MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ 3
VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ 3
1. Khái quát chung về chế độ bảo hiểm hưu trí 3
1.1. Quan niệm về chế độ bảo hiểm hưu trí 3
1.2. Vai trò, ý nghĩa của chế độ Bảo hiểm hưu trí 8
2. Đánh giá chung về thực trạng bảo hiểm hưu trí trước khi ban hành Luật BHXH 2006 10
2.1. Những nội dung hợp lý 10
2.2. Những vấn đề còn tồn tại 11
2.2.1. Về ban hành chính sách bảo hiểm xã hội 11
2.2.2. Về phạm vi đối tượng 11
2.2.3. Về chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng 11
2.2.4. Về chế độ bảo hiểm hưu trí một lần 13
2.2.5. Việc tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội 13
2.2.6. Vấn đề quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn 14
2.2.7. Có sự pha trộn giữa chế độ BHXH với một số chính sách khác 14
3. Sự cần thiết phải đổi mới chế độ bảo hiểm hưu trí theo Luật BHXH 2006 14
CHƯƠNG II 18
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ THEO 18
LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI 2006 18
1. Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng 18
1.1. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng 18
1.1.1. Điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm 18
1.1.2. Điều kiện về độ tuổi nghỉ hưu 19
1.2. Công thức tính mức bảo hiểm hưu trí hàng tháng 23
1.3. Các quyền lợi khác của người lao động hưởng lương hưu hàng tháng 26
1.4. Cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội 28
2. Chế độ đóng bảo hiểm hưu trí một lần 29
3. Điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH 31
4. Điều chỉnh mức đóng quỹ bảo hiểm hưu trí 32
CHƯƠNG III 35
ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM 35
HƯU TRÍ Ở NƯỚC TA 35
1. Đánh giá chung 35
1.1. Những điểm tiến bộ 35
1.2. Những điểm còn tồn tại 36
2. Một số kiến nghị hoàn thiện chế độ Bảo hiểm hưu trí ở nước ta 37
2.1. Đối với một số quy định chung 37
2.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí 37
2.1.2. Đầu tư, quản lý quỹ bảo hiểm hưu trí 38
2.2. Đối với chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng 38
2.2.1. Điều kiện hưởng hưu trí hàng tháng 38
2.2.2. Cách xác định mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng 40
2.3. Đối với chế độ bảo hiểm hưu trí một lần 41
2.3.1. Điều kiện hưởng chế độ hưu trí một lần 41
2.3.2. Cách xác định mức hưởng chế độ hưu trí một lần 41
KẾT LUẬN 42
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3243 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí trong luật Bảo hiểm xã hội 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong khu vực. (Nguồn: thongke/kt_xh/2005/122005/b3 được lưu vào ngày 1/5/2007 05:40:12 GMT của Google). Theo báo cáo mới nhất về “Tổng quan kinh tế châu á 2006” của ngân hàng phát triển châu á (ADB) thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,8%, dự báo là 7,6% cho năm 2007. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nứơc của năm 2006 tăng 8,17% so với năm 2005. Cũng trong 20 năm qua, cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn sản xuất với thị trường, gắn nhập khẩu với xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng đột phá để phát triển kinh tế. Về chuyển dịch cơ cấu ngành, thể hiện rõ nhất thông qua việc điều chỉnh tỷ trọng từng nganh trong cơ cấu GDP, so sánh năm 2005 với năm 1988 thì thấy: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 46,3% giảm xuống còn 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 41%, tỷ trọng dịch vụ tăng từ 33% lên 38%. Những số liệu trên đây cho ta thấy nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, năm sau cao hơn năm trước. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã năm lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhằm phù hợp với thực tế tăng trưởng và biến động giá cả, tiền tệ, kéo theo sự tăng trưởng tương ứng của lương hưu và trợ cấp. Điều đó đã tác động đến sự ổn định của bảo hiểm hưu trí cũng như việc hoạch định và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, đòi hỏi có sự thay đổi, tính toán cho phù hợp.
Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, còn có sự đóng góp rất lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước, ngoài các doanh nghiệp tư nhân và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung. Luật đầu tư chung, luật doanh nghiệp … có hiệu lực đã đóng góp rất lớn trong tiến trình đổi mới kinh tế – xã hội ở nước ta. Vì thế , đã có hàng trăm nghìn doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập và phát triển tạo việc làm, thu nhập cho hàng triệu lao động, hàng năm khu vực ngoài quốc doanh đã đóng góp khoảng hơn 60% trong GDP. Do đó, việc hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia là vấn đề rất cần thiết.
Nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Trong bối cảnh đó, quan hệ lao động theo cơ chế mới cũng hình thành, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật … Thực tế đó cũng đóng góp không ít thành công trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bên cạnh đó cũng còn bộc lộ một số vấn đề cần khắc phục.
Việc thực thi các chính sách còn chưa triệt để tạo nhiều kẽ hở cho nhiều đối tượng lao động và sử dụng lao động dựa vào đó để tìm cách vi phạm pháp luật về bảo hiểm hưu trí, hàng triệu người lao động thuộc diện bắt buộc nhưng chưa tham gia bảo hiểm xã hội, đặc biệt là khu vực ngoài Nhà nước.
Hơn nữa, qua gần 20 năm phát triển kinh tế thị trường và 10 năm tách quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với Ngân sách Nhà nước, cho thấy Việt Nam đã có kinh nghiệm để hoàn thiện bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng phù hợp với điều kiện mới củă nền kinh tế thị trường.
Xuất phát từ tình hình nói trên, việc ban hành luật BHXH nhằm pháp điển hoá các quy định hiện hành và bổ sung các quy định mới về bảo hiểm xã hội cho phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng nguyện vọng đông đảo của người lao động, đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Chương ii
những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí theo
Luật Bảo hiểm xã hội 2006
Để khắc phục những vấn đề còn tồn tại của chế độ Bảo hiểm hưu trí, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của đông đảo những người lao động trong nước, phù hợp với các quy định Quốc tế, Luật Bảo hiểm xã hội ra đời đã có sự thay đổi đáng kể về bảo hiểm hưu trí. Trong đó, có một số điểm mới cơ bản sau đây: các quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng lương hưu hàng tháng với mức thấp, nâng mức hưởng trợ cấp một lần, cách tính bình quân tiền lương tháng, điều chỉnh tiền lương trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. Cụ thể như sau:
1. Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng
1.1. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng
1.1.1. Điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 bổ sung quy định thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để đủ điều kiện nghỉ hưu là 20 năm: “Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, e khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu…” (Đ50.1). Như vậy, đã có sự thay đổi đáng kể so với quy định của Điều lệ bảo hiểm trước đây, điều kiện chung để được hưởng chế độ hưu trí là có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên (Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/11/1995 của Chính phủ)
Thông thường, để được hưởng một chế độ bảo hiểm xã hội, người hưởng bảo hiểm phải đảm bảo một số điều kiện nhất định. Tuỳ từng chế độ bảo hiểm cụ thể mà điều kiện hưởng là khác nhau, nhưng nhìn chung là căn cứ vào mức độ đóng góp của người tham gia bảo hiểm. Trước đây, Quỹ bảo hiểm xã hội thực chất là do Ngân sách Nhà nước tài trợ, chỉ có người lao động là công nhân viên chức làm việc theo hình thức tuyển dụng vào biên chế Nhà nước được tham gia bảo hiểm và họ không phải đóng góp bất kỳ một khoản nào vào Quỹ bảo hiểm xã hội. Nhưng từ khi Nghị định 43/CP năm 1993 có hiệu lực, chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta đã thực hiện nguyên tắc đóng – hưởng, cả người sử dụng lao động và người lao động đều có trách nhiệm đóng góp và đó là nguồn cơ bản hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội. Với quy định đóng góp bằng 15% quỹ lương và sau 30 năm làm việc sẽ được hưởng 75% mức lương bình quân của 5 năm đóng góp bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ hưu. Xét về khía cạnh kinh tế, quy định này chưa phù hợp bởi nếu một người lao động đóng bảo hiểm xã hội trong suốt 30 năm thì số tiền đóng góp của họ kể cả tính tăng trưởng là 6%/năm cũng chỉ đủ chi lương hưu cho bản thân người đó được khoảng 6 – 8 năm, trong khi đó bình quân số năm hưởng lương hưu khoảng 15 năm, quy định tỷ lệ đóng – hưởng trên đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giai đoạn chuyển đổi nhưng sẽ tác động tiêu cực đến Quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí trong tương lai. Mặc dù Quỹ bảo hiểm xã hội đang có lượng tồn tại khá lớn, dự báo đến năm 2022 Quỹ sẽ có số dư là 200.000 tỷ đồng, nhưng với tỷ trọng thu chi như hiện nay thì sau đó sẽ giảm dần và sẽ âm vào năm 2036. Mỗi năm Nhà nước phải bỏ ra 10.000 tỷ đồng để trả lương cho khoảng một triệu người về hưu trước 1/1/1995. Với mức đóng hiện nay và chế độ về hưu sớm, tỷ lệ người đóng bảo hiểm xã hội cho một người hưởng lương hưu giảm dần, năm 2000 là 34/1; năm 2002 là 23/1và năm 2004 là 19/1 thì chỉ 10 –15 năm nữa sẽ dẫn đến chi vượt thu,Quỹ bảo hiểm xã hội sẽ phá sản. Về nguyên tắc, kể từ năm 1995, sau ít nhất mười năm năm mới có đối tượng hưởng chế độ hưu trí đầu tiên, nhưng thực tế sau khi tách ra khỏi Ngân sách Nhà nước (1995) Quỹ bảo hiểm xã hội còn phải chi trả chế độ hưu và trợ câp bảo hiểm xã hội cho 2,9 triệu người trong khu vực Nhà nước được hưởng bảo hiểm xã hội từ trước năm 1995. Vì thế, Luật mới đã nâng cao số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu từ 15 năm lên 20 năm, mục đích chủ yếu để đảm bảo nâng dần mức đóng đủ cho hưởng lương hưu từ 15 năm trở lên mà trước đó không đủ hưởng, đảm bảo cân bằng của Quỹ bảo hiểm hưu trí.
1.1.2. Điều kiện về độ tuổi nghỉ hưu
Tại Đ50.1 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định:
“1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, e khoản 1 Điều 2 của Luật này có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;
Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời được hưởng lương hưu trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định”.
Tại Điều 26 trong Nghị định 152/CP ngày 22/12/2006 có quy định hướng dẫn chi tiết hơn như sau:
“… 3. Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở nên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò.
4. Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên”
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 ban hành đã có những quy định rõ ràng, cụ thể, chi tiết hơn. Điều này xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của nguời lao động trong một số ngành nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi hẻo lánh hoặc trong những lĩnh vực quan trọng như an ninh quốc phòng … có sự khác nhau. Đồng thời, nó cũng nhằm khuyến khích người lao động vào làm việc trong các ngành nghề lĩnh vực này, tạo sự phân công lao động đồng đều giữa các ngành, các vùng với nhau. Những người lao động phải làm việc trong điều kiện lao động không thuận lợi hoặc làm những công việc tính quan trọng đến an ninh đất nước có thể ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ thì sẽ được hưởng những chế độ ưu đãi dặc biệt.Thực chất hơn, quy định này do thực trạng sức khoẻ của người lao động trong ngành, vùng này bị ảnh hưởng, không thể làm việc đến độ tuổi quy định chung. Do đó, họ cần được nghỉ hưu sớm so với tiêu chuẩn chung.
Như chúng ta đã biết, để xác định được độ tuổi hưởng chế độ hưu trí hợp lý thì phải căn cứ vào rất nhiều cơ sở:
+ Cơ sở sinh học: cơ cấu dân số, tuổi thọ dân cư, sức khoẻ người lao động.
+ Quan hệ cung cầu của thị trường lao động, tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia
+ Khả năng cân đối, chi trả lâu dài cho mỗi Quỹ bảo hiểm hưu trí.
Theo quy định của pháp luật Việt nam trước đây, điều kiện chung để được hưởng chế độ hưu trí là nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi. Tuổi nghỉ hưu này được giảm xuống 5 tuổi trong các trường hợp người lao động đủ 15 năm làm việc ở nơi có nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại; có đủ 15 năm làm việc tại nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên; hoặc có đủ 15 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/04/1975, ở Campuchia trước ngày 31/08/1989 và đối với những người làm trong lực lượng vũ trang.
Như vậy, so với trước đây thì quy định hiện nay của Luật Bảo hiểm xã hội là phù hợp hơn với điều kiện Việt Nam và tương đồng với nhiều nước cùng trình độ phát triển trên thế giới.
Bởi lẽ, thứ nhất, lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, chống lại mọi âm mưu và hành động chống phá chính quyền nhân dân, Nhà nước Việt nam, vì thế , lực lượng vũ trang có một đặc trưng khác biệt đối với ngành nghề khác đó là sự cơ động, khoẻ mạnh, trẻ trung, yếu tố tuổi trẻ là rất quan trọng. Thế nhưng nếu để đạt dến độ tuổi: nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi mới giải quyết cho về hưu là không hợp lý, họ sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ so với lớp tuổi trẻ hơn. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai làm việc trong lực lượng vũ trang đều cần phải nghỉ hưu sớm và muốn nghỉ hưu sớm.
Thứ hai, Đ52.1.b quy định rất linh hoạt không cứng nhắc như trước kia, pháp luật mới cho người lao động được lựa chọn tuổi nghỉ hưu: “Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi; nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm … hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên”. Như vậy, đối tượng thuộc hai nhóm nghề nghiệp trên nếu có nhu cầu về sớm hơn so với tuổi chuẩn thì vẫn được giải quyết để hưởng hưu trí hàng tháng như bình thường. Quy định này đã xét đến nguyện vọng của người lao động vì không phải cứ làm việc trong môi trường độc hại nguy hiểm hay ở khu vực có hệ số phụ cấp 0,7 trở lên đều muốn về hưu sớm và cần về hưu sớm. Quy định này cũng khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc nếu còn sức khoẻ và có nguyện vọng, mặc dù họ có đủ tiêu chuẩn về hưu. Đây là một điểm mới thực sự cần thiết đối với Việt Nam, phù hợp với quy định nhiều nước trên thế giới, vì nếu so sánh trên bình diện quốc tế, tuổi nghỉ hưu hiện nay ở nước ta vào loại trung bình thấp, trong khi tuổi thọ trung bình của dân số ngày càng tăng. Hiện nay do tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên nên một số nước đang có xu hướng tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động hoặc áp dụng các chế độ hưu trí mềm dẻo với các biện pháp không chính thức khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc và nghỉ hưu muộn hơn (ví dụ: tăng lương cho những người nghỉ hưu muộn hơn như ở Anh, Mỹ, Canada). Trong khi đó ở Việt Nam, các chế độ đối với người nghỉ hưu lại được quy định tương đối cao, làm cho quỹ bảo hiểm chưa đảm bảo an toàn. Quy định này sẽ tạo ra tư duy mới về vấn đề hưu trí tạo điều kiện và khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc sau tuổi hưu trí nếu khả năng cho phép.
Thứ ba, tại Đ26.3 nghị định 152/NĐ-CP cũng có quy định linh hoạt như trên đã trình bày: “người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò cũng được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng.
Trước đây, đối tượng này được gộp chung trong nhóm nghề nghiệp nặng nhọc, độc hại, tuổi nghỉ hưu đã được quy định giảm hơn so với quy định chung nhưng nhiều người lao động vẫn không thể tiếp tục làm việc đến khi đến tuổi nghỉ hưu theo quy định đó do môi trường làm việc quá khắc nghiệt và tính rủi ro cao nên nó được xếp vào nhóm riêng biệt, hưởng chế độ mở hơn khi về hưu.
Thứ tư, đối tượng lao động mới lần đầu tiên được luật bảo hiểm xã hội được đề cập đến: Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, chứng tỏ luật mới có quan điểm rất toàn diện. Đối tượng này vô tình bị nhiễm HIV/AIDS trong quá trình hoàn thành công vụ của mình, ví dụ: bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm HIV, hay chiến sỹ cảnh sát đấu tranh với tội phạm nhiễm HIV … và cái chết có thể đến với họ bất cứ lúc nào, cho nên không quy định tuổi đời trong trường hợp này rất hợp lý. Nhưng để đồng bộ, thống nhất, luật BHXH 2006 vẫn quy định theo chuẩn chung: “có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên”.
Tóm lại, những quy định tại Đ50 luật BHXH 2006 đã kế thừa, gìn giữ và phát huy truyền thống ưu đãi phụ nữ đã tồn tại lâu đời trong cộng đồng và được Nhà nước thừa nhận, nó thể hiện ở việc quy định độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ được xét giảm 5 tuổi so với nam giới. Đây cung là một nguyên tắc của bảo hiểm hưu trí: Nguyên tắc phân biệt hợp lý chế độ hưởng bảo hiểm hưu trí giữa lao động nam và lao động nữ. Điều này xuất phát từ sự khác biệt về yếu tố thể lực, quá trình lão hoá, tâm sinh lý… giữa lao động nam và lao động nữ. Thể lực của lao động nữ thường kém hơn nam giới, đến một độ tuổi nhất định, họ khó có thể thực hiện được công việc với năng suất bình thường cùng một thời gian so với nam giới. Vì vậy, lao động nữ cần được nghỉ hưu sớm hơn nam giới.
Bên cạnh nội dung đã đạt được nêu trên, toàn bộ điều luật này vẫn còn một tồn tại giống như trong pháp luật cũ, đó là quy định tuổi nghỉ hưu cho lao động nữ còn chưa linh hoạt. ở độ tuổi 55, đối với một số ngành nghề: nghiên cứu khoa học, bác sỹ, giáo viên, … lao động nữ vẫn còn đủ sức khoẻ và đang phát huy kinh nghiệm làm việc, do đó cần tăng tuổi nghỉ hưu cho lao động nữ trong những khu vực này, còn các khu vực khác vẫn giữ nguyên.
1.2. Công thức tính mức bảo hiểm hưu trí hàng tháng
+ Công thức tính bảo hiểm hưu trí hàng tháng hầu như không có quy định mới, nhưng đã có sự thay đổi hợp lý hơn: tăng số năm đóng bảo hiểm từ 15 năm (luật cũ) lên 20 năm. Cụ thể: người lao động đủ 15 năm đóng bảo hiểm được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75% (Đ28.1 NĐ152/2006/NĐ-CP).
Như vậy, người chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm không được hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng, quy định này, thứ nhất, đảm bảo nguyên tắc đóng – hưởng của bảo hiểm hưu trí, thứ hai, nó đảm bảo cân đối nguồn quỹ bảo hiểm dài hạn đang tiềm ẩn nguy cơ thâm hụt trong tương lai (nếu không thay đổi, có thể đến năm 2031 số chi sẽ lớn hơn số thu, quỹ sẽ bị phá sản).
Công thức này rất khả thi, bởi hiện nay thời gian tham gia bảo hiểm bình quân của nam đạt 34 năm, nữ đạt 29 năm. Nếu quy định chung về tuổi nghỉ hưu được tuân thủ triệt để thì phần lớn người nghỉ hưu sẽ đạt tối đa bằng 75%.
+ Việc pháp luật quy định mức hưởng lương hưu hàng tháng tối đa của người lao động chỉ bằng 75% mức bình quân của tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc mức đóng – hưởng bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương khi người lao động đang làm việc nhưng cũng không được thấp hơn mức trợ cấp bảo hiểm xã hội tối thiểu. Thực tế, trước đây đã có thời gian chúng ta quy định mức lương hưu hàng tháng tối đa lên đến 95% mức tiền lương của người lao động trước khi nghỉ hưu. Đó là biểu hiện của sự bình quân trong phân phối thu nhập của Nhà nước trong thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, tỷ lệ tiền lương hưu tương đối cao này cũng mới chỉ tính trên phần tiền lương bằng tiền, không tính hết phần lương được cấp bằng hiện vật. Hiện nay, tiền lương đã được tiền tệ hóa cơ bản.
+ Công thức tính hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn theo luật mới rõ ràng hợp lý hơn.
Thông thường, khi hết tuổi lao động (nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi, trong một số trường hợp nam 55 tuổi, nữ 50 tuổi) mà có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ 20 năm trở lên, người lao động sẽ được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vì nhiều lý do khác nhau (như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động ...) làm cho người lao động bị suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao động khiến họ khó có thể tham gia được quan hệ lao động nữa, cần phải nghỉ việc trước tuổi. Trong những trường hợp đó tuy chưa đủ tuổi về hưu theo quy định nhưng nếu đảm bảo một số điều kiện người lao động cũng vẫn được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, song ở mức hưởng lương hàng tháng của họ bao giờ cũng thấp hơn so với những người nghỉ hưu đúng tuổi. Theo luật BHXH 2006 thì trường hợp tại Đ26.1 điều lệ bảo hiểm xã hội 1995 : “nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm đến dưới 20 năm” không còn thuộc diện đối tượng được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn.
Luật BHXH mới bỏ quy định này là hợp lý, phù hợp với quy định chung về thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mới được hưởng hưu trí hàng tháng.
Còn 2 trường hợp còn lại tại Đ26.2, Đ26.3 điều lệ bảo hiểm 1995 vẫn được giữ nguyên: “nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.”.
Như vậy, Nhà nước đã quy định mức lương hưu trí thấp cho những người lao động một cách rõ ràng, hợp lý hơn, vì họ chưa đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định chung nhưng mất tới 61% sức lao động, rất khó có thể làm việc một cách bình thường, nếu có thời gian đóng bảo hiểm từ 20 năm trở lên, đủ để cân đối quỹ kết hợp với khả năng tương trợ cộng đồng thì có thể đảm bảo cho đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng.
Mức lương hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng trong trường hợp này cũng được tính dựa trên mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, cách tính lương hưu trong trường hợp này cũng tương tự như trong trường hợp nghỉ hưu đúng tuổi. Song vì những người lao động này nghỉ hưu trước tuổi nên cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, nhưng mức trừ 1% này là tỷ lệ tương đối thấp vì tỷ lệ chưa thể hiện được tính công bằng giữa tỷ lệ cộng và trừ cho cùng một đơn vị thời gian cũng như đảm bảo được chế độ cân đối thu – chi của quỹ bảo hiểm xã hội. Do đó, có thể nâng mức trừ cao hơn để hoàn thiện, công bằng, đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm hưu trí.
+ Đ52.3 luật BHXH là quy định mới, hệ thống pháp luật cũ chưa có quy định này, điều này cũng khá hợp lý: “mức hưởng lương hưu hàng tháng thấp nhất bằng mức tối thiểu chung”. Luật mới đã thể hiện quan điểm tương trợ cộng đồng, đảm bảo đời sống, quyền lợi tối thiểu của người về hưu, thực hiện chính sách đối với người cao tuổi. Theo kết quả điều tra lao động – việc làm của Bộ lao động – thương binh và xã hội ngày 1/7/2005, mức lương hưu hàng tháng bình quân chung năm 2003 là 638.421 tỷ đồng, mức lương bình quân của viên chức chỉ là 566.353 đồng, người có mức lương hưu thấp hơn mức thu nhập chung của xã hội chiếm gần 5%. Vì vậy, nếu cứ theo quy định cũ thì đời sống của một số người về hưu sẽ rất khó khăn, bên cạnh các khoản chi cho sinh hoạt cá nhân: ăn, mặc, ở, đi lại ..., thì còn rất nhiều khoản chi khác như: chi cho con cháu, thăm và gặp gỡ bạn bè, chi cho ủng hộ xã hội...
Tuy nhiên, quy định mức hưởng lương hưu hàng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu một cách vô điều kiện cũng là rộng rãi và có thể không cần thiết trong một số trường hợp.
1.3. Các quyền lợi khác của người lao động hưởng lương hưu hàng tháng
+ Với cách tính lương hưu như hiện nay, mức lương hưu hàng tháng tối đa của người lao động bằng 75% mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm thì chỉ tương ứng với 25 năm đóng bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, 30 năm đối với lao động nam. Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội vượt mức thời gian này. Chính vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc mức hưởng bảo hiểm trên cơ sở mức đóng cũng như đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm, luật BHXH 2006 đã quy định người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên 25 năm dối với nữ, trên 30 năm đối với nam, ngoài lương hưu hàng tháng, khi nghỉ hưu còn được thêm trợ cấp một lần. Tức là từ năm thứ 26 trở đi đối với lao động nữ, từ năm thứ 31 đối với lao động na, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội, không khống chế mức tối đa được hưởng. Trong khi đó luật cũ khống chế mức tối đa không quá 5 tháng, sự khống chế này đã không khuyến khích được nhiều đối tượng đóng bảo hiểm xã hội với thời gian dài, không khuyến khích họ tiếp tục làm việc, tiếp tục đóng bảo hiểm. Trong quá trình lao động, con người luôn luôn cống hiến sức lao động để góp phần phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời có trích một phần tiền lương hoặc thu nhập đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Đến khi họ không còn khả năng lao động nữa, không có thu nhập do tuổi già thì phải được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Để đảm bảo quyền lợi cho họ, nhất là những người đóng góp sức lao động, đóng bảo hiểm nhiều hơn, Nhà nước phải trả trợ cấp một lần bên cạnh lương hưu hàng tháng mà không được đặt ra quy định khống chế mức hưởng tối đa. Điều này cũng tạo được lòng tin đối với người lao động, đồng thời khuyến khích người lao động đóng góp công sức, đóng góp bảo hiểm xã hội nhiều hơn.
+ Ngoài ra, người lao động hưởng lương hưu hàng tháng còn được bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả. Khi người nghỉ hưu chết, gia đình còn được hưởng chế độ tử tuất. Đây là quy định kế thừa pháp luật cũ, nhưng luật BHXH đã có những thay đổi có lợi nhiều hơn cho người lao động và gia đình họ, bảo vệ hơn nữa cho người lao động: nâng mức định suất tiền tuất hàng tháng từ 40% lên 50% mức lương tối thiểu chung (Khoản 1 Đ65); nếu người lao động đang đóng bảo hiểm mà bị chết thì phần đóng cho hưư trí có thể được trả một lần cho mỗi thân nhân, mức trả cho mỗi năm đóng bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội, không khống chế mức tối đa. Trợ cấp một lần cho thân nhân người đang hưởng lương hưu mà chết, từ 3 tháng đến 48 tháng lương hưu tuỳ thuộc vào thời gian đã hưởng bảo hiểm hưu trí. (Đ67).
+ Một vấn đề nữa đặt ra, đó là những năm gần đây, nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng, mức sống ngày càng được nâng cao, hệ số trượt giá vẫn song hành cùng hệ số tăng lương. Vì vậy, lương hưu cần có sự điều chỉnh để đảm bảo mức sống cho người về hưu, xóa bỏ mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội.
Đ53 luật BHXH 2006 có quy định mới: “lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định”.
Tại Đ29 nghị định 152/2006/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể như sau: “lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh từng thời kỳ do Bộ lao động – thương binh và xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, trình chính phủ quy định”. Do đó, cuộc sống của người về hưu sẽ đựơc đảm bảo ổn định, ngay cả khi có lạm phát. Họ cũng được hưởng lợi từ mức tăng trưởng kinh tế của đất nước.
1.4. Cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
Cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội có sự thay đổi hợp lý hơn theo hướng mở rộng khoảng thời gian tính của những người lao động đóng bảo hiểm theo thang bảng lương của Nhà nước, tiến tới có thể tính theo một cách tính chung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (85).doc