Mục lục
Tóm tắt
Mục lục
Danh sách các hình
Danh sách các bảng
Bảng thuật ngữ Anh – Việt
Chương 1 1
Tổng quan e-Learning 1
1.1 Khái niệm và lợi ích của e-Learning 1
1.1.1 Khái niệm 1
1.1.2 Lợi ích của e-Learning 3
1.1.3 Tại sao phải e-Learning ? 4
1.2 Quá trình hình thành và phát triển e-Learning 5
1.2.1 CBT (Computer Based Training): 5
1.2.2. WBT (Web based Training): 6
1.2.3. Chuẩn hóa e-Learning: 6
1.2.4. Sắp xếp và điều hướng e-Learning: 7
1.3 Xu thế e-Learning trên thế giới 7
1.4 Ứng dụng e-Learning tại Việt Nam 9
1.5 Hướng tiếp cận của khóa luận 10
Chương 2 12
Khóa học điện tử 12
2.1 Khóa học điện tử hoàn chỉnh 12
2.2 Khóa học theo chuẩn 13
2.2.1 Chuẩn là gì ? 13
2.2.2 Chuẩn e-Learning 13
2.2.3 Sự khác nhau giữa một chuẩn và một đặc tả 15
2.2.4 Đóng gói nội dung theo chuẩn SCORM 16
2.3 Khóa học theo nhu cầu 18
2.3.1 Khóa học động? 18
2.3.2 Mô hình người học 19
2.3.3 Mô hình đánh giá 20
Chương 3 22
Mô hình khóa học thích nghi 22
3.1 Cấu trúc khóa học thích nghi 22
3.1.1 Phương pháp luận, kỹ thuật xây dựng khóa học thích nghi 22
3.1.2 Cấu trúc khóa học thích nghi 25
3.2 Đánh giá người học 26
3.2.1 Mô hình người học 26
3.2.2 Cách đánh giá các kết quả test để có được trình độ của người học 28
3.3 Đánh giá các đối tượng học 29
3.3.1 Cách đánh trọng số các thuộc tính LO 29
3.3.2 Hàm đánh giá tổng hợp các giá trị thuộc tính của LO để lựa chọn LO 30
Chương 4 32
Xây dựng khóa học 32
4.1 Khóa học C++ 32
4.2 Các bước xây dựng 35
4.2.1 Xây dựng khóa học C++ 35
4.2.2 Xây dựng hệ quản trị 38
4.2.3 Xây dựng cơ sở dữ liệu cho hệ quản trị 39
4.3 Công cụ phát triển 42
4.4 Đánh giá kết quả 42
Phụ lục 43
Tài liệu tham khảo 46
56 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 2380 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu và ứng dụng học thích nghi trong đào tạo điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới đang xây dựng một mô hình chuẩn để sắp xếp và điều hướng nội dung học hiệu quả, tạo khóa học động phù hợp với đặc trưng của từng học viên. Trong quá trình phát triển các chuẩn nội dung, các tổ chức cũng đã đề xuất ra mô hình điều hướng và sắp xếp. Trong tương lai, khi các chuẩn nội dung phát triển đến giai đoạn ổn định và thích nghi, mô hình sắp xếp và điều hướng nội dung sẽ được chuẩn hóa và và tích hợp vào chuẩn nội dung. Hiện nay, chuẩn SCORM cũng đang chỉnh sửa và nâng cấp để đáp ứng yêu cầu này, nhưng khả năng điều hướng trong SCORM vẫn chưa linh hoạt và chưa thực sự hiệu quả.
Một trong những xu hướng mới đang thu hút sự chú ý của số lượng lớn các chuyên gia là e-Learning – xây dựng khóa học theo nhu cầu người học. Xu hướng này gắn liền với sự thay đổi về chính bản chất của người dùng Internet. Đôi khi họ được gọi là “thế hệ số” hay “thế hệ n-gen”. Và thế hệ người dùng mới này tiếp cận cách làm việc, học tập và giải trí theo những cách thức mới.
Họ nhanh chóng thu nhận thông tin, cả dưới dạng hình ảnh cũng như text, từ rất nhiều nguồn khác nhau. Họ xử lý chúng với một tốc độ “chớp giật” và trông chờ phản hồi lập tức. Họ thích được truy xuất tùy ý theo yêu cầu tới các tài nguyên đa phương tiện, luôn muốn được giao tiếp ngay với bạn bè của mình, tự tạo hoặc tải về các tài liệu đa phương tiện...
Trong học tập, xu hướng này được thể hiện rõ ràng khi chúng được gọi là các thiết kế “hướng tới học viên” hay “tập trung vào sinh viên”. Điều này không chỉ là tập trung vào nhiều loại phong cách học tập khác nhau hay cho phép học viên có thể thay đổi kích thước font chữ hay màu nền, mà là chính học viên có thể quản lý được quá trình học tập của mình.
Học tập không chỉ được thể hiện ở khía cạnh khả năng tự chủ lớn hơn của học viên mà còn ở sự lưu tâm nhiều hơn đến các hoạt động học tập tích cực, với việc tạo lập, liên lạc và giao tiếp đang đóng vai trò chính yếu, và còn ở trong sự thay đổi trong vai trò của giáo viên, mà thực tế, thậm chí là sự giảm đi nhanh chóng các khác biệt giữa giáo viên và học viên.
Hiện nay, e-Learning đã kết hợp với World Wide Web thành một thể thống nhất và sự thay đổi của nó đã đạt đến một mức độ để hình thành nên một tên gọi: e-Learning 2.0.
Ứng dụng e-Learning tại Việt Nam
Từ năm 2002 trở về trước, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về e-Learning ở Việt Nam không nhiều. Trong hai năm 2003-2004, việc nghiên cứu e-Learning ở Việt Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm hơn. Gần đây các hội nghị, hội thảo về công nghệ thông tin và giáo dục đều có đề cập nhiều đến vấn đề e-Learning và khả năng áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt Nam như: Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo ĐHQGHN năm 2000; Hội nghị giáo dục đại học năm 2001; Hội thảo khoa học quốc gia về nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông ICT/rda 2003 – 2004; hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai e-Learning” do Viện Công nghệ Thông tin (ĐHQGHN) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về e-Learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam và gần đây nhất (tháng 4 năm 2006) là các buổi hội thảo về e-Learning do trung tâm Máy tính (Computer Center) của trường Đại học Công Nghệ tổ chức đã thu hút đông đảo cán bộ nghiên cứu, nghiên cứu sinh, học viên cao học của các trường Đại học lớn ở Hà Nội tham gia.
Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai e-Learning. Một số đơn vị đã bước đầu triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan: Đại học Công nghệ - ĐHQGHN, Viện CNTT - ĐHQGHN, Đại học Bách Khoa Hà Nội, ĐHQG TP. HCM, Học viện Bưu chính Viễn thông, phân viện Công nghệ Thông tin TP Hồ Chí Minh...
Chiều mùng 2 tháng 11 năm 2005, Trung tâm Tin học (thuộc Bộ Giáo dục & Đào tạo) phối hợp với công ty máy tính HP đã khai trương cổng e-Learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin e-Learning trên thế giới và ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tham gia vào thị trường e-Learning như công ty hệ thống thông tin FIS (công ty con của FPT), công ty Công Nghệ Thông Tin HaNoiTech, công ty Tinh Vân...và đưa ra một số sản phẩm phần mềm lĩnh vực e-Learning. Tuy các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm lớn, chưa được đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển e-Learning ở Việt Nam.
Việt Nam đã gia nhập mạng e-Learning châu Á (Asia E-learning Network - AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học - Công nghệ, trường Đại học Bách Khoa, Bộ Bưu chính Viễn Thông...
Điều này cho thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo này đang được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực e-Learning ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu còn nhiều việc phải làm mới tiến kịp các nước.
Hướng tiếp cận của khóa luận
Trong 3 xu hướng e-Learning đã nói, xu hướng “xây dựng khóa học theo nhu cầu người học” đang được thế giới rất quan tâm, tuy ở Việt Nam xu hướng này còn rất mới mẻ.
Một khóa học theo nhu cầu (cũng có khi gọi là khóa học động) sẽ đáp ứng được nhu cầu học của người học, phù hợp với trình độ, sở thích của người học.
Hiện nay trên thế giới, có 2 cách tiếp cận để sinh khóa học theo nhu cầu, đó là: Sinh phần mềm dạy học thích nghi (Adaptive Courseware Generation) và Sinh phần mềm dạy học động (Dynamic Courseware Generation).
Trong Sinh phần mềm dạy học thích nghi, toàn bộ nội dung khóa học được sinh thích nghi trước khi hiển thị nó cho người học, thay vì dần dần sinh ra một khóa học trong cả tiến trình học. Trong Sinh phần mềm dạy học động, hệ thống theo dõi tiến trình học viên trong toàn bộ sự tương tác của anh ta với khóa học và làm thích ứng động khóa học tùy vào sự cần thiết và những yêu cầu cụ thể của học viên. Nếu sự thực hiện của học viên chưa đạt, khóa học được lập lại kế hoạch một cách động. Lợi ích của cách tiếp cận này đó là nó áp dụng nhiều tính thích nghi tới mức có thể với người học cá nhân.
Do tính ưu việt hơn hẳn, tôi lựa chọn hướng tiếp cận thứ hai : Sinh phần mềm dạy học động để đáp ứng tối đa nhu cầu người học trong suốt khóa học.
Chương 2
Khóa học điện tử
Như đã nói ở trên, có 3 xu hướng phát triển của e-Learning: Khóa học hoàn chỉnh, Khóa học theo chuẩn và Khóa học theo nhu cầu.
2.1 Khóa học điện tử hoàn chỉnh
Một khóa học điện tử hoàn chỉnh là một khóa học điện tử có đầy đủ các tài liệu cung cấp thông tin cho người học mà không có sự hỗ trợ của đào tạo truyền thống.
Khi tham gia vào một khóa học e-Learning, nguồn thông tin duy nhất về khóa học mà học viên có thể lấy được chính là từ website của khóa học. Điều này có nghĩa là hệ thống e-Learning phải làm tất cả các công việc của một đơn vị đào tạo bên cạnh việc giảng dạy. Học viên cần những thông tin mà phòng Hành Chính phải cung cấp như thông báo về khóa học, lịch học, tài liệu. Những thông tin từ phòng đào tạo cũng rất cần thiết như các chính sách đào tạo, đề tài nghiên cứu, học bổng. Phòng công tác sinh viên, phòng nghiên cứu khoa học và tuyển sinh sau đại học, các khoa, tổ bộ môn,… đều đưa ra nhiều thông tin mà người học quan tâm.
Bên cạnh vấn đề cung cấp thông tin cho khóa học, việc hoàn chỉnh nội dung bài giảng là yếu tố quyết định sự quan tâm của người học. Trong đào tạo truyền thống, các bài giảng có sự hỗ trợ của lời giảng (giọng nói), động tác của giảng viên tạo hiệu quả cho bài học. Với các bài giảng tĩnh trong e-Learning, học viên phải đối mặt với các bài giảng dưới hình thức các file tĩnh khô khan và nhàm chán. Do đó, có rất nhiều quy tắc đặt ra cho cấu trúc bài giảng của một khóa học điện tử để tạo hứng thú cho học viên và mang lại hiệu quả đào tạo. Đó vừa là những quy tắc về cách thức trình bày một bài giảng điện tử, về sự tích hợp với đa phương tiện tạo hiệu ứng mô phỏng, vừa là quy tắc về cấu trúc các thành phần tài liệu điện tử cần phải có với một khóa học trong e-Learning.
Như vậy một khóa học điện tử toàn diện theo đúng nghĩa cần có đầy đủ các loại tài liệu cung cấp đủ thông tin cho người học. Các bài giảng cần có sự hỗ trợ của đa phương tiện để học viên dễ học, dễ tiếp thu, dễ ứng dụng.
2.2 Khóa học theo chuẩn
2.2.1 Chuẩn là gì ?
ISO định nghĩa như sau:
"Các thoả thuận trên văn bản chứa các đặc tả kĩ thuật hoặc các tiêu chí chính xác khác được sử dụng một cách thống nhất như các luật, các chỉ dẫn, hoặc các định nghĩa của các đặc trưng, để đảm bảo rằng các vật liệu, sản phẩm, quá trình, và dịch vụ phù hợp với mục đích của chúng".
Một ví dụ về chuẩn được dùng rộng rãi trên thế giới là LEGO. Với các đối tượng LEGO bạn có thể xây dựng mọi thứ bạn muốn. Thậm chí có các đối tượng với kích cỡ và màu khác nhau, chúng đều khớp với nhau và chúng có thể được kết hợp lại theo mọi cách vì các đối tượng tuân theo các luật nhất định. Các chân luân chính xác có cùng cỡ và chúng luôn khớp. Trẻ em vẫn thích chơi với nó vì khả năng tạo ra các hình thù mới không bị hạn chế.
Hình 2 : Minh họa cho chuẩn
Internet là một ví dụ nữa về chuẩn và chúng ta có thể trao đổi thông tin trên mạng này chính là nhờ chuẩn. Internet bao gồm các chuẩn được công nhận bởi IEEE.
2.2.2 Chuẩn e-Learning
Cũng có các chuẩn trong e-Learning. Đối với những người làm việc trong lĩnh vực e-Learning, các chuẩn e-Learning đóng vai trò rất quan trọng. Không có chuẩn e-Learning chúng ta sẽ không có khả năng trao đổi với nhau và sử dụng lại các đối tượng học tập. Nhờ có chuẩn toàn bộ thị trường e-Learning (người bán công cụ, khách hàng, người phát triển nội dung) sẽ tìm được tiếng nói chung, hợp tác với nhau được cả về mặt kĩ thuật và mặt phương pháp. LMS có thể dùng được nội dung phát triển bởi nhiều công cụ khác nhau.
2.2.2.1 Các loại chuẩn e-Learning
Trước tiên, chúng ta xem các loại chuẩn chính và chúng hỗ trợ tính khả chuyển như thế nào trong một hệ thống học tập. Chúng ta nhìn nhận trên quan điểm của hai phía, phía học viên và phía kia là người sản xuất cua học.
Người sản xuất cua học tạo ra các module đơn lẻ hay các đối tượng học tập sau đó sẽ tích hợp lại thành một cua thống nhất.
Chuẩn đóng gói (packaging standards). : là chuẩn cho phép ghép các cua tạo bởi các công cụ khác nhau bởi các nhà sản xuất khác nhau thành các gói nội dung (packages). Các chuẩn này cho phép hệ thống quản lý nhập và sử dụng được các các cua học khác nhau.
Chuẩn trao đổi thông tin (communication standards): cho phép các hệ thống quản lý đào tạo hiển thị từng bài học đơn lẻ. Hơn nữa, có thể theo dõi được kết quả kiểm tra của học viên, quá trình học tập của học viên. Các chuẩn này quy định đối tượng học tập và hệ thống quản lý trao đổi thông tin với nhau như thế nào.
Chuẩn meta-data (metadata standards): quy định cách mà các nhà sản xuất nội dung có thể mô tả các cua học và các module của mình để các hệ thống quản lý có thể tìm kiếm và phân loại được khi cần thiết.
Chuẩn chất lượng (quality standards): nói đến chất lượng của các module và các cua học. Chúng kiểm soát toàn bộ quá trình thiết kế cua học cũng như khả năng hỗ trợ của cua học với những người tàn tật.
Các loại chuẩn trên cùng nhau đóng góp tạo ra các giải pháp e-Learning có chi phí thấp, hiệu quả, và mang lại sự thoải mái cho mọi người tham gia e-Learning.
2.2.2.2 Sự quan trọng của chuẩn e-Learning
Phần này đi vào giải thích chi tiết hơn các lí do phải có chuẩn. Tôi xin đưa ra các lí do sau dựa vào phát biểu của Wayne Hodgins tại TechLearn:
1. Tính truy cập được (Accessibility): nếu chúng ta sử dụng các hệ thống và nội dung tuân theo chuẩn thì rất dễ sử dụng nội dung ở mọi nơi bằng cách sử dụng trình duyệt (browser). Ngay cả các chuẩn không liên quan đến e-Learning như HTTP cũng giúp cho việc truy cập thông tin dễ dàng hơn nhiều
2. Tính khả chuyển (Interoperability): không những chúng ta có khả năng truy cập nội dung từ mọi nơi mà thậm chí không phụ thuộc vào các công cụ chúng ta dùng tại nơi đó. Do đó, chúng ta có thể sử dụng các LMS khác nhau để truy cập vào cùng nội dung. Và ngược lại, với một LMS có thể sử dụng nhiều nội dung tạo bởi các công cụ khác nhau.
3. Tính thích ứng (Adaptability): các chuẩn cũng giúp việc đưa ra các nội dung học tập phù hợp với từng cá nhân. Một ví dụ là meta-data. Nếu chúng ta sử dụng meta-data giống nhau để mô tả nội dung thì có thể xác định chính xác những gì một học viên cần. Một LMS/LCMS hiểu meta-data sẽ có khả năng hiểu và sử dụng các thông tin có trong meta-data, từ đó phân phối nội dung phù hợp với yêu cầu của từng học viên.
4. Khả năng sử dụng lại (Re-usability): chỉ với việc sử dụng chuẩn chúng ta mới có thể sử dụng lại nội dung chúng ta phát triển hoặc mua.
5. Tính bền vững (Durability): bạn vẫn sử dụng được nội dung ngay cả khi công nghệ thay đổi. Hơn nữa, với nội dung tuân theo chuẩn bạn không phải thiết kế lại hoặc làm lại.
6. Tính giảm chi phí (Affordability): với các lí do ở trên rõ ràng là nếu người bán nội dung và hệ thống quản lý tuân theo chuẩn, hiệu quả học tập sẽ tăng rõ rệt, thời gian và chi phí sẽ giảm.
2.2.3 Sự khác nhau giữa một chuẩn và một đặc tả
Một lỗi thường gặp là nhầm lẫn giữa thuật ngữ "chuẩn" (standard) với "đặc tả" (specification). IEEE giải thích sự khác biệt như sau:
Đặc tả được phát triển bởi các uỷ ban không được công nhận bởi thế giới. Một vài ví dụ về các ủy ban nổi tiếng như: IEFT (Internet Engineering Task Force), W3C (World Wide Web Consortium), OMG (Object Management Group).
Chuẩn là một đặc tả được phát triển và công nhận bởi các uỷ ban chuẩn được công nhận trên thế giới. Các tổ chức mà thực hiện công việc kiểu như thế này được gọi là Standards Development Organization (SDO). Ví dụ về các uỷ ban này là: IEEE, ISO, IEC, ITU, ANSI, BSI, CSA, JIS, DIN, và CEN.
Có thể tóm tắt sự khác biệt như bảng dưới đây:
Bảng 1: Sự khác biệt giữa chuẩn và đặc tả
Đặc tả
Chuẩn
Tiến triển nhanh
Tiến triển chậm
Mang tính thử nghiệm
Là kết luận cuối cùng
Quy mô rộng
Quy mô hẹp
Tham khảo ý kiến của ít người
Tham khảo ý kiến của nhiều người
Bạn cần hiểu sự khác biệt này để có thể nhận thức được sự khó khăn của toàn bộ quá trình chuẩn hoá. Để thiết lập một chuẩn từ ban đầu bạn sẽ mất ít nhất 10 năm.
2.2.4 Đóng gói nội dung theo chuẩn SCORM
Chuẩn SCORM cũng như các chuẩn khác vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và nâng cấp, mỗi phiên bản sau lại không tương thích với phiên bản trước. Do đó, việc xây dựng LMS hay tạo bài giảng theo chuẩn SCORM gặp rất nhiều khó khăn.
Cấu trúc một gói nội dung theo chuẩn SCORM được mô tả như sau:
Manifest
Siêu dữ liệu
Tổ chức
Tài nguyên
Các manifest (con)
Tài nguyên học
(Learning Resources)
Gói nội dung
Imsmanifest.xml
Hình 3: Cấu trúc một gói nội dung theo chuẩn SCORM
Như đã chỉ ra trên hình vẽ, một gói nội dung theo chuẩn SCORM gồm hai thành phần: manifest và tài nguyên học (các file vật lý).
Tài nguyên trong chuẩn SCORM được chia làm hai loại: Asset và SCO (Sharable Content Object).
Asset là các thể hiện dưới dạng điện tử như text, hình ảnh, âm thanh, hay bất kì dạng dữ liệu nào có thể hiển thị trên trình duyệt phía người học và không tương tác với LMS.
Asset wav audio
Asset javascript function
Asset html
fragment
Asset gif image
Asset jpeg image
Asset xml document
Asset mp3 audio
Asset webpage
Asset flash object
Hình 4 : Ví dụ về Asset
SCO là tập hợp của môt hay nhiều asset và có sự tương tác với LMS. SCO là đơn vị logic nhỏ nhất của gói nội dung có thể được phân phối và dò tìm theo một LMS. Hơn nữa, trong chuẩn SCORM, không thể truy cập vào một SCO từ một SCO khác, điều này làm nên tính độc lập cho SCO.
Manifest là một file xml mô tả cấu trúc nội dung của khóa học. Manifest gồm các thành phần:
Siêu dữ liệu (Meta-data): mô tả lược đồ gói
Tổ chức (Organizations): các cấu trúc nội dung của khóa học
Tài nguyên (Resources): định nghĩa các tài nguyên được gói trong organization.
Các manifest con (submanifest): Các manifest mô tả cấu trúc ở mức thấp hơn.
2.3 Khóa học theo nhu cầu
Một bước tiến hoá của e-Learning, giúp cho hình thức này ưu việt hơn hẳn đào tạo truyền thống chính là các hệ thống tạo khoá học động có nội dung phù hợp với nhu cầu người học.
2.3.1 Khóa học động?
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về khóa học động kết hợp với những quan niệm về khóa học động trên thế giới, tôi xin đưa ra khái niệm khóa học động như sau: “Một cách tổng quát nhất, khoá học động là là những khoá học có nội dung học phụ thuộc vào khả năng của từng người học và luôn được cập nhật trong quá trình học tập của học viên”.
Như vậy chương trình học của một khoá học động không phụ thuộc vào người tạo bài giảng và chưa được xác định ở thời điểm người học đăng kí khoá học. Chương trình học chỉ dần được hoàn thiện khi người học tham gia vào quá trình học tập và hệ thống đã xác định rõ ràng những thông tin về người học. Tuỳ theo yêu cầu của từng hệ thống, tổ chức, những thông tin về người học có thể bao gồm: sở thích, nhu cầu, năng khiếu, độ tuổi, trình độ, giới tính,… Trong phần thử nghiệm, chúng tôi chỉ đánh giá các yếu tố: năng khiếu, trình độ và nhu cầu của người học.
Một khái niệm quan trọng trong phần khoá học động là đối tượng học (learning object - LO). Cấu trúc một khóa học bao gồm các chương, trong các chương có các bài giảng, trong bài giảng lại có các mục, tiểu mục… Các thành phần chương học, bài học, các mục,… được gọi là các đối tượng học. Như vậy, một đối tượng học là một thành phần của cấu trúc chương trình học, các mức của nó phụ thuộc vào sự phân chia của người xây dựng nội dung.
Ý tưởng sinh khoá học động đã xuất hiện trên thế giới từ khá lâu, nhưng đến nay vẫn chưa có cơ chế hay chuẩn chung nào thống nhất cách tạo khoá học động. Do đó, các tổ chức ở các nước xây dựng mô hình khoá học động theo cơ chế độc lập, do họ tự nghiên cứu. Khoá học động đó chạy tốt trên hệ thống LMS của họ, nhưng có thể sẽ không chạy được trên các hệ thống LMS khác.
Hiện nay chuẩn SCORM 2004 cũng đã đưa ra một số đặc tả về sắp xếp và điều hướng nội dung khoá học. Tuy nhiên, những đặc tả của chuẩn này cũng như một số chuẩn phổ biến khác liên tục được cập nhật. Mỗi phiên bản sau lại đưa ra những quy định mới, hoặc có thể sửa đổi các quy định cũ. Do đó, nếu tuân theo phiên bản này, nó vẫn không tuân theo phiên bản sau đó. Vấn đề là: phải tiếp tục nghiên cứu để có một chuẩn SCORM tương đối hoàn thiện và ổn định trong tương lai. Đó là lý do mà hiện nay chưa có tổ chức nào sử dụng các đặc tả sắp xếp và điều hướng trong chuẩn SCORM để xây dựng khoá học động trong thực tiễn.
2.3.2 Mô hình người học
Mô hình người học phân lớp các đối tượng người học để đánh giá và xây dựng nội dung học tương ứng cho từng lớp người học.
Chúng ta phân lớp người học dựa trên những thông tin sau: năng khiếu, nhu cầu, trình độ. Những yếu tố để phân lớp người học là mở, tuỳ theo đặc điểm riêng của từng hệ thống, từng tổ chức mà đưa ra một mô hình phân lớp phù hợp.
Nhu cầu
Năng khiếu
Trình độ
…
Hình 5 : Mô hình người học
Với từng tiêu chí, hệ thống sẽ có một lớp người học yêu cầu một chương trình học riêng.
2.3.3 Mô hình đánh giá
Để phân lớp người học theo trình độ, chúng ta sử dụng hệ thống test gồm 3 loại: preTest, midTest và lastTest. preTest là bài test ngay sau khi test nhu cầu, trước khi học viên được tham gia vào khóa học, dùng để phân loại trình độ của học viên. midTest là bài test trong quá trình học, dùng nó làm cơ sở để cho phép học viên học phần tiếp theo hay phải học lại. lastTest là bài test kết thúc khóa học, dùng để tổng hợp đánh giá học viên và cấp chứng chỉ.
Tests System
preTest
midTest
lastTest
midTest1
midTest2
…
Hình 6 : Cấu trúc hệ thống các bài test đánh giá học viên
preTest: là bài test đầu vào để kiểm tra trình độ của học viên. Từ kết quả đó để đưa ra những nội dung học phù hợp cho học viên.
midTest: là bài test học phần – test trong quá trình học của học viên. Có thể là bài test sau mỗi phần, mỗi chương. Số lượng bài midTest là phụ thuộc vào cấu trúc khóa học và mục đích của người tạo khóa học. Các bài test này để nắm bắt xem học viên tiếp thu đến đâu. Nếu có phần nào chưa đạt, học viên sẽ phải học lại cho tới khi đạt.
lastTest: là bài test cuối kỳ để kiểm tra toàn bộ kiến thức mà học viên đã học trong khóa học. Có thể dựa vào kết quả bài test này mà các hệ thống cấp chứng chỉ.
Hệ thống các bài test là đầu vào để đưa ra khóa học động trong suốt quá trình học tập của học viên.
Chương 3
Mô hình khóa học thích nghi
3.1 Cấu trúc khóa học thích nghi
3.1.1 Phương pháp luận, kỹ thuật xây dựng khóa học thích nghi
3.1.1.1 Phương pháp luận
Phương pháp luận phát triển
Mục đích
Đối tượng
Lý thuyết giáo dục
Đánh giá
Lựa chọn nội dung
Thiết kế
Lý thuyết giáo dục và thiết kế chỉ dẫn
Trục thích nghi và kỹ thuật thích nghi
Các tài nguyên có thể sử dụng lại
Bản thể học miền và mô hình hóa nội dung
Khóa học có tính giáo dục học thích nghi
Dịch vụ elearning được cá nhân hóa thích nghi
Hình 7 : Một ví dụ phương pháp luận xây dựng khóa học thích nghi
Đầu tiên, chúng ta phải nhận ra mục đích và các đối tượng của khóa học. Những mục đích và các đối tượng này sẽ định dạng các yêu cầu cơ bản và đưa ra đánh giá ban đầu của tiến trình đánh giá. Khi chúng ta xác định các mục đích và các đối tượng khóa học cụ thể, chúng ta phải nhận biết và lựa chọn các chiến lược sư phạm học thích hợp cho khóa học dựa trên mục đích và các đối tượng.
Tiếp theo, chúng ta phải mô hình miền tri thức bên trong khóa học hiện có. Một khi không gian vấn đề đối tượng được nhận ra và miêu tả, nó có thể được áp dụng cho các chiến lược giáo dục học đã lựa chọn.
Giai đoạn logic tiếp theo là bắt đầu lựa chọn nội dung và nhóm tiến trình nhờ đó các tài nguyên học thích hợp được nhóm với các thành phần sư phạm. Chiến lược sư phạm học được lựa chọn có thể được tạo thích nghi bằng cách áp dụng sự thích nghi thích hợp với cấu trúc sư phạm học dựa trên mục đích và đối tượng của khóa học, những nội dung của khóa học được lựa chọn và chiến lược sư phạm của khóa học.
Thời kỳ tiếp theo của tiến trình phát triển được kiểm tra ngữ nghĩa học và mặt chức năng của khóa học thích nghi bằng sự kiểm tra qua dịch vụ e-Learning cá nhân thích nghi. Cách tiếp cận tuần hoàn này hỗ trợ một tiến trình xây dựng khóa học có thể mở rộng.
3.1.1.2 Kỹ thuật xây dựng khóa học thích nghi
Cả 2 kỹ thuật Sinh phần mềm dạy học động và Sinh phần mềm dạy học thích nghi đã nói ở trên áp dụng một kỹ xảo lọc trước để sinh ra một pool (nhóm chung) của các đối tượng học có cùng đặc điểm nào đó. Tiến trình lọc dựa trên những yêu cầu chung giống như các đặc tính của ngôn ngữ hoặc media của các đối tượng học đích. Kết quả của tiến trình lọc là một pool của các đối tượng học – pool này sẽ là không gian vào cho bộ chọn nội dung.
Sau khi tạo pool khởi tạo của các đối tượng học, tiến trình chọn lựa nội dung được áp dụng dựa trên thuộc tính người học giống như thuộc tính khả năng truy cập và thành thạo hoặc thậm chí là thông tin lịch sử về các hoạt động học liên quan. Hình dưới đây trình bày một khung làm việc khái quát của kỹ thuật sắp xếp khóa học đã được đề cập ở trên, nó sử dụng lọc, lựa chọn nội dung và tiến trình lập kế hoạch chỉ dẫn.
Lọc
Kho đối tượng học địa phương
Yêu cầu chung
Pool đối tượng học
Tri thức miền
Bộ lựa chọn nội dung
Người lập kế hoạch chỉ dẫn
Các thuộc tính người học
Khóa học
Hình 8: Khung làm việc khái quát của kỹ thuật sắp xếp khóa học thích nghi
3.1.2 Cấu trúc khóa học thích nghi
Hệ quản trị nội
dung học
Gói nội dung
Cơ sở dữ liệu
Test nhu cầu
Test trình độ
Khóa học theo nhu cầu
genCourse.xml
Hình 9: Cấu trúc tổng quan của khóa học thích nghi
Hệ thống lấy nhu cầu của học viên qua bài test nhu cầu và biết được trình độ của học viên qua bài test trình độ. Hai thông tin này sẽ được lưu trong cơ sở dữ liệu. Kết quả test được hệ thống xử lý sẽ sinh ra file genCourse.xml, file genCourse.xml này là đầu vào cùng với các file tài nguyên gồm các LO để sinh ra khóa học theo nhu cầu.
Trong quá trình học, học viên lại tiếp tục phải trải qua các bài test trình độ-test học phần (midTest). Kết quả các bài test này cũng được dùng để đánh giá, tiếp tục đưa ra các phần nội dung học thích hợp cho học viên.
Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại cho đến khi bài test trình độ là bài test cuối kỳ (lastTest) và kết quả thi đạt.
3.2 Đánh giá người học
3.2.1 Mô hình người học
Mô hình người học phân lớp các đối tượng người học để đánh giá và xây dựng nội dung học tương ứng cho từng lớp người học.
Phân lớp người học thường dựa trên những thông tin sau: năng khiếu, nhu cầu, trình độ. Hai yếu tố năng khiếu và trình độ thu được từ các bài kiểm tra trình độ và năng khiếu cho học viên. Yếu tố nhu cầu thu được từ một form phỏng vấn nhu cầu học của học viên.
Những yếu tố để phân lớp người học là mở, tuỳ theo đặc điểm riêng của từng hệ thống, từng tổ chức mà đưa ra một mô hình phân lớp phù hợp. Với từng tiêu chí, hệ thống sẽ có một lớp người học yêu cầu một chương trình học riêng.
Nhu cầu
Năng khiếu
Trình độ
…
Hình 10 : Mô hình người học
Năng khiếu:
Mức trung bình: Ở mức này, học viên có năng khiếu nhưng chưa thật sự suất sắc. Với những đối tượng người học ở mức này, hệ thống đưa ra chương trình học đi sâu vào thiên hướng của người học.
Mức cao: Học viên rất có năng khiếu về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KieuthiKimOanh_K47CC_CNPM.doc
- KieuthiKimOanh_K47CC_CNPM.pdf