MỞ ĐẦU. 1
1.Lý do chọn đề tài. 1
2. Mục đích của đề tài . 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu . 1
1. TỔNG QUAN . 2
1.1. Vật liệu polyme compozit trên cơ sở nhựa nhiệt dẻo và chất độn gia
cường dạng hạt . 2
1.2. Giới thiệu chung vật liệu polyme dẫn nhiệt. 4
1.3. Đèn LED và giải pháp tản nhiệt bằng vật liệu polyme. 7
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước. 9
1.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới . 9
1.4.2. Các nghiên cứu trong nước . 14
2. THỰC NGHIỆM. 16
2.1. Nguyên liệu . 16
2.1.1. Chất tạo màng . 16
2.1.2. Chất độn gia cường . 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu. 17
2.2.1. Phương pháp khuấy trộn tốc độ cao. 17
2.2.2. Phương pháp khuấy trộn tốc độ cao kết hợp rung siêu âm. 17
2.2.3. Phương pháp đo hệ số dẫn nhiệt . 17
2.2.4. Nghiên cứu hình thái tương tác pha trong vật liệu . 17
43 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/02/2022 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu tăng cường khả năng tản nhiệt của màng phủ trên cơ sở nhựa epoxy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xảy ra là do sự di động của các điện tử tự do (free
electron) giữa hai điện áp khác nhau. Dòng điện tử tự do mang điện âm (-)
này di động sinh ra dòng điện đi từ điện áp cao đến thấp như một dòng nước
chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp. Vì vậy, điện tử tự do trong kim loại được gọi là
hạt tải điện (charge carrier). Gỗ, đá và những polyme thông thường khác là
chất cách điện vì không có những hạt tải điện. Sự dẫn điện, bán dẫn và cách
điện được giải thích rõ ràng qua khái niệm khe dải năng lượng (energy band
gap) trong vật lý chất rắn (solid state physics).
Tuy nhiên, có rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để cải thiện tính
chất của chúng và đặc biệt là khả năng dẫn nhiệt. Mục đích tạo ra vật liệu có
độ dẫn nhiệt cao để giúp cho quá trình tiêu tán nhiệt hiệu quả. Theo cách này,
nhiệt độ làm việc được giữ ở mức thấp, tránh các khiếm khuyết cách điện do
quá nhiệt. Các polyme thể hiện độ dẫn nhiệt thấp (λpolyme ≈ 0.2 W/m.K) do ba
nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sự định hướng ngẫu nhiên của các phân đoạn mạch phân tử polyme.
- Liên kết lỏng lẻo giữa các mạch.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
5
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
- Các dao động chỉ truyền hiệu quả dọc theo 1 chuỗi xác định (1 chiều)
Hình 1.1. Phân đoạn phân tử polyme
Độ dẫn nhiệt của một vài polyme điển hìnhđược liệt kê trong bảng dưới
đây.
Bảng 1.1. Độ dẫn nhiệt của một vài polymer điển hình [6]
Polyme Độ dẫn nhiệt (W/m.K)
LDPE 0.28-0.32
HDPE 0.38-0.58
Nhựa Epoxy 0.17-0.21
Polypropylen 0.18-0.24
Nhựa phenol 0.24-0.29
Truyền phonon là cơ chế dẫn nhiệt chính trong hầu hết các polyme. Các
phonon chuyển năng lượng nhiệt thông qua các tương tác với nhau và với các
hạt hạ nguyên tử [7]. Các khiếm khuyết trong mạng lưới như các vết gẫy, lỗ
trống và độ không tinh khiết có thể đưa đến sự không điều hòa từ đó làm tán
xạ các phonon. Trong hệ đa pha như các vật liệu polyme compozit quá trình
tán xạ cũng diễn ra khi các phonon lan truyền qua bề mặt phân cách giữa các
pha.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
6
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Trong kim loại hay các loại vật liệu gốm có cấu trúc tinh thể, các dao
động có thể truyền hiệu quả theo hai hoặc ba chiều. Chính vì vậy, giá trị độ
dẫn nhiệt của các loại vật liệu này khá cao:
- λkim loại ≈ 100 W/mK
- λgốm ≈ 1 – 100 W/mK
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể vật liệu kim loại
Để cải thiện khả năng dẫn nhiệt của vật liệu polyme, áp dụng quá trình
trùng hợp điện để sản xuất các mảng liên kết của các sợi nano polime, các nhà
nghiên cứu của Mỹ đã phát triển một vật liệu polyme có thể dẫn nhiệt tốt hơn
20 lần so với polyme ban đầu. Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) vừa tìm
ra một cách biến polyme được sử dụng rộng rãi nhất (polyethylene), thành
một chất dẫn nhiệt giống hệt như đa số kim loại, nhưng vẫn là một chất cách
điện. Phương pháp của nhóm tác giả sử dụng là định hướng các mạch phân tử
PE từ dung dịch, vật liệu tạo thành có độ dẫn nhiệt gấp 300 lần PE ban đầu.
Polythiophen cũng là vật liệu polyme dẫn nhiệt mới được tổng hợp có độ dẫn
lên đến 4,4 W/mK ở nhiệt độ phòng. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới
chỉ bắt đầu, chưa thể ứng dụng trong thực tế.
Việc đưa chất độn vào trong các polyme cách điện là một cách tiếp cận
thông dụng để cải thiện các tính chất điện, tính chất cơ và tính chất nhiệt. Các
vật liệu polyme cách điện được cải thiện có thể làm việc ở nhiệt độ cao với
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
7
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
ứng suất điện lớn hơn. Độ dẫn nhiệt của polyme được tác động theo cách
truyền thống bằng việc đưa vào các chất độn dẫn nhiệt cao bao gồm:
Graphite, than đen, sợi cacbon, gốm hay các hạt kim loại [8].
Bảng 1.2. Độ dẫn nhiệt của một số chất độn
Khoảng dẫn
nhiệt (W/m.K)
Chất độn
Dưới 10
Aramid fiber (0.04-0.05), calcium carbonate (2.4-3),
ceramic beads (0.23), glass fiber (1), magnesium oxide (8-
32), fumed silica (0.015), fused silica (1.1), molybdenum
disulfide (0.13-0.19), PAN-based carbon fiber (9-100),
sand (7.2-13.6), talc (0.02), titanium dioxide (0.065),
tungsten (2.35), vermiculite (0.062-0.065)
10-29
Aluminum oxide (20.5-29.3), pitch-based carbon fiber (25-
1000)
100-199 Graphite (110-190), nickel (158)
Trên 200
Aluminum flakes and powder (204), beryllium oxide (250),
boron nitride (250-300), copper (483), gold (345), silver
(450)
Tuy nhiên, để có thể sử dụng các vật liệu độn này ứng dụng trong các
thiết bị điện, cần xem xét đến tính chất cách điện của vật liệu. Đặc biệt là các
ứng dụng tản nhiệt cho đèn LED cần có các loại vật liệu có độ dẫn nhiệt cao
nhưng vẫn đảm bảo khả năng cách điện.
1.3. Đèn LED và giải pháp tản nhiệt bằng vật liệu polyme
LED (Light Emitting Diode – điốt phát quang) được coi là giải pháp ánh
sáng của tương lai. So với các phương pháp ánh sáng thông thường như: bóng
đèn sợi đốt, bóng halogen, bóng đèn huỳnh quang, sử dụng bóng đèn LED
đem đến nhiều lợi thế: tiết kiệm năng lượng, hiệu suất phát sáng cao, tuổi thọ
kéo dài, giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường. Giải thưởng Nobel Vật lý
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
8
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
2014 được công bố hôm 7/10, tôn vinh phát minh các điốt phát quang LED
xanh dương, có khả năng tạo ra các nguồn ánh sáng trắng tiết kiệm năng
lượng và sáng hơn. Các nhà khoa học được vinh danh là Isamu Akasaki,
Hiroshi Amano và Shuji Nakamura.
Để nâng cao tuổi thọ cũng như hiệu suất làm việc của bóng đèn LED,
vấn đề tản nhiệt cho đèn LED mang ý nghĩa quyết định. Các bóng đèn LED
hiện thời có tản nhiệt thường được làm bằng nhôm:
Hình 1.3. Bóng đèn LED sử dụng tản nhiệt nhôm
Việc sử dụng tấm tản nhiệt bằng kim loại mang lại hiệu suất tản nhiệt
cao, tuy nhiên nó cũng có một số bất lợi như: khối lượng lớn, gia công phức
tạp, chi phí nguyên liệu cao. Điều này đặc biệt bất lợi với các loại đèn LED có
công suất cao khi phải sử dụng các tấm tản nhiệt có kích thước lớn và nặng
nề. Giải pháp sử dụng các tấm tản nhiệt được làm từ vật liệu polyme nhằm
khắc phục các hạn chế nói trên. Trong lĩnh vực thiết bị điện, điện tử, các loại
vật liệu polyme thường được biết đến trong các ứng dụng cách điện do khả
năng chế tạo dễ dàng, khối lượng nhẹ và chi phí thấp. Tuy nhiên, độ dẫn nhiệt
thấp dẫn đến một số hạn chế ứng dụng của loại vật liệu này. Do đó, các nỗ lực
hiện nay đang được tiến hành nhằm cải thiện khả năng dẫn nhiệt của vật liệu
polyme nhằm mở rộng khả năng ứng dụng của chúng trong lĩnh vực thiết bị
điện, điện tử nói chung và chế tạo đèn LED nói riêng.
Tấm tản nhiệt nhôm
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
9
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
1.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới
a. Microcompozit
Vật liệu microcompozit chứa một chất nền polyme và các hạt micro với
kích thước điển hình trong khoảng 1-100 µm. Trong trường hợp hàm lượng
chất độn lớn (trên 30 % khối lượng), các vật liệu thể hiện độ dẫn nhiệt cao so
với polyme ban đầu. Trong trường hợp này, 2 thông số quan trọng có thể
được xem như đóng vai trò chủ yếu trong việc xác định độ dẫn nhiệt của vật
liệu microcomposite, đó là độ dẫn nhiệt của chất độn và tương tác giữa chúng.
Bảng 3 đưa ra nghiên cứu của Kochetov [9] trong đó vật liệu bao gồm
nhựa epoxy (EP) với các hạt micro nhôm oxit và oxit silic.
Bảng 1.3. Độ dẫn nhiệt của microcompozit trên cở sở nhựa epoxy ở
18°C [9,10]
Vật liệu % KL
λEP
(W/mK)
λcđ
(W/mK)
Kích thƣớc hạt
(µm)
λcompozit
(W/mK)
EP-Al2O3 31.2 0.17 20-30 4 0.67
EP-SiO2 45 0.17 0.7-1.7 20 0.72
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở hàm lượng Al2O3 thấp, độ dẫn nhiệt của vật
liệu là tương tự nhau. Các hạt micro với độ dẫn nhiệt cao và hàm lượng chất
độn cao có thể tăng cường tốc độ truyền nhiệt như là độ dẫn nhiệt chủ yếu có
được thông qua chúng.
Huang và đồng sự [11] đã xác định độ dẫn nhiệt của vật liệu
poly(phenylene) sulfit dựa trên bo nitrit (BN). Có một sự liên quan tuyến tính
đã được tìm thấy giữa hàm lượng BN và độ dẫn nhiệt của vật liệu. Tính chất
này có thể được đóng góp bởi tương tác giữa các hạt. Các chuỗi dẫn trực tiếp
dòng nhiệt có thể đưa đến 1 sự gia tăng của độ dẫn nhiệt.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
10
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Khả năng hình thành các chuỗi hạt dẫn nhiệt ở hàm lượng chất độn cao
đã được nghiên cứu bởi Agari và Uno [12]. Trong vật liệu chứa hàm lượng
chất độn cao, các chuỗi dẫn có thể được hình thành ở nơi mà khoảng cách
giữa các hạt là nhỏ hơn trong các phần khác, đưa đến độ dẫn nhiệt cao dọc
theo các chuỗi.
Một phần trong nghiên cứu của Weidenfeller và cộng sự [13] được tóm
tắt trong bảng 4.
Bảng 1.4. Độ dẫn nhiệt của microcompozit trên cở sở polypropylene
Vật liệu % KL
λPP
(W/mK)
λcđ
(W/mK)
λcompozit
(W/mK)
PP-đồng 30 0.25 400 1.25
PP-talc 30 0.25 10.6 2.5
Sự khác biệt lớn của độ dẫn nhiệt giữa 2 vật liệu được cho là do sự khác
biệt ghép nối bên trong của các chất độn như là kết quả không thể giải thích
được chỉ bởi sử dụng tính chất của các hạt.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng ở hàm lượng chất độn thấp (ít hơn 20
% KL), sự cải thiện độ dẫn nhiệt thường được thấy ít quan trọng. Độ dẫn
nhiệt thấp của nền polymer quyết định chủ yếu đến độ dẫn nhiệt của vật liệu
compozit.
Nhóm tác giả Mousam Choudhury và cộng sự [14] đã nghiên cứu ảnh
hưởng của quá trình biến đổi bề mặt bột nhôm nitrit đến các đặc trưng nhiệt
và điện của vật liệu polyme compozit trên cơ sở nhựa epoxy. Để cải thiện khả
năng phân tán của các hạt chất độn nhôm nitrit ở các cấp độ hạt micro và nano
trong chất nền polyme, nhóm tác giả đã sử dụng hợp chất
aminopropyltriethoxysilan để biến đổi bề mặt của nhôm nitrit. Bên cạnh đó,
kết quả đo tính chất điện và nhiệt cho biết rằng việc đưa hợp chất biến đổi bề
mặt đã cải thiện hệ số dẫn nhiệt và tính chất điện của vật liệu nanocompozit
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
11
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
so với trường hợp không dùng chất biến đổi bề mặt. Ở 20% chất độn nhôm
nitrit có và không có biến đổi bề mặt có một sự gia tăng đáng kể độ dẫn nhiệt
so với chất nền epoxy (từ 0,167 W/mK lên 0,207 W/mK)
b. Nanocompozit
Hình dạng các chất độn nano có thể là 1 chiều (dạng sợi), 2 chiều (dạng
tấm hay phiến) hoặc 3 chiều (dạng cầu) nhưng phải có ít nhất một thông số có
kích thước nhỏ hơn 100 nm. Trong trường hợp của nanocompozit, sự phân bố
của chất độn sẽ phải đồng nhất tối đa và nếu các kết tụ xuất hiện, kích thước
hạt trung bình của chúng phải thấp hơn 100 nm. Một số vật liệu đã được chế
tạo bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau [15, 16]. Nói chung, việc đưa các
chất độn nano vào vật liệu polymer có thể đưa đến độ dẫn nhiệt cao hơn khi
so sánh với polymer nền.
Kochetov [9] đã nghiên cứu ảnh hưởng của các hạt BN đến độ dẫn nhiệt
của vật liệu trên cơ sở nhựa epoxy và kết quả được liệt kê trong bảng 5.
Bảng 1.5. Độ dẫn nhiệt của nanocompozit trên cở sở nhựa epoxy
Vật liệu % KL
λEP
(W/mK)
Hình dạng Kích thƣớc hạt
λcompozit
(W/mK)
EP-BN 5.8 0.17 Cầu 70 nm 0.240
EP-BN 5.8 0.17 Tấm, phiến 0.5 µm 0.274
EP-BN 5.8 0.17 Cầu 1.5 µm 0.242
Mặc dù kích thước hạt trung bình của BN tăng từ 70 nm (nanocompozit)
đến 1500 nm (microcompozit), độ dẫn nhiệt là gần như không đổi. Sự khác
biệt giữa các hạt 70 nm và 500 nm có thể được cho là do hình dạng chứ không
phải là do sự khác biệt về kích thước. Trong trường hợp của các hạt dạng tấm,
do tỷ lệ bề mặt cao, khoảng cách trung bình giữa các hạt là nhỏ hơn. Khoảng
cách giữa các hạt giảm có thể là lý do cho việc truyền nhiệt hiệu quả hơn.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
12
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Han và đồng nghiệp đã xác định độ dẫn nhiệt của nhựa epoxy với việc
thêm các chất độn BN với kích thước hạt khác nhau. BN-micro, BN-meso và
BN-nano được sử dụng. Trong trường hợp BN-nano, đã quan sát thấy các kết
tụ lục giác kích thước micro . Các tác giả đã thấy rằng không có sự khác biệt
lớn trong độ dẫn nhiệt giữa các vật liệu đã đề cập ở trên. Do đó, họ kết luận
rằng ở nồng độ chất độn thấp và trung bình, kích thước hạt không phải là yếu
tố quan trọng cho độ dẫn nhiệt của vật liệu.
Trong cả hai trường hợp đã được đề cập, kích thước của các hạt BN
không ảnh hưởng nhiều đến độ truyền nhiệt của vật liệu. Ngược lại, các hạt
với tỷ lệ bề mặt cao có thể ảnh hưởng đến độ dẫn nhiệt theo cách tích cực. Tỷ
lệ bề mặt cao có thể gia tăng sự hình thành mạng lưới dẫn bởi sự làm giảm
giới hạn thấm qua và rút ngắn các vai trò bất lợi kháng nhiệt tương tác pha
trong việc truyền nhiệt [17]. Tuy nhiên, việc phân tán tốt các hạt kích thước
nano với tỷ lệ bề mặt lớn hơn là khó hơn do sự gia tăng tương tác giữa các hạt
[18].
Độ dẫn nhiệt của các hạt kích thước nano được thừa nhận là có cùng
khoảng độ dẫn nhiệt với vật gốc ban đầu. Tuy nhiên, hiệu quả của cách tiếp
cận này là không chắc chắn. Độ dẫn nhiệt của các chất độn bị ảnh hưởng bởi
cấu trúc tinh thể của chúng, độ tinh khiết, độ hoàn hảo của cấu trúc, các hiện
tượng tán xạ phonon, và có thể khác biệt so với cấu trúc dạng khối của vật
liệu ban đầu [19].
Trong bảng 6, hai vật liệu khác nhau dựa trên nhựa epoxy đã được xác
định [9-10, 20].
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
13
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Bảng 1.6. Độ dẫn nhiệt của nanocompozit trên cở sở nhựa epoxy
Vật liệu % KL
λEP
(W/mK)
λcđ
(W/mK)
Kích thƣớc hạt
λcompozit
(W/mK)
EP-AlN 0.7 0.17 150-320 60 nm 0.179
EP-MgO 0.7 0.17 45-50 22 nm 0.175
Nhôm nitrit và magie oxit được sử dụng ở cùng hàm lượng. Kết quả cho
biết rằng bản chất độ dẫn nhiệt của các chất độn không đóng góp quan trọng
cho độ dẫn nhiệt của vật liệu.
Trong trường hợp của AlN, chất độn được mong chờ sẽ có độ dẫn nhiệt
của vật liệu cao hơn do độ dẫn nhiệt của chất độn cao hơn, kích thước hạt
trung bình lớn hơn (bởi yếu tố 3). Do đó, có thể thấy rằng không phải độ dẫn
nhiệt của chất độn cao sẽ đưa đến độ dẫn nhiệt của vật liệu cao.
Việc sử dụng các tác nhân ghép nối đã được nỗ lực bởi nhiều nhóm
nghiên cứu để có được tương tác tốt hơn giữa chất độn và chất nền [21]. Nó
được thấy rằng khả năng kháng nhiệt giữa bề mặt tương tác pha suy giảm,
loại bỏ tán xạ phonon khi bề mặt chất độn được xử lý. So sánh kết quả giữa
các vật liệu có và không có biến đổi bề mặt, những người thực hiện thường
cho biết độ dẫn nhiệt cao hơn mẫu sau. Kochetov [9], Irwin [22] và
Choudhury [23] đã nghiên cứu ảnh hưởng của tác nhân ghép nối đến độ dẫn
nhiệt của vật liệu.
Compozit của nhựa epoxy và BN đã được nghiên cứu bởi Kochetov. Độ
dẫn nhiệt của compozit là cao hơn (gần 3%) khi tác nhân ghép nối silane được
sử dụng. Các nanocompozit polyamide được nghiên cứu bởi Irwin. Compozit
với các chất độn nano được xử lý bề mặt thể hiện độ dẫn nhiệt cao hơn (trung
bình 11%) so với khi không được xử lý và nó được cho là do tương tác giữa
chất độn và chất nền được cải thiện. Cuối cùng, Choudhury đã nghiên cứu
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
14
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
epoxy – AlN nanocompozit và độ truyền nhiệt hiệu quả hơn (cải thiện trung
bình 13%) được tìm thấy cho compozit khi bề mặt chất độn nano được xử lý.
Việc cải thiện độ dẫn nhiệt được tin rằng do sự liên quan đến tương tác
giữa chất độn và chất nền. Khả năng kết dính tốt hơn giữa chất độn và
polymer nền có thể làm giảm sự tán xạ phonon đưa đến giá trị độ dẫn nhiệt
cao hơn. Nhiều mô hình và lý thuyết về tương tác pha đã được đưa ra để giải
thích vai trò của chúng.
Sự kết tụ các hạt đã được báo cáo trong các tài liệu theo một hướng
nghiên cứu khác rằng, nó có ảnh hưởng đến độ dẫn nhiệt của vật liệu. Han
[24] đã thông báo sự gia tăng độ dẫn nhiệt của vật liệu trên cơ sở nhựa epoxy
khi sự kết tụ của các hạt xuất hiện. Evans và đồng nghiệp đã phát triển một
mô hình để làm rõ đóng góp của các kết tụ đến độ dẫn nhiệt. Họ đã cho biết
độ dẫn nhiệt của các nanocompozit tăng khi các hạt nano kết tụ.
1.4.2. Các nghiên cứu trong nước
Trong lĩnh vực nghiên cứu vật liệu tản nhiệt trong các thiết bị điện, điện
tử ở nước ta hiện nay mới chỉ thấy các nhóm nghiên cứu của phòng nghiên
cứu vật liệu cácbon nano, Viện Khoa học Vật liệu nghiên cứu chế tạo loại
kem tản nhiệt có chứa CNTs dùng trong bộ phận tản nhiệt của máy tính.
Nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Đoàn Đình Phương và cộng sự ở Phòng
Nghiên cứu Vật liệu Kim loại Tiên tiến, Viện Khoa học Vật liệu cũng đã bước
đầu nghiên cứu chế tạo vật liệu kim loại có chứa CNTs có độ dẫn nhiệt cao
bằng phương pháp luyện kim bột, định hướng ứng dụng trong ngành kỹ thuật
điện, điện tử.
Lĩnh vực nghiên cứu vật liệu polyme dẫn nhiệt và đặc biệt là các vật liệu
polyme dẫn nhiệt có khả năng ứng dụng trong thực tế mới chỉ được bắt đầu ở
phòng nghiên cứu vật liệu polyme & compozit, viện Khoa học vật liệu.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
15
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Từ năm 2015, tập thể nghiên cứu của phòng bắt đầu nghiên cứu về vật
liệu polyme dẫn nhiệt trên cơ sở nhựa nhiệt dẻo polypropylen, các chất độn
được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm talc, nhôm nitrit và bo nitrit. Các
nghiên cứu bước đầu cho thấy các kết quả khá thú vị là bột khoáng talc có hệ
số dẫn nhiệt thấp nhưng lại gia tăng hệ số dẫn nhiệt cao hơn cho nền polyme
so với hai loại chất độn còn lại là nhôm nitrit và bo nitrit ở cùng nồng độ so
sánh. Tuy nhiên, hệ số dẫn nhiệt của các vật liệu polyme chế tạo được trong
các nghiên cứu này chưa cao trong khoảng 0,6 – 0,8 W/m.K [25].
Tiếp tục hướng nghiên cứu về vật liệu polyme dẫn nhiệt, trong năm 2016
tập thể phòng tập trung nghiên cứu gia tăng khả năng dẫn nhiệt của vật liệu
trên cơ sở nhựa epoxy và polycacbonat. Trong nghiên cứu này, một số vấn đề
về cơ chế dẫn nhiệt của vật liệu cũng đã được chỉ ra. Hệ số dẫn nhiệt của vật
liệu cao nhất đạt được là 1,143 W/m.K cho vật liệu compozit PC/BN với tỷ lệ
khối lượng 60/40. Tuy nhiên, đối với vật liệu compozit trên cơ sở nhựa
epoxy, hệ số dẫn nhiệt của vật liệu vẫn chưa được cải thiện đáng kể [26].
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
16
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Nguyên liệu
2.1.1. Chất tạo màng
a. Nhựa epoxy
- Nhựa epoxy Epotec YD 128 (Thái Lan) với các đặc trưng sau:
Đương lượng epoxy là 185~194 g/eq.
Độ nhớt ở 25 °C là 11000~14000 cPs.
Hàm rắn 100%
b. Chất đóng rắn
- Chất đóng rắn Epotec TH 703: chất đóng rắn polyamine. Là dạng biến
tính của cycloaliphatic polyamine, là chất lỏng màu vàng nhạt.
c. Nhựa than đá: Được chế tạo từ sản phẩm phụ của quá trình cốc hóa
- Nhiệt độ chảy mềm : 65-70 0C
- Màu sắc : đen
2.1.2. Chất độn gia cường
a. Khoáng talc
Khoáng talc có nguồn gốc từ Thanh Sơn, Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ với
thành phần chủ yếu là các oxit kim loại trong đó SiO2 chiếm 61,8% và MgO
chiếm 28,5%. Đề tài sử dụng hai loại bột talc: có và không có biến đổi bề mặt
bằng hợp chất amin silan.
b. Nhôm nitrit
Bột nhôm nitrit (AlN) có nguồn gốc từ Trung Quốc, kích thước hạt trung
bình trong khoảng 5-10 µm.
c. Bột kim loại và oxit kim loại
- Bột kim loại: bột đồng, bột nhôm
- Bột oxit kim loại: oxit sắt, oxit nhôm, oxit kẽm.
Các nguyên vật liệu đều là sản phẩm thương mại của Trung Quốc.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
17
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, để đánh giá ảnh hưởng của phương pháp chế tạo
mẫu đến khả năng dẫn nhiệt của vật liệu, hai phương pháp chế tạo mẫu được
áp dụng. Hai phương pháp này bao gồm phương pháp khuấy trộn tốc độ cao
có gia nhiệt và phương pháp khuấy trộn tốc độ cao kết hợp rung siêu âm.
2.2.1. Phương pháp khuấy trộn tốc độ cao
Các chất độn gia cường được trộn hợp đồng nhất với nhựa epoxy Epotec
YD128 ở nhiệt độ 70°C ở các tỷ lệ khối lượng khác nhau sử dụng thiết bị
khuấy cơ. Ủ hỗn hợp ít nhất 24 tiếng sau đó khuấy tốc độ cao ở tốc độ 1000
vòng/phút ở nhiệt độ 70°C. Quá trình khuấy kết thúc sau 8 giờ, hỗn hợp được
pha chất đóng rắn và tạo mẫu đo hệ số dẫn nhiệt.
2.2.2. Phương pháp khuấy trộn tốc độ cao kết hợp rung siêu âm
Trong phương pháp chế tạo mẫu này, hỗn hợp sau khi đã được trộn hợp
bằng phương pháp khuấy trộn tốc độ cao được trình bày trong mục 2.2.1, hỗn
hợp tiếp tục được gia nhiệt lên khoảng 70°C sau đó đưa vào bể rung siêu âm
đã được gia nhiệt đến 70°C trong thời gian 2 giờ. Thiết bị sử dụng của hãng
Branson, model 3510E-MTH (Mỹ), công suất siêu âm 100W, tần số rung
42kHz.
2.2.3. Phương pháp đo hệ số dẫn nhiệt
Hệ số dẫn nhiệt của vật liệu trên cơ sở nhựa epoxy và các chất độn dạng
hạt được đo trên thiết bị THB 500 của hãng Linseis (Mỹ) tại phòng thí
nghiệm trung tâm công nghệ cao, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam. Mẫu
dạng hình chữ nhật kích thước 40 x 60 x 5 mm.
2.2.4. Nghiên cứu hình thái tương tác pha trong vật liệu
Hình thái bề mặt gẫy của vật liệu được nghiên cứu bằng kính hiển vi
điện tử quét phân giải cao (FE-SEM), trên thiết bị Hitachi S-4800 tại phòng
thí nghiệm trọng điểm, Viện khoa học vật liệu.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
18
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
Mẫu nghiên cứu được ngâm vào nitơ lỏng, dùng kìm bẻ gẫy, bề mặt gẫy
được phủ một lớp platin mỏng bằng phương pháp bốc bay trong chân không.
Ảnh SEM bề mặt gãy thể hiện khả năng phân tán độ tương hợp giữa các pha
trong mẫu vật liệu đo.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
19
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Trong khuân khổ của luận văn này, các nghiên cứu tăng cường khả năng
dẫn nhiệt của vật liệu compozit trên cơ sở nhựa epoxy tập trung vào phương
pháp chế tạo cũng như sử dụng các loại chất độn dạng hạt khác nhau. Ngoài
việc tiếp tục ứng dụng khoáng talc, các chất độn dạng hạt có hệ số dẫn nhiệt
cao như các loại bột kim loại và oxit kim loại cũng được sử dụng.
3.1. Ảnh hƣởng của khả năng phân tán các hạt chất độn
Để xác định ảnh hưởng của khả năng phân tán các hạt chất độn trong
chất nền epoxy đến khả năng dẫn nhiệt của vật liệu, nhóm nghiên cứu thực
hiện đề tài đã thử nghiệm hai phương pháp chế tạo mẫu khác nhau bao gồm:
phương pháp khuấy trộn tốc độ cao và phương pháp khuấy trộn tốc độ cao kết
hợp với rung siêu âm để phân tách các hạt chất độn. Kết quả đo hệ số dẫn
nhiệt được thể hiện trên bảng 3.1 và hình 3.1.
Bảng 3.1. Hệ số dẫn nhiệt của các mẫu vật liệu Epoxy/talc chế tạo bằng các
phương pháp khác nhau
Ký hiệu
Thành
phần
Tỷ lệ
khối
lƣợng
Phƣơng pháp
chế tạo
λepoxy
(W/m.K)
*λchất độn
(W/m.K)
λcompozit
(W/m.K)
E0 Epoxy 100/0 - 0,237 - 0,237
ET73-K Epoxy/talc 70/30 Khuấy tốc độ
cao
0,237 10,6
0,622
ET73 Epoxy/talc 70/30 Khuấy tốc độ
cao có rung
siêu âm
0,237 10,6 1,028
*
: theo tài liệu tham khảo
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
20
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
ET73-K ET73
Hình 3.1. Biểu đồ đo hệ số dẫn nhiệt mẫu vật liệu epoxy/talc chế tạo bằng
phương pháp: khuấy tốc độ cao (ET73-K) và khuấy kết hợp rung siêu âm
(ET73).
Nhìn vào bảng kết quả đo hệ số dẫn nhiệt thấy rằng bột khoáng talc đã
có tác dụng gia tăng hệ số dẫn nhiệt của vật liệu từ 0,237 W/m.K của mẫu
epoxy (E0) ban đầu lên 0,622 W/m.K của mẫu Epoxy/talc (chứa 30% bột
khoáng talc, ET73-K). Đặc biệt, khi hỗn hợp được khuấy tốc độ cao kết hợp
rung siêu âm, hệ số dẫn nhiệt của vật liệu tăng đáng kể lên đến 1,028 W/m.K.
Xem xét kỹ hơn khả năng phân tán của các hạt chất độn trong chất nền
epoxy qua ảnh kính hiển vi điện tử quét SEM (hình 3.2) cho thấy các hạt chất
độn phân tách và phân tán đồng đều hơn khi hỗn hợp được rung siêu âm so
với trường hợp hỗn hợp chỉ được khuấy tốc độ cao.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Viện khoa học vật liệu
21
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Linh
(a) (b)
Hình 3.2. Ảnh SEM hình thái bề mặt gẫy vật liệu compozit Epoxy/talc với
phương pháp chế tạo: khuấy tốc độ cao (a) và khuấy kết hợp rung
siêu âm (b)
Quá trình truyền nhiệt trong các vật liệu rắn chủ yếu thông qua quá trình
truyền dao động. Rõ ràng, sự phân tán của các hạt chất độn trong chất nền hay
nói cách khác là sự đồng nhất của vật liệu đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng truyền nhiệt trong vật liệu. Bằng phương pháp khuấy tốc độ cao
kết hợp rung siêu âm giúp cho quá trình phân tán các hạt chất độn trong chất
nền tốt hơn từ đó gia tăng hệ số dẫn nhiệt của vật liệu.
Trong quá trình chế tạo mẫu nghiên cứu tiếp theo, nhóm nghiên cứu tiếp
tục sử dụng phương pháp khuấy tốc độ cao kết hợp với rung siêu âm để chế
tạo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa_luan_nghien_cuu_tang_cuong_kha_nang_tan_nhiet_cua_mang.pdf