MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khái niệm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Phân biệt trách nhiệm dân ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo hợp đồng
Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Khái niệm cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Năng lực bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam trước năm 1995
Theo pháp luật phong kiến
Thời pháp thuộc
Thời kỳ từ 1959 đến 1995
Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo luật dân sự Việt Nam
Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi
Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15
Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
Năng lực bồi thường thiệt hại của người được giám hộ
Trường hợp người được giám hộ là người chưa thành niên gây thiệt hại
Trường hợp người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự
Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại
Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là người của pháp nhân
Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4024 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì ngược lại. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân hình thành khi đáp ứng những điều kiện nhất định đó là về độ tuổi và nhận thức. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự lại được chia thành các mức khác nhau, phụ thuộc vào độ tuổi của cá nhân. Theo quy định tại Điều 19 BLDS “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của BLDS”. Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên (Điều 18 BLDS 2005). Như vậy, người từ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được phép tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tự mình gánh chịu các nghĩa vụ dân sự.
Quy định độ tuổi là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự về việc xác định năng lực hành vi dân sự (một trong hai yếu tố tạo thành năng lực chủ thể của cá nhân). Độ tuổi là yếu tố đáp ứng điều kiện có thể tự mình gánh vác các nghĩa vụ dân sự trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Sự phù hợp của việc quy định độ tuổi là yếu tố để cá thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thể hiện ngay trong BLDS 2005, đó chính là sự tương thích giữa việc quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi dân sự với việc căn cứ vào độ tuổi để quy định trách nhiệm bồi thường thiêt hại ngoài hợp đồng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng độ tuổi là điều kiện không thể thiếu khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho bất cứ một chủ thể nào. Độ tuổi góp phần vào việc quyết định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể.
- Nhận thức
Cũng như độ tuổi khả năng nhận thức cũng là yếu tố tạo thành năng lực hành vi dân sự của một chủ thể. Nếu một người tuy đã thành niên nhưng không thể nhận thức, không làm chủ hành vi của mình, thì bị coi là người mất năng lực hành vi dân sự và không có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật và cũng không thể nào trở thành chủ thể có thể đứng ra gánh vác trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ngay cả khi thiệt hại đó là do họ gây ra?
Khi phân tích về khả năng nhận thức của chủ thể ta thấy giữa khả năng nhận thức và độ tuổi có mối quan hệ với nhau, chúng đều là hai yếu tố tạo thành năng lực hành vi dân sự, nhưng khả năng nhận thức của con người lại phụ thuộc vào chính độ tuổi. Con người chỉ có khả năng nhận thức đầy đủ khi đạt một độ tuổi nhất định, khi chưa đạt độ tuổi này thì con người hoặc chưa có khả năng nhận thức hoặc là khả năng nhận thức còn hạn chế. Có trường hợp người không có khả năng nhận thức nhưng không phải do chưa đạt một độ tuổi nhât định mà do bị mất khả năng nhận thức của mình. Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Nếu một người đang có khả năng nhận thức nhưng lại bị mất đi thì nguyên nhân dẫn đến sự mất đi này có thể là do người đó bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến hậu quả không thể nhận thức và làm chủ được bản thân mình. Do vậy, họ mất đi năng lực hành vi, mất đi năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ xã hội.
Như vậy, để tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định thì chủ thể phải có đầy đủ ý chí cũng như lý trí để điều khiển hành vi của mình, phải nhận thức được những gì mình đang làm cũng như hậu quả của hành vi đó. Không có nhận thức có nghĩa họ không thể biết được mình đang làm gì và việc làm đó có hậu quả ra sao. Việc quy định nhận thức là điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất cần thiết. Người đứng ra chịu trách nhiệm chính trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể chính là người gây ra thiệt hại và cũng có thể không phải là người gây ra thiệt hại. Việc thực hiện bồi thường ảnh hưởng đến chính quyền lợi của họ do vậy họ phải nhận thức được việc mình đang làm và trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra với người không có khả năng nhận thức.
- Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường.
Thông thường chỉ cần đạt độ tuổi do luật định và có khả năng nhận thức thì một chủ thể hoàn toàn có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật mà cụ thể ở đây là tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi có đầy đủ năng lực chủ thể thì người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay nói cách khác là đã đủ điều kiện để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường được đặt ra để cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại là để giải quyết các tình huống người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường nhằm xác định đúng người đại diện cho người gây thiệt hại để thực hiện nghĩa vụ. Họ phải thực hiện việc bồi thường dù họ không gây ra thiệt hại nhưng họ lại có lỗi trong việc quản lý người gây thiệt hại. Nếu họ thực hiện đúng trách nhiệm quản lý của mình thì thiệt hại đã không xảy ra. Lỗi của người phải bồi thường ở đây là lỗi trong việc quản lý người đã gây ra thiệt hại.
Mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường ở đây có thể là mối quan hệ giữa người chưa thành niên dưới 15 tuổi với cha mẹ, giữa người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự với người giám hộ, với trường học, bệnh viện, tổ chức khác.
Việc xác định đúng mối quan hệ này để tránh việc xác định nhầm người có trách nhiệm bồi thường, chỉ có những người có trách nhiệm quản lý nhưng không thực hiện đúng trách nhiệm của mình để thiệt hại xảy ra mới phải bồi thường.
1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam trước năm1995
1.3.1. Theo pháp luật phong kiến
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định có lịch sử phát triển sớm nhất ở Việt Nam. Pháp luật từ thời kỳ phong kiến cũng có những những quy định về vấn đề này, ở đây người viết chỉ phân tích năng lực bồi thường trong hai bộ luật tiêu biểu của thời kỳ phong kiến đó là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Phù hợp với quan điểm lập pháp thời đó, các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng luật hình, đều nhằm thiết lập một trật tự xã hội theo những chuẩn mực hà khắc có lợi cho sự thống trị của nhà nước phong kiến, chưa có sự phân biệt rõ ràng với những đặc trưng rất khác nhau giữa luật dân sự và luật hình sự. Do đó, không chỉ bao gồm các quy định về các hành vi phạm tội và hình phạt mà còn bao gồm cả các quy định về dân sự trong đó bao gồm cả những quy định về bồi thường do gây thiệt hại.
Trong Bộ luật Hồng Đức ghi nhận những quy định về bồi thường thiệt hại cùng với chế tài hình sự, ví dụ Điều 435 đã dự liệu rằng: “Những kẻ thừa cơ lúc có trộm, cướp, cháy, lụt mà lấy trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày mà đoạt lấy tiền tài của người, cũng là lấy của đánh rơi, mà lại đánh lại người mất của, thì cũng đều phải tội như tội ăn trộm thường, mà giảm một bậc. Lột lấy những quần áo và đồ vật của trẻ con, người điên, người say thì phải tội đồ và bồi thường gấp đôi”. Và còn rất nhiều các quy định khác quy định về việc bồi thường như các Điều 472 theo nội dung của Điều luật này quy định về trường hợp kẻ dưới đánh quan lại, quan lại đánh lẫn nhau thì khi một người đánh quan chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình phạt, phải đền bù thường tổn còn phải đền tiền tạ. Tương tự như vậy, Điều 473 dự liệu về khả năng kẻ dưới mắng nhiếc quan lại, quan lại mắng nhiếc lẫn nhau đã không chỉ đưa ra hình phạt mà còn quy định tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức. Các quy định trên cũng đã xác định trách nhiệm của một người về hành vi vi phạm của chính bản thân mình. Ngoài ra trong luật Hồng Đức còn một số trường hợp xác định một người phải chịu trách nhiệm về hành vi của người khác đó là trường hợp cha phải chịu trách nhiệm thay cho con, chủ phải chịu trách nhiệm thay cho đày tớ.
Điều 457 đã bắt tội người cha phải chịu trách nhiệm về hành vi của con cái còn ở chung với mình, bất kể đã trưởng thành hay chưa, mà phạm tội trộm cướp. Điều này dựa trên quan điểm của đạo đức phong kiến thời kỳ đó chính là quyền gia trưởng của người cha, người chồng. Theo đó, nếu người cha đã có quyền gia trưởng trong nhà mà lại không giáo dục, răn dạy con cái, thì phải chịu tội thay cho con cái: “Các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải bồi thường thay con những tang vật ăn trộm ăn cướp. Nếu con đã ở riêng, thì cha bị xử phạt hay biếm; cha đã báo quan thì không phải tội; nhưng báo quan rồi mà còn để con ở nhà thì cũng xử như là chưa báo”. Việc quy định người cha phải bồi thường cho con ngay cả khi người con còn ở với cha mẹ ngay cả khi người con đã trưởng thành là một điểm khác biệt hoàn toàn giữa luật Hồng Đức với luật hiện đại cụ thể là luật dân sự 2005 quy định rõ người thành niên phải tự chịu trách nhiệm trước những thiệt hại do mình gây ra. Một điều nữa là nếu cha báo quan thì sẽ không phải chịu tội vậy không phải chịu tội thì có phải bồi thường không? Nếu như không phải bồi thường thì ai sẽ là người đứng ra bồi thường.
Điều 456 còn quy định cho chủ nhà khi đầy tớ đi ăn trộm ăn cướp, cũng là luận điểm cơ bản của việc bắt lỗi chủ nhà là do không trông coi, không răn dạy chu đáo đối với kẻ dưới nên bị buộc phải chịu trách nhiệm thay cho kẻ dưới: “Đày tớ đi ăn trộm, mà chủ nhà không báo quan, thì xử biếm năm tư; ăn cướp thì năm tư và bãi chức; chủ không có quan chức, thì thay xử đồ làm chủng điền binh và đều phải bồi thường thay những tang vật ăn trộm hay ăn cướp. Nếu chủ giấu giếm nhận của ăn trộm ăn cướp thì phải đồng tội. Đã báo quan mà sau lại bao dung những đày tớ ăn cướp ăn trộm ấy, thì xử như tội biết mà không trình”.
Từ việc phân tích những quy định trên ta thấy trong luật Hồng Đức đã dự định trước những trường hợp quy định về năng lực bồi thường đặc biệt là việc những người có trách nhiệm phải đứng ra đại diện để bồi thường cho những người mà mình có trách nhiệm quản lý đã gây thiệt hại. Đây chính là những điểm tiến bộ của luật Hồng Đức, nhưng dường như quy định về việc phải bồi thường thay cho người mình quản lý ở đây chủ yếu xuất phát từ đạo đức phong kiến chứ không phải là do năng lực chủ thể của người gây ra thiệt hại
Khác với Luật Hồng Đức, trong Luật Gia Long tiền bồi thường lại không được nhắc đến. Trong Bộ luật Gia Long chỉ có Điều quy định về tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân trong trường phạm tội giết người. Việc quy định chế tài do gây thương tật cho người khác Luật Gia Long quy định khá tỉ mỉ các hình phạt nhưng chỉ là những chế tài về hình sự chứ không thấy đề cập đến bồi thường như Điều 466 của luật Hồng Đức: “…(luật nói: sưng, phù thì phải đền tiền thường tổn 3 tiền, chảy máu thì một quan; gẫy một ngón tay, một răng thì đền 10 quan; đâm chém bị thường thì 15 quan; đọa thai chưa thành hình thì 30 quan…”. Điều 271 Luật Gia Long chỉ dự liệu bồi thường thiệt hại trong các trường hợp nặng nhất như hỏng mắt, gãy tay chân, làm hỏng bộ phận trong cơ thể…thì ngoài những chế tài hính sự phải chịu ra còn phải bồi thường cho nạn nhân để nuôi thân.
1.3.2. Thời pháp thuộc
Đây là thời kỳ phát triển mới của pháp luật dân sự Việt Nam vì trong thời kỳ này ta đã có bộ dân luật riêng dù còn chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật chính quốc mà cụ thể ở đây là bộ Dân luật của Cộng hòa pháp. Trong thời kỳ này nước ta tồn hai bộ dân luật đó là Dân luật Bắc Kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ 1936. Trong hai bộ luật nay đều có những quy định về năng lực bồi thường thiệt của cá nhân. Đặc biệt trong hai bộ luật này còn quy định rõ trách nhiệm phải bồi thường của cha mẹ do con gây thiệt hại, về trách nhiệm của người thợ cả và về trách nhiệm của người dạy học.
Thứ nhất là về trường hợp cha mẹ bồi thường cho con: nhà lập pháp quy định rằng người cha, người mẹ phải chịu trách nhiệm về những tổn hại do người con gây nên. Tuy nhiên về việc quy trách nhiệm bồi thường cho cha mẹ cần có điều kiện đó là: con còn vị thành niên, nếu người con đã trưởng thành nghĩa là qua 21 tuổi thì các điều khoản quy trách nhiệm bồi thường cho cha mẹ là không thể thi hành được; con còn ở với cha mẹ, như vậy nếu người con đã ở riêng, cha mẹ sẽ không chịu trách nhiệm về các tổn hại do người con gây ra. Tuy nhiên, nếu việc không ở chung này không có lý do chính đáng hoặc mặc dầu không có sự ở chung, cha mẹ vẫn còn có thể trông con cái được, thì cha mẹ vẫn còn phải chịu trách nhiệm; sự quá thất của người con hay ở đây chính là do sự không trông nom cẩn thận của cha mẹ.
Thứ hai là về trách nhiệm của người thợ cả: Điều 714 khoản 4 và 5 của Dân luật Bắc Kỳ và khoản 2 và 3 của Dân luật Trung Kỳ, quy định rằng các người thợ cả phải chịu trách nhiệm về những tổn hại do các người thợ bạn gây nên trong khi làm những công việc họ giao cho, hoặc trong khi các người thợ bạn này ở dưới quyền trông coi của họ. Theo quy định của hai bộ luật này người thợ bạn phải gây ra tai nạn trong thời kỳ chịu sự trông nom của người thợ cả, hoặc trong thời kỳ làm một công việc do người thợ cả giao cho. Người thợ cả chỉ chịu trách nhiệm dân sự về người thợ bạn nếu như hai điều kiện được hội đủ: (1) dạy dỗ một nghề cho người thợ bạn; (2) giao một công việc cho người thợ bạn làm, điều này phân biệt người thợ cả với người thầy giáo
Thứ ba là trách nhiệm của các người dạy học: Điều 714 khoản 5 của Dân luật Bắc Kỳ và Điều 764 khoản 2 Dân luật Trung Kỳ quy định các người dạy học chịu trách nhiệm về các sự tổn hại do học trò gây nên trong thời gian ở dưới quyền trông coi của họ.
1.3.3. Thời kỳ từ 1959 đến 1995
Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ phong kiến đế quốc”. Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu đi một bộ Dân luật thực thụ, cho nên trong giai đoạn này người viết chỉ nêu ra những quy định về năng lực bồi thường theo Dân luật Nam Kỳ 1972 và BLDS 1995 đã được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực kể từ ngay 1 tháng 7 năm 1996.
Dân luật Nam Kỳ cũng đã xây dựng những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân. Điều 729 có quy định rằng bất cứ hành vi nào gây ra thiệt hại cho người khác đều làm cho người chủ động có lỗi phải bồi thường, và bộ luật này cũng quy định rõ các trường hợp cha mẹ phải chịu trách nhiệm về hành động của con cái vị thành niên còn ở cùng với cha mẹ; người gia chủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của gia bộc; người chủ ủy phải chịu trách nhiệm về hành vi của kẻ thừa sai; người thợ cả phải chịu trách nhiệm về hành vi của công nhân và người học nghề. Sở dĩ những người này phải chịu trách nhiệm vì họ đã không làm tròn trách nhiệm trông coi, quản lý của mình đối với những người đã gây ra thiệt hại, họ có lỗi do vậy họ phải chịu trách nhiệm và lỗi của họ ở đây là lỗi quản lý (Đ731), Đồng thời luật cũng quy định rằng cha mẹ, gia chủ, chủ ủy và thợ cả muốn được miễn trách phải chứng minh rằng họ đã làm hết cách mà không cản được hành vi đã gây ra thiệt hại. Điều 735 cũng đã quy định trách nhiệm của thầy học các trường về hành vi của học trò trong thời gian học trò ở dưới sự kiểm soát của mình, nhưng chỉ phải trách nhiệm nếu đã có lỗi, được chứng minh theo thường luật. Nếu là trường công, trách nhiệm của quốc gia sẽ thay thế trách nhiệm của đương sự.
Về BLDS 1995, có thể nói đây là một bộ luật dân sự hoàn thiện của nước ta từ trước cho tới năm 1995. Bộ luật đã có hẳn một chương riêng (chương 5) quy đình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chương này quy định khá hoàn thiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong chương này quy định rất rõ ràng từng trường hợp bồi thường thiêt hại cụ thể và xác định rõ ai là người có trách nhiệm bồi thường. Điều 611 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân và có sự phân tách trong từng trường hợp cụ thể. Và cũng đã có những quy về bồi thường thiêt hại do người mất năng lực hành vi gây ra mà trong luật của thời kỳ trước không có. Có thể nói Bộ luât là sự hoàn thiện, khắc phục những thiếu xót của pháp luật về vấn đề này trong các quy định của pháp luật trước đó.
CHƯƠNG II
NĂNG LỰC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN
THEO LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi
Người tử đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 là người thành niên (Điều 18) và người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu không rơi vào các trường hợp bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị tuyên là hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23). Theo những quy định này thì khi một người đủ 18 tuổi họ có đầy đủ tư cách chủ thể để bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, có nghĩa là họ có toàn quyền tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện. Như vậy, người từ đủ 18 tuổi nếu không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác có ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của mình hoặc không bị tòa án tuyên là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về những thiệt hại mà mình đã gây ra cho người khác. Khẳng định này được ghi nhận tại khoản 1 Điều 606 “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”. Theo quy định này khi gây ra thiệt hại thì trách nhiệm chính về việc bồi thường là của chính người đã gây ra thiệt hại.
Người từ đủ 18 tuổi nếu không rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật Dân sự 2005 thì xét về cơ bản tâm sinh lý của họ đều đã phát triển một cách hoàn thiện. Họ hoàn toàn có đầy đủ khả năng để nhận thức về sự vật, sự việc và tự quyết định về hành động của mình, hay nói một cách khác nhận thức của họ đã phát triển và đạt đến một mức độ nhất định để có thể nhận biết về thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết trước những hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, đó là hành vi có lợi cho xã hội hay gây hậu quả bất lợi cho người khác và hậu quả xấu cho xã hôi. Nhận thức được những việc mình làm, họ có quyền lựa chọn cách xử sự trước những sự kiện xảy ra trong xã hội, nếu họ lựa chọn hành vi gây thiệt hại cho người khác trong khi hoàn toàn có thể hành động theo một cách khác không gây bất lợi cho người khác và cho xã hội thì họ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người từ đủ 18 tuổi gây ra là trách nhiệm của họ là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật. Người từ đủ 18 tuổi là người đã thành niên và có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn đủ năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ bồi thường thiệt hại và nếu là người gây ra thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này họ đã có đầy đủ năng lực tham gia vào các quan hệ lao động nên xét trên một bình diện chung nhất thì những người này đã có thu nhập và cũng có khả năng tạo ra thu nhập để thực hiện nghĩa vụ của mình.
Xác định trách nhiệm chính thuộc về người gây thiệt hại (từ đủ 18 tuổi) có nghĩa là dù người gây thiệt hại bị rơi vào tình trạng tài sản như thế nào đi nữa thì cũng không thể loại trừ được nghĩa vụ của mình. Có rất nhiều trường hợp sau khi gây ra thiệt hại và phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì người gây ra thiệt hại lại không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ của mình, nhưng đây là trách nhiệm của họ nên không thể chuyển giao cho người khác và người khác cũng không có nghĩa vụ phải thực hiện thay cho họ (trừ trường hợp người nhà của họ hoặc có người khác tự nguyện thay họ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Do vậy nếu người gây thiệt hại tại thời điểm hiện tại không có khả năng về tài sản để thực thi nghĩa vụ của mình thì nghĩa vụ này sẽ phải tiếp tục thực hiện sau khi họ có tài sản. Nhưng một vấn đề được đặt ra là nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là phải bồi thường kịp thời và toàn bộ, mục đích của nguyên tắc này là nhằm bảo đảm quyền lợi cho người bị thiệt hại, là nhằm làm sao để khắc phục một cách nhanh chóng và kịp thời thiệt hại đã xảy ra. Vậy nếu người gây ra thiệt hại không có đủ khả năng tài chính để bồi thường thì nguyên tắc này cũng khó mà thực hiện được. Và nếu như tình trạng này của người gây thiệt hại cứ kéo dài mãi thì đâu là giải pháp tốt nhất để đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại. Khi quyết định trách nhiệm bồi thường đối với trường hợp này nên chăng hãy động viên người thân của những người này thay họ đứng ra thực hiện trách nhiệm bồi thường và sự bồi thường này phải dựa trên tinh thần tự nguyện của họ, cơ quan có thẩm quyền không được ép buộc người thân của người gây thiệt hại phải bồi thường vì đây không phải là trách nhiệm của họ.
2.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật thì đây là những người hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự (người dưới 6 tuổi) hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay nói cách khác là chỉ có năng lực hành vi dân sự một phần (người từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi). Những người này không có hoặc không đủ năng lực để tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại dù rằng thiệt hại đó là do bản thân họ gây. Trong độ tuổi này các chủ thể chưa có khả năng nhận thức hoặc chưa nhận thức một cách đầy đủ và chính xác về những việc mình đã làm cũng như chưa nhận thức được một cách sâu sắc về những thiệt hại có thể xảy ra do hành vi của mình. Do vậy, nếu những người này gây ra thiệt hại thì phải có người đứng ra đại diện cho họ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Mặc dù cùng nằm trong nhóm tuổi người chưa thành niên nhưng việc quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 18 tuổi gây ra lại không giống nhau trong mọi trường hợp. Trong nhóm tuổi này việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại có sự phân biệt giữa hai độ tuổi khác nhau là người chưa thành niên dưới 15 tuổi và người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
2.2.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi
Như đã nói ở trên, người chưa thành niên dưới 15 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự (dưới 6 tuổi) hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ (từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi). Về nguyên tắc thì những người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại và người chưa thành niên đó còn cha mẹ thì cha mẹ buộc phải bồi thường toàn bộ thiệt hại và tham gia tố tụng dân sự với tư cách là bị đơn. Trong trường hợp này thì người có trách nhiệm chính và chủ yếu phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường chính là cha, mẹ của người đã gây ra thiệt hại, vì theo quy định của pháp luật “người chưa thành niên từ đủ 6 đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ trường hợp giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác” (Điều 20 khoản 1 BLDS 2005) còn “người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” (Điều 21 BLDS 2005). Những người chưa thành niên dưới 15 tuổi không những chưa có năng lực hành vi dân sự và năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ mà những người này còn chưa có năng lực hành vi lao động để tham gia vào các quan hệ lao động để tạo ra thu nhập và có tài sản riêng. Vì vậy, phần lớn những người nằm trong độ tuổi này không có tài sản và khả năng kinh tế độc lập để tự chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha, mẹ của người gây ra thiệt hại được quy định rõ tại khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 “Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”. Thực tiễn xét xử của cơ quan Tòa án có thẩm quyền là những minh chứng xác thực cho quy định này:
Ví dụ: Vụ án hình sự xét xử các bị cáo Nguyễn Tuấn Anh sinh ngày 24/4/1992; Hoàng Văn Lê sinh năm 1987; Nguyễn Thế Trung sinh năm 1982; Nguyễn Văn Việt sinh năm 1988 về tội cướp giật tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nội dung vụ án như sau: Khoảng 15 giờ ngày 05/12/2006 Hoàng Văn Lê sinh năm 1987 ở Sóc Sơn - Hà Nội đi xe máy Dream BKS 99H2 - 7863 trở Nguyễn Tuấn Anh sinh ngày 24/4/1992 cùng ở Sóc Sơn - Hà Nội, còn Nguyễn Thế Trung sinh năm 1982 ở Đông Anh - Hà Nội đi xe máy WAVE BKS 12F6 - 4436 trở Nguyễn Văn Việt sinh ngày 06/6/1988 ở Sóc Sơn - Hà Nội đi từ Đông Anh đến thị xã Phúc Yên với mục đích trộm cắp xe máy. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày cả bốn tên đi trên đoạn đường 301 từ trung tâm thị xã Phúc Yên đi phường Xuân Hòa - thị xã Phúc Yên. Tuấn Anh quan sát thấy chị Đàm Thị Hà sinh năm 1969 ở phường Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên trả tiền mua xăng ở xã Nam Viên và ngồi sau xe máy do anh Nguyễn Xuân Cương sinh năm 1961 ở phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên điều khiển xe chạy cùng c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam.doc