MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 3
1. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 3
2. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 7
2.1. Cơ sở lý luận 7
2.2. Cơ sở thực tiễn 9
3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 11
4. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam 12
4.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành 14
4.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003 20
4.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay 21
CHƯƠNG II 24
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG PHÁP LUẬT 24
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 24
1. Bảo đảm quyền tự bào chữa 24
1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố 24
1.1.1. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ 24
1.1.2. Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can 26
1.2. Đảm bảo quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử 31
2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa 35
2.1. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố 37
2.2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử 42
2.3. Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 44
3. Đảm bảo quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định 45
CHƯƠNG III 49
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ 49
TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 49
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ 49
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA 49
CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 49
1. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49
1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49
1.1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49
1.1.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 50
1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 53
1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc từ phía cơ quan THTT 53
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bào chữa 58
1.2.3. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 60
2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 61
2.1. Nguyên nhân về pháp luật 61
2.2. Nguyên nhân thuộc về mặt nhận thức 62
2.3. Nguyên nhân về tổ chức 63
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 65
3.1. Về hoàn thiện pháp luật 65
3.2. Về tổ chức 69
3.3. Về nhận thức 69
KẾT LUẬN 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8090 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS là một việc hết sức quan trọng giúp cho bị can thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Có đọc và nắm được tất cả những tài liệu và tình tiết của vụ án liên quan đến bản thân và liên quan đến những bị cáo khác (nếu có) thì bị can mới có được khả năng chuẩn bị ý kiến để bào chữa cho mình. Phù hợp với quy định này, khoản 2 Điều 160 Bộ luật TTHS quy định CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho bị can; khoản 4 Điều 162 quy định trong thời hạn 2 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, CQĐT phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can; khoản 1 Điều 166 quy định trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra một trong những quyết: truy tố bị can trước toà bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; VKS phải thông báo cho bị can, giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án cho bị can.
- Bị can có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Như đã phân tích ở trên, bị can có quyền tiếp xúc với tất cả các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS, từ đó pháp luật cũng quy định các cơ quan THTT phải tạo điều kiện cho bị can thực hiện các quyền này. Khi đã nắm được toàn bộ những quyết định, những kết luận tố tụng, những tài liệu về vụ án, bị can có thể khiếu nại đối với những quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Ngày 08/09/2006, TAND Thành phố Hà Nội mở phiên toà xét xử vụ án nhận hối lộ, trong đó bị cáo Trần Lê Sơn bị VKS Thành phố Hà Nội truy tố về hành vi môi giới hối lộ. Trước vành móng ngựa, Sơn trình bày rành rẽ : “VKS tống đạt cáo trạng tới bị cáo, nhưng hôm sau lại thay bằng một bản khác. Cáo trạng đọc tại toà hôm nay là bản cũ”. Theo Sơn cáo trạng còn trích dẫn không chính xác nhiều lời khai cũng như thời gian xảy ra vụ án và thời điểm bắt các bị cáo…Bị bất ngờ trước việc này, Thẩm phán chủ toạ phiên toà đã cho đối chất giữa đại diện VKS và bị cáo. Và khi được luật sư cung cấp cả hai bản cáo trạng và so sánh thì Toà án thấy rằng hai bản cáo trạng được tống đạt cho bị cáo Sơn là không giống nhau. Ngày 11/09/2006, sau 3 ngày xét xử, TAND Thành phố Hà Nội tuyên trả hồ sơ về VKSND Thành phố Hà Nội để tống đạt lại cho các bị cáo theo đúng thủ tục tố tụng.( (1)
)
- Bị can có quyền tham gia một số hoạt động điều tra.
Để tạo điều kiện cho bị can thực hiện quyền bào chữa, Bộ luật TTHS quy định, khi khám nghiệm hiện trường và khi tiến hành thực nghiệm điều tra trong trường hợp cần thiết bị can cũng có thể tham gia (Điều 150, 153 Bộ luật TTHS).
1.2. Đảm bảo quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử
Sau khi Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị can trở thành bị cáo và quyền bào chữa của họ tiếp tục được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật TTHS.
- Bị cáo có quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật TTHS.
Các quyết định, các văn bản kể trên liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của bị cáo nói chung và quyền bào chữa của bị cáo nói riêng. Nhận được đầy đủ các quyết định này nhằm tạo điều kiện cho bị cáo có thể thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình. Đồng thời quy định này cũng đòi hỏi các cơ quan THTT phải giải quyết vụ án theo đúng thủ pháp luật, các văn bản, các quyết định được ban hành phải có căn cứ và hợp pháp.
Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 182 Bộ luật TTHS, quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên toà. Quyết định đưa vụ án ra xét xử có những nội dung rất cần thiết cho bị cáo trong việc chuẩn bị bào chữa: tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự mà VKS áp dụng đối với hành vi của bị cáo; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà; họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, KSV, người bào chữa, người phiên dịch nếu có; họ tên người được triệu tập tới phiên toà để xét hỏi; vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà… (Điều 178 Bộ luật TTHS). Cùng với những điều đã biết về kết luận điều tra, các tình tiết và tài liệu vụ án nêu trong bản cáo trạng, việc nghiên cứu quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng là cơ sở để bị cáo có thể thực hiện được các quyền của mình như quyền tham gia phiên toà, quyền đề nghị thay đổi người THTT, quyền yêu cầu xem xét thêm vật chứng mới… Quyết định đưa vụ án ra xét xử là một quyết định rất quan trọng với bị cáo nên trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 10 ngày trước khi mở phiên toà và bị cáo có yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên toà (Điều 201). Pháp luật cũng quy định đảm cho bị cáo được nhận các quyết định khác của Toà án theo Điều 182 Bộ luật TTHS.
- Bị cáo có quyền tham gia phiên toà.
Trong TTHS, giai đoạn xét xử là giai đoạn quan trọng nhất, trong giai đoạn này tội trạng của bị cáo sẽ được xác định một cách công khai trước phiên toà với sự tham gia của các bên tố tụng. Thay mặt Nhà nước, HĐXX sẽ quyết định những vấn đề quan trọng nhất của TTHS là xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo dựa trên những chứng cứ đã thu thập được tại phiên toà. Tại phiên toà, bị cáo bình đẳng với KSV và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên toà… Như vậy, thực hiện quyền bào chữa tại phiên toà có thể coi là hành vi tố tụng quan trọng nhất trong các hành vi tố tụng của bị cáo. Và để bị cáo có thể thực hiện được hành vi đó pháp luật quy định tham gia phiên toà là quyền của bị cáo và Toà án chỉ được phép xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS còn các trường hợp khác nếu bị cáo vắng mặt đều phải hoãn phiên toà. Tham gia phiên toà cũng là nghĩa vụ của bị cáo, nếu bị cáo vắng mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị áp giải.
- Bị cáo có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Đây là quyền của bị cáo được ghi nhận trực tiếp tại điểm a, khoản 2 Điều 50 Bộ luật TTHS. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, chủ toạ phiên toà sẽ thay mặt HĐXX giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo. Biết mình có những quyền gì và phải thực hiện những nghĩa vụ gì sẽ giúp cho bị cáo chủ động, hoà nhập tốt hơn vào diễn biến phiên toà.
- Bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS.
Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy, bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên toà khi HĐXX hỏi. Trước khi mở phiên toà, trong thời gian chuẩn bị xét xử, nếu bị cáo yêu cầu thay đổi KSV, thành viên HĐXX, Thư ký Toà án thì Viện trưởng VKS và Chánh án Toà án xem xét giải quyết yêu cầu của bị cáo (Điều 60, 61 Bộ luật TTHS). Tại phiên toà, khi bị cáo có yêu cầu thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét quyết định.
- Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Bị cáo có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật tại phiên toà xét xử. Những tài liệu, đồ vật mà bị cáo đưa ra thông thường có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo… HĐXX phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Bị cáo có thể đưa ra những yêu cầu: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét; yêu cầu hoãn phiên toà (Điều 205); yêu cầu xem biên bản phiên toà và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận (Điều 200). HĐXX xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo.
Hai ngày trước khi mở phiên phúc thẩm lần 2 vụ tai nạn giao thông thảm khốc trên đường cao tốc Láng - Hoà Lạc vào ngày 25/2, TAND tối cao đã ra quyết định hoãn phiên xử. Một trong những lý do quan trọng là toà chưa gửi giấy triệu tập được hết tới hơn 20 người làm chứng như yêu cầu của gia đình 2 nạn nhân.( (1)
)
- Bị cáo có quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà.
Đây là một điểm mới, một quyền mà Bộ luật TTHS năm 2003 quy định trực tiếp cho bị cáo (tại điểm g, khoản 2 Điều 50 Bộ luật TTHS) giúp bị cáo phát huy cao nhất quyền tự bào chữa của mình tại phiên toà. Bị cáo có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình. Khi trình bày ý kiến tranh luận tại phiên toà, bị cáo bình đẳng với KSV và những người tham gia tranh luận khác. Theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án - Điều 19 Bộ luật TTHS và theo quy định tại Điều 218 Bộ luật TTHS thì Toà án, chủ toạ phiên toà có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận, trình bày hết ý kiến nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
- Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
Sau khi HĐXX kết thúc xét hỏi và tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng trước khi nghị án. Pháp luật quy định quyền này là để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được trình bày thái độ, nguyện vọng của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan tới vụ án, tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội…
Khi được nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án, nguyên thứ trưởng Bộ Thương Mại Mai Văn Dâu nghẹn ngào nhắc lại khoảng thời gian 2 năm 4 tháng sống trong trại giam. Đó là những lúc "tưởng như không sống nổi" khi bệnh tật dày vò nhưng vẫn "mong chờ đến ngày ra tòa để được trình bày đúng sự thật". Đó là những lúc phải khai đại theo yêu cầu của cán bộ điều tra để mong được tại ngoại. Trong lời phát biểu của mình ông Dâu còn nhắc đến những ngày gắn bó với Bộ Thương mại. Ông nghẹn ngào: "Tôi đã có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển của Bộ. Bộ vừa được tặng Huân chương sao vàng và tôi tự hào là có phần đóng góp của mình trong đó. Sau những việc đã xảy ra, tôi thấy mình có lỗi. Xin toàn thể cán bộ nhân viên hãy tha lỗi cho tôi. Phải đứng trước vành móng ngựa vì những sai sót của bản thân là tôi đã mắc tội lỗi lớn. Tôi xin nhận lỗi với các bậc cha chú, anh em, con cháu..."(1)
HĐXX phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời nói sau cùng của bị cáo trước khi nghị án. Nhiều trường hợp, khi nói lời sau cùng, bị cáo lại đưa ra những tình tiết có ý nghĩa quan trọng với vụ án, khi đó HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.
Khi không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án, pháp luật quy định cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định này để Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo về tất cả các vấn đề mà bản án sơ thẩm đề cập tới như: tội danh, loại hình phạt chính, hình phạt bổ sung, mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung… Bị cáo cũng có quyền kháng cáo quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án. Khi kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, Toà án cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo của mình, luật TTHS quy định nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì Toà án cấp phúc thẩm không có quyền sửa án theo hướng bất lợi cho bị cáo.
- Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định hoãn phiên toà… Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT nếu các hành vi đó là trái pháp luật.
2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa
Như đã phân tích ở trên, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng các biện pháp do luật định để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và pháp luật cũng quy định các cơ chế bảo đảm cho họ thực hiện quyền tự bào chữa. Nhưng trên thực tế do hạn chế về hiểu biết pháp luật hay do bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng: tạm giữ, tạm giam nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể thực hiện được đầy đủ và có hiệu quả quyền tự bào chữa của mình. Chính vì vậy sự tham gia của người bào chữa trong TTHS là rất cần thiết trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tạo điều kiện để TTHS đạt được mục đích đặt ra trong đó có mục đích bảo vệ hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy Bộ luật TTHS không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật TTHS thì người bào chữa là người được cơ quan THTT cấp giấy chứng nhận bào chữa tham gia vào quá trình TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết gỡ tội hay làm giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những vấn đề pháp lý cần thiết.
Hiện nay do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế nên khi nói đến người bào chữa người ta chỉ nghĩ đến luật sư còn những người khác không phải luật sư thì không phải là người bào chữa. Tuy nhiên, luật sư là khái niệm nghề nghiệp còn người bào chữa là khái niệm tố tụng. Theo điều 56 Bộ luật TTHS, người bào chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng) (Điều 2 Luật Luật sư). Tiêu chuẩn luật sư: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ nghiêm Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề thì có thể trở thành luật sư. (Điều 10 Luật Luật sư). Điều kiện hành nghề luật sư: người có đủ tiêu chuẩn quy định tại điều 10 của luật này muốn hành nghề luật sư thì phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Khoản 1 Điều 22 của Luật Luật sư quy định luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ, anh chị em ruột, người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi tham gia TTHS, bằng những hiểu biết pháp luật, bằng kỹ năng nghề nghiệp của mình, người bào chữa giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật đồng thời giúp cho cơ quan THTT giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh thiên về buộc tội và xem xét một chiều. Khi tham gia TTHS, người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, ngược lại, muốn góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án trên cơ sở của pháp luật. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa luôn phải chú ý cả hai nhiệm vụ trên. Nếu chỉ chú trọng nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì dễ dẫn đến tình trạng nguỵ biện. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến việc bảo vệ pháp luật, pháp chế thì có thể biến mình thành “công tố” buộc tội tại phiên toà. Như vậy, đặc trưng cơ bản trong vai trò của người bào chữa khi tham gia tố tụng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo với việc bảo vệ chân lý và tôn trọng pháp luật, pháp chế.
2.1. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố
- Người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 Bộ luật TTHS thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ.
Việc quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, khi khởi tố bị can là cần thiết để đảm bảo cho việc tạm giữ và khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời cũng đảm bảo việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết, tránh tình trạng tạm giữ, tạm giam bừa bãi và không đúng mục đích. Đồng thời, quy định thời điểm tham gia tố tụng từ rất sớm của người bào chữa nhằm đảm bảo cho người bào chữa có thể tiếp cận vụ án từ giai đoạn đầu và có cái nhìn toàn diện hơn về vụ án, quy định này cũng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người bào chữa cũng được tham gia tố tụng sớm như vậy, trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
Được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, người bào chữa có cơ hội được trực tiếp nghe người bị tạm giữ, bị can trình bày về những tình tiết của vụ án. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa có thể phát hiện ra những tình tiết có ý nghĩa có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi được ĐTV cho phép, người bào chữa có thể dùng những câu hỏi khéo léo của mình làm sáng tỏ những tình tiết minh oan cho người bị tạm giữ, minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can. Mặt khác, sự có mặt của người bào chữa trong khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, trong khi hỏi cung bị can sẽ làm cho người bị tạm giữ, bị can ổn định hơn về mặt tâm lý, yên tâm khai báo chính xác sự việc. Đồng thời, sự có mặt của người bào chữa cũng ngăn ngừa những vi phạm pháp luật từ phía ĐTV, tránh tình trạng ĐTV dụ cung, mớm cung, dùng nhục hình, ép cung đối với người bị tạm giữ, bị can. Khi phát hiện ĐTV vi phạm pháp luật trong quá trình lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can thì người bào chữa có quyền khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
Người bào chữa được có mặt trong những hoạt động điều tra khác, đó là các hoạt động điều tra quy định tại các chương XI, XII, XIII của Bộ luật TTHS khi được ĐTV đồng ý. Khi tham gia các hoạt động này người bào chữa có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết có ý nghĩa trong việc gỡ tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can.
- Người bào chữa có quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định có liên quan tới người mà mình bào chữa.
Các biên bản mà người bào chữa được xem như biên bản lấy lời khai của người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can, … Khi kết thúc điều tra, người bào chữa được gửi bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra... Được xem các biên bản, các quyết định đó sẽ giúp cho người bào chữa thực hiện tốt hơn nghĩa vụ bào chữa của mình đồng thời khi xem các biên bản, quyết định tố tụng nếu phát hiện ta những vi phạm pháp luật người bào chữa có thể khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền
- Người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Đây là một quy định mới của Bộ luật TTHS 2003 so với Bộ luật TTHS năm 1988. Như đã phân tích ở trên, sự tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can có ý nghĩa không chỉ đối với người bào chữa, với bị can mà còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung bị can, pháp luật quy định người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung bị can. Quy định này cũng nhằm ràng buộc trách nhiệm của CQĐT trong việc đảm bảo cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can.
- Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch.
Xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người THTT hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14 Bộ luật TTHS) và đảm bảo quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra, khi có căn cứ thay đổi người THTT quy định tại Điều 42, người giám định tại khoản 4 Điều 60, người phiên dịch tại khoản 4 Điều 61, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi những người nói trên.
- Người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu.
Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa có thể phát hiện ra những đồ vật, tài liệu mà các cơ quan THTT chưa phát hiện ra được. Trong trường hợp này, người bào chữa có quyền đưa ra những đồ vật, tài liệu đó để cơ quan THTT xem xét nhưng chỉ khi những đồ vật, tài liệu đó có lợi cho người bị tạm giữ, bị can và không làm xấu đi tình trạng hiện thời của họ, như: những đồ vật, tài liệu chứng minh sự vô tội của bị can, chứng minh sự không liên quan của người bị tạm giữ đến những căn cứ là lý do bắt giữ họ…
Trong giai đoạn điều tra, truy tố, người bào chữa có quyền đưa ra những yêu cầu: yêu cầu trưng cầu giám định,… cơ quan THTT phải tôn trọng quyền đưa ra yêu cầu của người bào chữa, nếu không đồng ý với những yêu cầu đó thì phải nêu rõ lý do.
- Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác.
Đây là một quy định mới của Bộ luật TTHS 2003 so với Bộ luật TTHS năm 1988 nhằm tăng quyền cho người bào chữa khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Trong quá trình tiếp xúc giữa người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của người bị tạm giữ, bị can với người bào chữa, những người này có thể tin tưởng giao cho người bào chữa những tài liệu, đồ vật hoặc nói với người bào chữa những tình tiết mà vì một lý do nào đó họ không giao cho hoặc nói cho CQĐT, VKS. Hoặc người bị tạm giữ, bị can vì lý do bị tạm giữ, tạm giam… không thể thu thập được đồ vật, tài liệu thì có thể yêu cầu người bào chữa thu thập giúp mình. Những tình tiết, đồ vật, tài liệu này có thể được dùng làm căn cứ chứng minh cho sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can. Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được đồ vật, tài liệu liên quan tới vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS. Việc giao nhận các tài liệu đó phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 Bộ luật TTHS.
- Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.
Việc bào chữa của người bào chữa sẽ trở thành hình thức nếu người bào chữa không hiểu rõ thái độ tâm lý, tâm tư của người bị tạm giữ, bị can. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, qua trao đổi, người bào chữa sẽ giúp cho người bị tạm giữ, bị can nhận thức đúng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can trên cơ sở những quy định của pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên quan, cần thiết mà người bị tạm giữ, bị can chưa hiểu hoặc chưa biết cách trình bày trước các cơ quan THTT nhằm minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình; phân tích cho người bị tạm giữ, bị can hiểu phải khai báo thành khẩn để người bào chữa có căn cứ rõ ràng bảo vệ người bị tạm giữ, bị can.
- Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Quyền này được thực hiện sẽ giúp người bào chữa nắm vững được các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ, người bào chữa mới biết bị can bị buộc tội gì, theo điều khoản nào của luật TTHS, mới nắm được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào từ đó mới tìm ra chứng cứ gỡ tội cho bị can. Thực tiễn cho thấy nếu người bào chữa chỉ có mặt khi hỏi cung bị can hoặc tham dự các hoạt động điều tra khác thì không thể nắm được nội dung vụ án một cách đầy đủ. Do vậy quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về vụ án từ giai đoạn khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra, không chỉ với bị can mình bảo vệ mà còn đối với bị can khác của vụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (112).doc