nói đúng hơn là về giống tốt với sản phẩm sạch chưa được các DNNVV quan tâm thích đáng. Vì vậy, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam hiện nay vẫn chưa đạt mức trung bình trong khu vực do chất lượng không ổn định. Thương hiệu: Trong khi những nông sản có thương hiệu thật sự chưa đủ mạnh thì hiện tượng tự công bố chất lượng, chứng nhận nhãn hiệu của nông dân các vùng miền xuất hiện tràn lan, lộn xộn. Làn sóng người trồng cây giống tự công bố chất lượng, tự đính “thương hiệu” như hiện nay khiến nhiều nhà vườn có thương hiệu thật sự lo ngại chẳng hạn: quýt Lai Vung, bưởi Phúc Trạch,... Trong khi đó cần xây dựng một thương hiệu riêng cho các sản phẩm nông sản xuất khẩu lại chưa được thực hiện gây khó khăn cho các DNNVV khi đưa nông sản ra thị trường nước ngoài. [21] Thông tin - thị trường: Một vấn đề khác ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của DNNVV nhóm hàng này chính là đội ngũ quản lý còn thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm về hoạt động thị trường, thiếu những hiểu biết về nhu cầu, thị hiếu, tập quán tiêu dùng của từng thị trường, về cung cách mua bán, thanh toán, tổ chức cung ứng tại các thị trường khác nhau, kỹ thuật và nghệ thuật tự giới thiệu mình và sản phẩm của mình. Hơn nữa, các DNNVV sản xuất nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn quá nhỏ bé, phân tán, không có khả năng đáp ứng những lô hàng lớn nên thường không nhận được sự quan tâm của những khách hàng lớn và phải qua quan hệ trung gian. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam phải xuất sang Hồng Kông, Singapore để tái xuất đi các thị trường khác. Nếu xuất khẩu được trực tiếp, chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Như vậy, mặc dù lượng xuất khẩu còn khiêm tốn, chất lượng sản phẩm chỉ đạt mức trung bình song ngành này lại thu hút đông đảo các DNNVV nông thôn, do vậy nếu có sự đầu tư kỹ càng đây là ngành có khả năng cạnh tranh tương đối trong tương lai do có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên và nhân lực. DNNVV trong ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Hiện cả nước có trên 100 chủng loại hàng do 1400 làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất với những sản phẩm từ lâu có tiếng tăm như thổ cẩm dân tộc Mông (Lào Cai), chạm khắc gỗ (Bắc Ninh), đúc đồng (Quảng Ngãi), gốm sứ (Bát Tràng, Bình Thuận, Đồng Nai), dệt thảm (Tiền Giang)... Thu hút 30% lực lượng lao động cả nước, trong đó có hơn 1,3 triệu lao động nông thôn. ở nông thôn, lao động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có thu nhập gấp 2-3 lần lao động nông nghiệp đơn thuần. Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 60 làng nghề truyền thống. Toàn thành phố có 6 công ty xuất khẩu, 1 trung tâm nghiên cứu, 13 xí nghiệp, 100 công ty TNHH, 16 doanh nghiệp tư nhân, 100 cơ sở sản xuất, 13 hợp tác xã, 3 xưởng, 1 nhà máy, 4 tổ sản xuất, 1 câu lạc bộ, 2 đại lý và 224 cửa hàng hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Nhiều tên tuổi quen thuộc với khách hàng trong và ngoài nước như: HTX Bình Minh, HTX Ba Nhất, tranh thêu nghệ thuật Cẩm Tú, tranh thêu lụa Trần Lê Trang... [7] Thị trường: Các sản phẩm Thủ công Mỹ Nghệ Việt Nam như gốm sứ mỹ nghệ, mây tre đan, thêu ren thổ cẩm, gỗ mỹ nghệ, gỗ gia dụng... đã được xuất sang 133 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2001, Việt Nam xuất 100 triệu USD đồ gố mỹ nghệ, 70 triệu USD mây tre đan, 20 triệu USD thêu ren thổ cẩm, 15 triệu USD thảm len các loại... Các quốc gia như Đức, Anh, Mỹ, Hà Lan, Nhật,...là những thị trường hàng năm nhập khoảng 3 - 30 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. [7] Đã có nhiều du khách nước ngoài muốn sang tận Việt Nam để xem xét khả năng khảo sát hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nên một số hãng du lịch lữ hành quốc tế ở Nhật, Hàn Quốc, Pháp.. tổ chức các tuyến du lịch kết hợp với đi mua hàng. Vị thế cạnh tranh: Đến nay sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam dù có mặt ở gần 133 quốc gia nhưng vẫn chỉ chiếm từ 3-4% thị phần hàng TCMN toàn thế giới. Sản phẩm Việt Nam lại bị cạnh tranh gay gắt bởi sản phẩm Trung Quốc và Thái Lan, nhất là về giá cả, sản phẩm Việt Nam luôn cao hơn từ 10-20%. [7]. Nguyên nhân là do các làng nghề, các DNNVV sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường hoạt động tự phát và phân tán, thiếu trang thiết bị, thiếu thông tin thị trường. Muốn phát huy sản xuất hoặc có đơn đặt hàng lại thiếu vốn vì không vay được từ các nguồn tín dụng hay ngân hàng do không có đất đai, nhà xưởng thế chấp theo qui định. Hiện nay cả nước có đến 85% hộ cá thể và 68% cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đủ điều kiện để tiếp cận với các nguồn vay. Cuộc điều tra năm 2000 ở 18 tỉnh có nhiều làng nghề trong cả nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho thấy, vốn sản xuất bình quân của một cơ sở tuy đạt được 700,31 triệu đồng song qui mô cố định lại rất khác nhau, chỉ có 4% số cơ sở có vốn hơn 5 tỷ đồng, 21,9% cơ sở có vốn dưới 50 triệu đồng. Điều đáng nói là vốn của cơ sở làm nghề đã thấp thì vốn của các hộ gia đình làm nghề cũng chẳng khả quan hơn. Vốn sản xuất bình quân của một hộ là 25,73 triệu đồng, nhưng lại có tới gần 40% số hộ có vốn kinh doanh dưới 10 triệu đồng [25]. Chính lượng vốn nhỏ bé đã hạn chế khả năng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng sản xuất, nên tình trạng nhiều cơ sở sản xuất phải đóng cửa và một số làng nghề đang tồn tại một cách leo lét là một điều khó tránh khỏi. Thông tin thị trường: Thị trường thủ công mỹ nghệ nước ngoài luôn biến động và thay đổi thị hiếu, chẳng hạn: mành trúc xuất khẩu sang Mỹ (sử dụng lâu ngày) khác với xuất sang Pháp (sử dụng một mùa). Điều kiện kỹ thuật đòi hỏi ngày càng khắt khe. Sản phẩm mây tre lá, gáo dừa... xuất sang Nhật phải đảm bảo đúng độ bóng theo yêu cầu, chính xác tiêu chuẩn kích thước theo đơn đặt hàng. Mành trúc xuất khẩu sang Mỹ đòi hỏi sơn phải an toàn, không độc hại, không pha chì, không bị gỉ sét... Trong khi đó, cũng vì thiếu vốn các DNNVV Việt Nam khó cập nhật được những thông tin quan trọng liên quan đến sản phẩm nên thường thua thiệt trong cạnh tranh. Tiếp thị sản phẩm: chưa được chú trọng, các DNNVV ngành này vẫn còn thụ động ngồi chờ đơn đặt hàng. Mặt khác, các chính sách và luật chưa đủ tạo một hàng lang pháp lý cần thiết cho các DNNVV sản xuất và kinh doanh ngành hàng giàu chất trí tuệ và nghệ thuật này. Một số qui định chưa hợp lý về thuế, đánh đồng hàng thủ công mỹ nghệ với công nghệ phẩm; chưa có chế độ trợ giá bảo hộ mậu dịch, ưu đãi tín dụng cho các làng nghề. Như vậy, có thể thấy được với những ưu thế về làng nghề truyền thống lâu đời, tay nghề khéo léo và tinh xảo, nguyên liệu dồi dào trong nước và truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, đầu tư nhỏ nhưng hiệu quả kinh tế xã hội lại cao.. , đây là ngành hàng rất có lợi thế cạnh tranh đối với các DNNVV ở nông thôn. Hơn nữa, nó còn là một mảng của công nghiệp nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phá vỡ thế thuần nông, tăng thu nhập của đông đảo dân cư. Phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNNVV Việt Nam trong quá trình hội nhập Nhìn chung năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam còn thấp, ngoài những lý do khách quan, lý do chủ quan xuất phát từ chính các DNNVV chưa chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới hay nói đúng hơn chưa đặt mình trong tương quan cạnh tranh với những đối thủ mạnh trên thương trường quốc tế mà nay mai doanh nghiệp sẽ gặp phải ngay trên thị trường nội địa. Điều này thể hiện qua những nội dung sau: Về môi trường chính sách Phát triển trong khu vực có nền kinh tế năng động vào bậc nhất thế giới, tuy bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ song sẽ sớm vượt qua và khôi phục lại tốc độ phát triển nhanh. Các DNNVV Việt Nam sẽ có nhiều có hội để tiếp cận với công nghệ kỹ thuật tiên tiến, kể cả nguồn vốn, kỹ năng quản lý để phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh. Việc duy trì một số lượng quá lớn doanh nghiệp nhà nước, cũng như tình trạng độc quyền trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước là trở ngại không nhỏ cho sự phát triển của các DNNVV. Thông thường trong nền kinh tế thị trường để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV phát triển, người ta thường ban hành bộ luật chống độc quyền, đảm bảo cạnh tranh. Trong khi đó việc thành lập các tổng công ty 91 chỉ có một tổng công ty như: Bưu chính Viễn thông, Dầu khí và Hàng không hay các tổng công ty 90 - những người cung cấp chính trên thị trường như: Điện, than, ximăng, giấy,... chưa tạo được sức mạnh để cạnh tranh được trên thị trường quốc tế mà lại có khuynh hướng khép kín hoạt động làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh và đầu tư của các DNNVV ở Việt Nam. Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội khoá 10 kỳ họp thứ 4 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 1999, trong đó Bộ Thương mại được giao chủ trì soạn thảo Dự án Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ra quyết định ngày 12-4-2000 thành lập Ban soạn thảo Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Thành phần của Ban soạn thảo gồm đại diện các cơ quan Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ban Vật giá Chính phủ, Hội Luật gia Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Trường ĐH Ngoại Thương. [35] Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mới được căn cứ vào mức độ, tính chất và hậu quả của từng hành vi đó và căn cứ vào các chế tài tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự hoặc trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên đối với hành vi hạn chế cạnh tranh và độc quyền cần được bổ sung những biện pháp chế tài đặc thù của Luật. Chẳng hạn như: Đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh thị trường gây cản trở hoặc bóp méo hoạt động cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thì cơ quan quản lý cạnh tranh có thể ra quyết định yêu cầu chia, tách công ty thành những công ty nhỏ hơn nhằm mục đích khuyến khích cạnh tranh, tạo điều kiện cho các DNNVV phát triển đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên biện pháp chế tài mang tính đặc thù của Luật cạnh tranh chứ không phải là chế tài hình sự hay chế tài hành chính này vẫn còn chưa được đưa vào. Ngoài ra, Luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều chỗ trống mà không thể dùng các luật khác khắc phục. Chẳng hạn: Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản liên quan đến nhiều vấn đề của doanh nghiệp, từ giải quyết quan hệ vay- nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp, đến quan hệ lao động, đất đai, hợp đồng...và các tranh chấp khác liên quan đến con nợ. Song phá sản chưa được coi là một vụ án, và chưa được tiến hành như một thủ tục tố tụng đặc biệt. Điều này sẽ gây tâm lý e ngại khi các cá nhân hay pháp nhân có quan hệ kinh doanh với các DNNVV bởi các doanh nghiệp này vốn chưa gây được lòng tin trong công chúng. Mối quan hệ giữa Luật phá sản doanh nghiệp với các luật liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật về Thi hành án, Bộ Luật lao động, Luật Đất đai chưa được làm rõ. Thậm chí giữa các luật còn có điểm thiếu thống nhất. Ví dụ: Luật thương mại quy định thương nhân (bao gồm pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có quyền tuyên bố phá sản, nhưng Luật Phá sản chỉ qui định việc phá sản doanh nghiệp. Như vậy vấn đề đặt ra là các thương nhân kiểu hộ gia đình hay tổ hợp tác có được coi như DNNVV để giải quyết theo Luật phá sản hay không. [36] Bên cạnh đó, Luật Phá sản doanh nghiệp hiện hành (có hiệu lực từ 1/7/1994) còn có những qui định phi kinh tế. Bởi giải quyết phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, nhưng luật lại qui định phải qua giai đoạn xây dựng phương án hoà giải, tổ chức lại sản xuất, họp hội nghị chủ nợ để bàn bạc... rồi toà mới ra được quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Qui định cứng nhắc này không có ý nghĩa gì trong trường hợp tài sản doanh nghiệp không còn gì đáng kể, và bản thân cả chủ nợ lẫn con nợ đều muốn giải quyết dứt điểm, ngay lập tức các vướng mắc của họ. Nhiều toà án đã lúng túng vì không thể “lách luật” để tuyên bố phá sản cho doanh nghiệp ngay được. Điều này khiến cho các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNVV không được xoá tên một cách hợp pháp cũng như giải quyết dứt điểm mọi vấn đề xung quanh việc phá sản doanh nghiệp mình. Tóm lại, vai trò của khu vực DNNVV ngày càng được khẳng định ở Việt Nam và nhận được sự hỗ trợ ngày càng nhiều hơn từ phía Nhà nước. Sự hỗ trợ này bao gồm cả việc tạo ra khung pháp lý thích hợp và các chính sách khuyến khích phát triển theo từng thời kỳ lẫn việc hoạch định chiến lược phát triển dài hạn, do vậy chúng ta có thể tin tưởng những vướng mắc trên đây sẽ sớm được giải quyết để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng cho các DNNVV nâng cao khả năng cạnh tranh Về vốn và tín dụng Để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNNVV thường phải vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính, cụ thể là từ thân nhân và bạn bè và thường phải trả lãi suất cao. Một phần, đó là do các DNNVV còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác, các khoản vay bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNNVV. Và như vậy mô hình chung đã đẩy các DNNVV vào cái vòng quẩn do thiếu vốn không thể đầu tư vào thiết bị, nhà xưởng, thiếu vốn lưu động làm cho các doanh nghiệp bị “trói buộc” bởi những khách hàng cung cấp đầu vào, thiếu vốn lưu động cũng làm sản xuất cầm chừng vì các doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động khi có đơn đặt hàng. [29] Sự thiếu hụt tài chính này bắt nguồn từ những lý do sau đây: Các ngân hàng quốc doanh tuy kiểm soát 80% tài sản tài chính ở Việt Nam nhưng vẫn thiếu động cơ để cấp tín dụng cho khu vực tư nhân vì phần lớn không tự chủ về ngân sách, do đó không cảm thấy bị thúc ép phải cấp tín dụng cùng những đề xuất đầu tư nhiều lợi nhuận. Qui định của Nhà nước có sự phân biệt đối xử khi cấp tín dụng cho khu vực tư nhân (chủ yếu thông qua thế chấp và qui định về sử dụng đất), nên đã làm tăng chi phí của ngân hàng khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp tư nhân và khuyến khích các ngân hàng cấp phần lớn nguồn tín dụng vốn đã hạn hẹp cho các doanh nghiệp quốc doanh. Mức lãi suất trần cho vay và tiền gửi đã hạn chế khả năng của các ngân hàng để giải quyết những rủi ro thực tế hoặc tiềm năng bằng cách tính mữc lãi suất đủ bù đắp chi phí. Điều này đặc biệt gây khó khăn cho các ngân hàng cổ phần tư nhân, do chi phí của các ngân hàng này thường cao hơn, đồng thời cũng khó bù đắp nếu lợi nhuận giảm. Các ngân hàng có ít kinh nghiệm trong việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp tư nhân, thậm chí còn hơn thế nữa trong phân tích dự án, bởi vậy họ kém tự tin và rất có thể thất bại nếu làm như vậy. Các ngân hàng Nhà nước có chức năng thiên về hạch toán cho chính phủ chứ không phải là các thiết chế tài chính tự chủ làm ăn có lãi. Các ngân hàng Việt Nam thiếu vốn dài hạn vì tiền gửi có kỳ hạn không nhiều và số nợ không có khả năng thanh toán lớn và ngày càng tăng. Thị trường chứng khoán tuy đã đi vào hoạt động được 2 năm song vẫn chưa tạo dựng được lòng tin đôí với người đầu tư do vậy lượng vốn cũng còn hạn chế và còn nhiều qui định của Nhà nước nên việc tiếp cận nguồn vốn này chưa rộng mở. Tuy nhiên trong hai năm trở lại đây, tình hình cấp tín dụng cho các DNNVV đã có những cải thiện đáng kể: Tháng 5/ 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành qui định về “Điều kiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV” như sau: Các doanh nghiệp phải có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay, có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tới tổ chức tín dụng theo quy định pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay và không có các khoản nợ quá hạn tới các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế khác sẽ được bảo lãnh vay vốn. [24] Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành và Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV: Quỹ được thành lập khi có vốn tối thiểu là 30 tỷ đồng, Quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ cấp bảo lãnh tín dụng tối đa bằng 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp, cầm cố khách hàng tới tổ chức tín dụng. Mức bảo lãnh tín dụng tối đa cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của Quỹ. [24] Ngân hàng Công thương Việt Nam hợp tác với Văn Phòng Kế hoạch hoá và giám sát dự án Quỹ phát triển các DNNVV(SMEDF/PPMU) cấp phát tín dụng trung, dài hạn từ 1 năm tới 7 năm với lãi suất ưu đãi cho các DNNVV (là các doanh nghiệp có vốn đăng ký từ 150 triệu VND tới 5 tỷ VND và sử dụng từ 10 đến 500 lao động). Mục đích cho vay nhằm thành lập, mở rộng hoặc hiện đại hoá cơ sở vật chất của doanh nghiệp như: Thay thế, đổi mới trang thiết bị, máy móc, bí quyết công nghệ. [24] Ngoài ra, các DNNVV có thể tiếp cận các nguốn tín dụng từ các hiệp định vay vốn của các chính phủ cũng như các tổ chức tài chính quốc tế song khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải là lập dự án có tính khả thi cao, điều kiện cho vay khá chặt chẽ. Chuyển giao công nghệ Như đã trình bày trên đây, các DNNVV gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn trung hạn và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Nhìn chung, các DNNVV nhập khẩu máy móc và thiết bị phải chịu các mức thuế suất cao, trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn thuế nhập khẩu. Các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc thiết bị do thiếu những thông tin về thị trường này và do không được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp, tương xứng với khả năng tài chính nhằm hoàn thiện trình độ sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của mình. [20] Theo nghị định 45/1998 của Chính phủ về chuyển giao công nghệ, mọi việc chuyển giao công nghệ từ bên nu'ớc ngoài cho bên Việt Nam đều phải đu'ợc đăng kí với Bộ KHCN và MT (Bộ KHCN). Tuy nhiên, chính sách và thủ tục hiện hành đang làm cho việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam gặp nhiều khó khăn và gây tốn kém cho các DNNVV [27]. Cụ thể là: Theo qui định hiện hành của Nhà nước, nếu chuyển giao công nghệ trẻ theo kỳ vụ thì giá chuyển giao công nghệ là 5%, trường hợp rất đặc biệt có thể đến 8% giá bán tịnh. Nếu tính bằng lợi nhuận sau thuế thì mức khống chế tối đa là 25%. Vấn đề đặt ra là việc khống chế giá như vậy là trái quy luật thị trường trong quan hệ mua - bán, trong đó giá cả phản ánh giá trị. Hơn thế nữa, hiện nay Nhà nước đang áp dụng cơ chế giá tối thiểu với một số mặt hàng để tính thuế. Xu hướng này cần được thay thế bằng việc chỉ lấy giá trong hợp đồng làm có sở tính toán sẽ linh hoạt hơn. Một ví dụ đơn giản, trong thời gian khủng hoảng vừa qua, không ít nhà đầu tư trong khu vực đã bán đi những lô thiết bị có giá trị hàng chục triệu USD để lấy khoảng năm ba triệu USD với mục đích trang trải các khó khăn của mình. Trong trường hợp này, nếu áp đúng giá trị hàng chục triệu USD để tính thuế nhập khẩu thì doanh nghiệp nhập khẩu mà tiêu biểu là các DNNVV sẽ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Về thời hạn chuyển giao công nghệ, thông lệ của chúng ta quy định thời hạn tối đa là 7 năm, nhưng trên thực tế các loại hợp đồng khác nhau cần thời hạn khác nhau. Đơn cử như nếu công nghệ chuyển giao là một nhãn mác thì thời hạn của hợp đồng phải kéo dài đến khi nhãn mác đó không được sử dụng nữa chứ không chỉ giới hạn trong 7 năm. Thủ tục cồng kềnh, tốn kém trong việc cấp thị thực nhập cảnh cho các chuyên gia nước ngoài cũng như mức thuế thu nhập cao đã không khuyến khích họ đến Việt Nam. Những điều khoản hạn chế nghiêm ngặt mà Bộ luật Dân sự qui định đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn cho từng trường hợp, kết hợp với những thủ tục phê chuẩn phiền hà, mất nhiều thời gian cũng làm các DNNVV muốn đổi mới công nghệ nản lòng. Thủ tục cấp giấy phép cho các dự án đầu tư và cho các công ty sản xuất những sản phẩm đặc biệt không khuyến khích việc đầu tư vào những nghiên cứu cần thiết cho việc phát triển những sản phẩm mới. Các qui định đối với việc nhập khẩu máy móc và thiết bị cũ rất khó khăn, dường như là không thể khiến cho các DNNVV không đủ điều kiện tài chính để mua máy móc thiết bị mới cũng không thể nâng cao công nghệ của mình. Như vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam thực sự chưa bắt kịp với tốc độ hội nhập kinh tế và các DNNVV - khu vực thường xuyên cần đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm đang gặp không ít khó khăn bắt nguồn từ sự thiếu vốn và sự cứng nhắc trong quá trình xét duyệt và đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ. Về thông tin Các chủ DNNVV Việt Nam thường điều hành và quản lý doanh nghiệp với lượng thông tin ít hơn mức những “đồng nghiệp quốc tế” có thể chấp nhận. Và vì vậy, rủi ro trong kinh doanh thường cao hơn do thiếu những thông tin chủ yếu về sản phẩm, thị trường, công nghệ, xu hướng,... Có rất ít nguồn thông tin cập nhật, có chất lượng cao về nội tình ở Việt Nam, và tìm kiếm nguồn thông tin về tình hình thế giới thì không những tốn kém mà còn có quá ít nhà quản lý doanh nghiệp biết được nên tìm ở đâu. Công tác thu thập thông tin cũng gặp những khó khăn do thư viện công cộng nguồn tài liệu nghèo nàn, không cập nhật; phí truy cập Internet cao. Thông tin kinh tế có thể tin cậy về xu hướng thị trường trong nước hầu như không có và nguồn thông tin cũng không được sàng lọc để tìm ra những phần phù hợp nhất. Thiếu thông tin có chất lượng cao về thị trường xuất khẩu dẫn đến sự phụ thuộc vào những tổ chức trung gian, mà những tổ chức này thường không muốn chia sẻ thông tin thị trường cho các nhà sản xuất. Ngoài ra, rào cản về ngôn ngữ hạn chế việc tiếp cận các nguồn thông tin ngoài Việt Nam, các hạn chế sự giao tiếp với các khách hàng ngoại quốc. ý tưởng xây dựng “Ngân hàng thông tin” và các dịch vụ kèm theo đã xuất hiện trong những chương trình hỗ trợ DNNVV của nhiều tổ chức như UNIDO, JICA... Và gần đây nhất, tháng 10 - 2002, Vụ DNNVV (SME - thuộc Ngân hàng thế giới) đã đưa ra một chương trình giúp các DNNVV tiếp cận với thông tin thương mại trên Internet và làm quen với Thương mại điện tử hướng về xuất khẩu. Dự án này được tiến hành thông qua Chương trình phát triển d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTN 2002.doc
Tài liệu liên quan