MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH VÀ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 3
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 3
1. Khái niệm 3
2. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính 4
3. Phân loại và cấu trúc của thị trường tài chính 5
3.1 Thị trường tiền tệ 7
3.1.1 Khái niệm 7
3.1.2 Vai trò, chức năng và đặc điểm của thị trường tiền tệ 7
3.1.3 Phân loại thị trường tiền tệ 9
3.1.4 Các thành viên tham gia thị trường tiền tệ 12
3.1.5 Các công cụ trên thị trường tiền tệ 13
3.2 Thị trường chứng khoán 16
3.2.1 Khái niệm 16
3.2.2 Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán 16
3.2.3 Phân loại thị trường chứng khoán 18
3.2.4 Các thành viên tham gia thị trường chứng khoán 19
3.2.5 Các công cụ trên thị trường chứng khoán 20
3.3 Thị trường ngoại hối 21
3.3.1 Khái niệm 21
3.3.2 Đặc điểm và chức năng của thị trường ngoại hối 22
3.3.3 Những thành viên tham gia thị trường ngoại hối 24
3.3.4 Các nghiệp vụ cơ bản 25
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
QUỐC TẾ 26
1. Hội nhập thị trường tài chính quốc tế là gì? 27
2. Hình thức hội nhập quốc tế 27
3. Phương thức hội nhập quốc tế 29
4. Sự cần thiết phải hội nhập thị trường tài chính quốc tế 30
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 36
I. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM 36
1. Thực trạng hoạt động của thị trường tiền tệ từ năm 1990
đến nay 36
2. Đánh giá thực trạng hoạt động và mức độ hội nhập của
thị trường tiền tệ việt nam 43
II. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 46
1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán việt nam
qua hai năm 46
2. Đánh giá tình hình hoạt động và mức độ hội nhập quốc tế
của thị trường chứng khoán việt nam 52
III. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 67
1. Tình hình hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam
từ năm 1994 đến nay 67
2. Đánh giá tình hình hoạt động và mức độ hội nhập của
thị trường ngoại hối Việt Nam 73
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN
THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 78
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN
VÀ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 78
1. quan điểm của đảng và nhà nước ta về phát triển thị trường
tài chính 78
2. quan điểm của đảng và nhà nước về hội nhập thị trường
tài chính Việt Nam 78
II. DỰ BÁO LỘ TRÌNH HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM 80
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 81
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường
tài chính và dịch vụ tài chính theo hướng: nâng cao hiệu lực
pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, minh bạch, ổn
định và phù hợp với thông lệ quốc tế 82
2. Củng cố, hoàn thiện và phát triển các công cụ tài chính
và các nghiệp vụ tài chính 84
3. Hoàn thiện các loại hình thị trường tiền tệ, thị trường
chứng khoán và thị trường ngoại hối 86
4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia
thị trường tài chính 90
5. Tạo lập một thị trường tài chính bình đẳng, lành mạnh
và chủ động hội nhập 94
6. Đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ làm công tác hội nhập
quốc tế 95
7. Đổi mới thị trường tài chính theo hướng công nghệ hoá,
hiện đại hoá 96
KẾT LUẬN 98
99 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống ngân hàng đã dần hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế và có mối quan hệ hợp tác phát triển chính thức với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng đã có những bước đi tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, dần dỡ bỏ các rào cản về hoạt động ngân hàng tài chính với bên ngoài, cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động và thành lập các ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. Hiện đã có 26 chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 62 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài đã tích cực cung các dịch vụ tư vấn cho khách hàng nước ngoài, tạo điều kiện giới thiệu về môi trường pháp luật của Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài. Không những thế, sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài đã góp phần làm phong phú thêm và sôi động hơn thị trường tài chính, tạo nên môi trường cạnh tranh mới, phá dần thế độc quyền trên thị trường tiền tệ ở Việt Nam; thông qua đó quốc tế hoá hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Những chuyển biến trong quan hệ đối ngoại và cải cách cơ cấu, thiết lập nền tảng pháp lý cho đến nay đã tạo ra những thuận lợi ban đầu cho hoạt động và quá trình đổi mới của hệ thông ngân hàng.
2.2 Mặt còn hạn chế:
*Đến nay, có thể đánh giá thị trường tiền tệ Việt Nam mới chỉ hình thành thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp hầu như chưa có. Tất cả các loại hình thị trường tiền tệ Việt Nam bao gồm: Thị trường tín dụng ngắn hạn, Thị trường nội tệ liên ngân hàng, Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đều mới chỉ là thị trường sơ cấp. Các công cụ trên thị trường này mới chỉ được phát hành và thanh toán khi đến hạn, ngoại trừ kỳ phiếu của một số NHTM nhưng kỳ phiếu của NHTM nào thì cũng được chính ngân hàng đó chiết khấu. Ngay bản thân các TCTD và NHTM hoạt động trên TTTT chủ yếu vẫn coi các công cụ như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN là công cụ đầu tư, chỉ thanh toán khi đến hạn. TTTT thứ cấp chưa hình thành cùng với sự nghèo nàn về công cụ trên thị trường đã là một nguyên nhân chủ yếu làm việc luân chuyển, điều hoà vốn ngắn hạn trên thị trường kém linh hoạt, làm hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc hình thành và phát triển TTTT thứ cấp là một yêu cầu hết sức cấp bách.
*Hiện nay đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, một trong những bất cập nổi lên đó là vấn đề Vốn điều lệ. Vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp, kể cả đối với các ngân hàng thương mại nhà nước. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có vốn tự có lớn nhất cũng chỉ là 2200 tỷ đồng, còn các NHTM Nhà nước khác chỉ có 1100 tỷ đồng. Các NHTM Cổ phần có tổng số vốn điều lệ khoảng trên 25000 tỷ đồng, như vậy trung bình mỗi ngân hàng cổ phần có vốn điều lệ bình quân là 3 triệu USD. Vốn tự có thấp đã làm giảm khả năng mở rộng tín dụng và làm tăng rủi ro tín dụng của các NHTM. Ngoài ra, một số ngân hàng thương mại còn hoạt động tín dụng biệt lập, thiếu sự hợp tác để thực hiện các dự án đồng tài trợ, cộng với sự vắng bóng của một thị trường tiền tệ liên ngân hàng năng động đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn trên toàn hệ thống ngân hàng là rất thấp.
*Hiện nay, khả năng phân tích và thẩm định dự án của một số cán bộ ngân hàng vẫn chưa cao nên tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng cao, chất lượng tín dụng rất thấp. Năm 1999, tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM QD là 14,2% trên tổng dư nợ, chiếm 70% số nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng. Thị trường tín dụng đã có lúc lâm vào tình trạng “đóng băng”, nghĩa là ngân hàng thừa vốn còn doanh nghiệp thiếu vốn. Điều này một mặt phản ánh những yếu kém nội tại của nền kinh tế và của hệ thống NHTM, mặt khác thể hiện sự thiếu linh hoạt của TTTT Việt Nam.
II. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
1.Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam qua hai năm:
1.1. Về hoạt động phát hành và niêm yết chứng khoán
Cho đến nay cuối tháng 7/2002, UBCKNN đã cấp phép phát hành, tăng vốn và đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 19 công ty cổ phần (CtyCP) với tổng giá trị vốn điều lệ là 1.016 tỷ đồng. UBCKNN, TTGDCK phối hợp với Bộ Tài chính đã thực hiện thành công 22 đợt đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) với tổng giá trị là 3.088,6 tỷ đồng. Công tác tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng, thời kỳ đầu việc triển khai công tác này có nhiều khó khăn. Đến nay, với số lượng hàng hoá trên 4.000 tỷ đồng nói trên là một sự cố gắng lớn của UBCKNN cũng như các Bộ, ngành, địa phương.
Qua 2 năm hoạt động cho thấy các CtyNY đều là những DNNN CPH và hiện nay hoạt động kinh doanh của các công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi; bên cạnh đó, CtyNY trên TTCK được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức hấp dẫn người đầu tư.
Thời gian qua, Công ty cổ phần (CtyCP) Giấy Hải Phòng (HAPACO) đã phát hành thành công 1 triệu cổ phiếu mới để huy động vốn cho dự án xây dựng nhà máy giấy Krat với tổng giá trị là 32 tỷ đồng (tính theo giá phát hành). CtyCP Cơ điện lạnh (REE) phát hành thêm 7,5 triệu cổ phiếu thưởng để tăng vốn điều lệ từ 150 tỷ đồng lên 225 tỷ đồng.
Về cơ bản các CtyNY đều cố gắng đáp ứng các quy định do UBCKNN đề ra, bộ máy quản lý, công tác tài chính, kế toán của CtyNY đã được chú trọng, nhất là chất lượng báo cáo tài chính kế toán. Tuy nhiên, một số CtyNY còn thụ động trong việc công bố thông tin: hầu hết các CtyNY chỉ chú trọng vào thông tin định kỳ và thông tin phải cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan tới hoạt động của công ty.
Trong năm 2001, UBCKNN đã yêu cầu các tổ chức niêm yết xây dựng quy trình công bố thông tin thống nhất, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận và cá nhân liên quan trong việc cung cấp thông tin; kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh các hoạt động công bố thông tin không đúng quy định, chưa chính xác của các CtyNY. Đến nay, các CtyNY đã tuân thủ các quy định về công bố thông tin tạo cơ sở cho các nhà đầu tư kịp thời nắm bắt các thông tin để có các quyết định đầu tư, nhiều công ty đã thành lập phòng (hoặc bộ phận) công bố thông tin để giúp Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban Giám đốc trong việc nắm bắt tình hình TTCK.
1.2 Về hoạt động của các Công ty chứng khoán (CtyCK):
UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động cho 9 CtyCK, trong đó có 3 CtyCP và 6 công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là những công ty chứng khoán như: Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC), công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất(FSC), công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn(SSI), công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam(BSC), công ty TNHH Thăng Long(TSC), công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng á Châu(ACBS), công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công thương(IBS), công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn(ARSC) và công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương(VCBS). Từ khi được cấp phép hoạt động, các Cty CK không ngừng củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức, mở địa bàn hoạt động thông qua việc mở thêm chi nhánh tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, mở thêm Phòng giao dịch, Đại lý nhận lệnh tại Hà Nội, Vũng Tầu, Hải Phòng, Đồng Nai. Với sự giúp đỡ của UBCKNN trong việc đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán, đến nay tổng số nhân viên của các Cty CK được cấp phép hành nghề kinh doanh là 137 người, tăng 45 người so với năm 2001. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh cũng được các công ty từng bước hoàn thiện qua việc mở rộng sàn giao dịch, thiết lập trang Web riêng của Công ty.
Việc tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật đã cho phép các Cty CK mở rộng triển khai các nghiệp vụ chứng khoán. Đến nay, nghiệp vụ môi giới vẫn là nghiệp vụ được các Cty CK triển khai tích cực nhất. Tính đến nay, tổng số tài khoản mở tại các Cty CK là hơn 11 nghìn tài khoản, tăng gấp 5 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2000 và gấp 2 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001, trong đó có gần 100 nhà đầu tư là tổ chức và hơn và hơn 30 nhà đầu tư nước ngoài. Việc thực hiện quy định ký quỹ 100% trước khi đặt lệnh giao dịch, ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty nghiêm túc thực hiện và thực hiện một cách an toàn.
Đầu năm 2002, các Cty CK đã tích cực phối hợp cùng với Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh thực hiện quy trình thanh toán T+3 tăng số phiên giao dịch trong tuần lên 5 phiên. Việc triển khai quy trình thanh toán này đã làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và được các nhà đầu tư ủng hộ, hoan nghênh. Nếu như trong năm 2001, hầu hết các Cty CK áp dụng mức phí giao dịch như nhau và bằng với mức phí trần do Bộ Tài chính và UBCKNN quy định thì sang năm 2002, các Cty CK liên tục thông báo giảm phí môi giới nhằm thu hút khách hàng.
Nghiệp vụ tự doanh được các Cty CK triển khai ngay từ khi thị trường đi vào hoạt động. Đến nay, nghiệp vụ này tiếp tục được các Cty CK duy trì và phát triển. Tổng giá trị tự doanh được các Cty CK thực hiện trong năm 2001 là 34 tỷ đồng bằng 1,69% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường. Đối với nghiệp vụ tư vấn đầu tư tiếp tục được các Cty CK thực hiện dưới hai hình thức tư vấn niêm yết và tư vấn đầu tư. Nghiệp vụ này nhằm tới 2 đối tượng là các nhà đầu tư và các Cty CP có nhu cầu niêm yết. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân là các nhà đầu tư được hầu hết các công ty thực hiện miễn phí. Việc làm này một phần giúp nhân viên của các Cty CK nâng cao nghiệp vụ, tạo dựng hình ảnh của công ty, định hướng đầu tư cho khách hàng.
Nếu như năm 2001, chúng ta chứng kiến TTCK Việt Nam khan hiếm hàng hoá, làm cho giá chứng khoán liên tục tăng lên, đã có thời điểm giá chứng khoán cao hơn gấp nhiều lần so với giá trị thực, thì đến nay với sự nỗ lực của các Cty CK trong việc tiếp xúc, tư vấn niêm yết đối với các Cty CP hoạt động kinh doanh tốt và có nhu cầu niêm yết trên TTCK, lượng hàng hoá niêm yết trên thị trường đã được gia tăng đáng kể. Hiện giờ đã có 17 Cty CP ở nhiều ngành nghề khác nhau đã được niêm yết trên TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên 800 tỷ đồng. Nhờ đó, giá các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường có xu hướng nhích gần trở lại với giá trị thực của nó.
Ngoài ra, nhằm cung cấp thêm thông tin cho các nhà đầu tư, một số CtyCK như Bảo Việt còn phát hành hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng các bản tin nội bộ, những bản tin này đã được phát không cho các nhà đầu tư mở tài khoản tại công ty, Cty CK Ngân hàng Công thương phối hợp với Công ty điện toán và truyền số liệu Việt Nam(VASC) hàng tuần cung cấp trên mạng Internet một bài phân tích diễn biến giao dịch trong tuần và đưa ra nhận định cho tuần tiếp theo.
Tính đến thời điểm này, mới chỉ có duy nhất CtyCK BVSC thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu Quỹ Hỗ trợ phát triển với giá trị trên 100 tỷ đồng. Các CtyCK khác chỉ thực hiện nghiệp vụ này với việc làm Đại lý phát hành cho CtyCP giấy Hải Phòng, trong đợt phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn và làm Đại lý phát hành cho một số CtyCP chưa niêm yết khác. Do hình thức bảo lãnh phát hành hiện nay là cam kết chắc chắn trong khi phí bảo lãnh phát hành không được vượt quá 3% nên các CtyCK cũng gặp khá nhiều khó khăn khi muốn triển khai nghiệp vụ này.
Ngoài các nghiệp vụ chính, các CtyCK còn chủ động phối hợp với các tổ chức tín dụng, công ty viễn thông nhằm cung cấp thêm các dịch vụ hỗ trợ khách hàng như cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán, theo dõi giao dịch, đặt lệnh giao dịch mà không cần phải dến sàn giao dịch của công ty; ký hợp đồng thực hiện việc lưu ký chứng khoán, quản lý danh sách cổ đông với các CtyCP chưa niêm yết.
Kết thúc năm tài chính 2001, hầu hết các CtyCK đều có lợi nhuận. Doanh thu đã đa dạng hơn và cao gấp nhiều lần so với năm trước. Trong đó, doanh thu mội giới bình quân của các công ty đạt 1,1 tỷ đồng, doanh thu tự doanh bình quân đạt 1,3 tỷ đồng, trong đó CtyCK SSI là công ty dẫn đầu thị trường về doanh thu từ nghiệp vụ môi giới và tư vấn đâù tư, CtyCK ACBS dẫn đầu về doanh thu tự doanh, CtyCK BVSC là công ty duy nhất có thu từ nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đạt trên 500 triệu đồng và cũng là công ty có doanh thu cao nhất từ nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. Đặc biệt, trong năm qua CtyCK SSI đã 2 lần tăng vốn điều lệ và được UBCKNN cho phép thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Có thể nói, đây là một minh chứng cho sự phát triển của hệ thống CtyCK nói chung và của CtyCK SSI nói riêng.
1.3. Hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán:
Tính đến ngày 30/6/2002, TTGDCK Tp.HCM đã thực hiện 322 phiên giao dịch, với tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là 41,3 triệu cổ phiếu và 841 ngàn trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 1.673 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 94,9%. Bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong 1 phiên đạt 5,2 tỷ đồng. Hiện nay, đã có 19 loại cổ phiếu và 27 trái phiếu được niêm yết giao dịch.
Trong 2 năm qua, TTGDCK TP.HCM đã thực hiện tương đối tốt công tác quản lý niêm yết, thành viên và công bố thông tin thị trường. Bên cạnh đó, TTGDCK TP.HCM còn thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm tiếp nhận những ý kiến đóng góp của các CtyCK thành viên, CtyNY, kiến nghị lên UBCKNN điều chỉnh và bổ sung các quy định, quy chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn thị trường đòi hỏi.
Việc lưu ký chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch chứng khoán tại TTGDCK. Các thành viên lưu ký đều tuân thủ các quy định về lưu ký chứng khoán của UBCKNN và TTGDCK. Hiện nay, hoạt động của các thành viên lưu ký nước ngoài chưa đáng kể do người nước ngoài đầu tư còn ít vào TTCK Việt Nam.
Tính đến tháng 7/2002 tổng số cổ phiếu lưu ký tại TTGDCK Tp.HCM là 54 triệu cổ phiếu trên tổng số 101,6 triệu cổ phiếu niêm yết, chiếm 61,57%; tổng giá trị trái phiếu chính phủ và trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và phát triển (NHĐT&PT) Việt Nam là 3.246 tỷ đồng đã được lưu ký gần như toàn bộ, đạt 93,87
1.4. Hoạt động quản lý nhà nước của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN):
Ngay sau khi TTGDCK TP.HCM đi vào hoạt động với đặc điểm của thị trường là quy mô nhỏ, hàng hoá còn ít, sự hiểu biết về chứng khoán và TTCK của đa số công chúng còn hạn chế, yếu tố tâm lý chi phối thị trường rất mạnh, vì vậy để đảm bảo hoạt động ổn định của thị trường trong giai đoạn đầu, UBCKNN đã tập trung chỉ đạo và thực hiện một số biện pháp sau:
- Nâng cao năng lực tổ chức, điều hành hoạt động giao dịch của TTGDCK, đảm bảo khả năng xử lý, phản ánh linh hoạt của TTGDCK đối với các diễn biến của thị trường như qui định linh hoạt mức giá tham chiếu khi đưa vào niềm yết lần đầu phù hợp với thực tế thị trường; qui định biên độ dao động giá một cách linh hoạt cho giao dịch cổ phiếu;
- Tăng cường công tác quản lý giám sát, đảm bảo cho thị trường hoạt động công khai minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. UBCKNN chỉ đạo, giám sát việc tổ chức giao dịch, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của các Cty CK, Cty NY và của các nhà đầu tư;
- Qua thực tế hoạt động của thị trường, UBCKNN đã rà soát và lấy ý kiến của các đơn vị liên quan như TTGDCK, CtyCK, CtyNY và điều chỉnh, bổ sung các quy chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn hoạt động của thị trường;
- UBCKNN đã bước đầu kịp thời xem xét, nghiên cứu, đề xuất và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cùng giải quyết các vấn đề vướng mắc như kiến nghị về chính sách thuế, phí, phương thức phát hành trái phiếu, quản lý ngoại hối với nhà ĐTNN;
- Để tạo thêm hàng hoá cho TTCK, UBCKNN đã làm việc với các Bộ ngành, Tổng công ty lớn, các địa phương về việc đưa cổ phiếu của các CtyCPH vào niêm yết trên TTGD và phát hành trái phiếu cho các dự án qua TTCK;
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng như mở các lớp học miễn phí cho các đối tượng làm công tác tuyên truyền, báo chí và các lớp cho dân chúng tham gia;
- Nhằm mở rộng phạm vi TTCK phù hợp với nhu cầu và điệu kiện hiện nay của Việt Nam, UBCKNN đã nghiên cứu , trình Chính phủ và đang triển khai xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) tại Hà Nội;
- UBCKNN đã hoàn thành bản dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP và đề án định hướng phát triển TTCK giai đoạn2002 - 2010 và sẽ trình Chính phủ trong quý 3/2002;
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra của UBCKNN được tập trung chủ yếu vào các vấn đề tuân thủ các quy định của pháp luật của các tổ chức tham gia thị trường. Qua thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót của CtyNY như chưa thực hiện đầy đủ cam kết trong bản cáo bạch; chưa thực hiện tốt việc công bố thông tin theo qui định của UBCKNN; và các thiếu sót của các CtyCK như một số nhân viên kinh doanh chứng khoán chưa có đủ giấy phép hành nghề; chưa thực hiện việc niêm yết giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán và tên nhân viên đại diện giao dịch tài sản; thực hiện chế độ báo cáo chậm và không đầy đủ nội dung theo quy định, đồng thời yêu cầu trung tâm giao dịch chứng khoán tăng cường giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán, kịp thời phát hiện những hành vi giao dịch không công bằng để có biện pháp xử lý thích hợp.
2. Đánh giá tình hình hoạt động và mức độ hội nhập quốc tế của TTCK Việt Nam.
2.1. Đánh giá 2 năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam:
2.1.1. Mặt được.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trước những vấn đề đặt ra trong quá trình mở cửa và hội nhập, đồng thời phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-Tiền tệ khu vực, TTCK Việt Nam vẫn được ra đời và đi vào hoạt động. Tuy chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, nhưng sau 2 năm hoạt động , TTCK Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tạo dựng nền móng ban đầu hết sức cơ bản cho sự phát triển của thị trường trong tương lai, đồng thời đánh dấu bước tiến mới trong quá trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam thể hiện quyết tâm xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Về cơ bản đã xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn hoạt động và quản lý thị trường tương đối đầy đủ đảm bảo cho sự vận hành ban đầu của thị trường. Theo pháp luật về chứng khoán hiện nay thì văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Trên cơ sở Nghị định này, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/1999/QĐ - TTg ngày 10/9/1999 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng đã ban hành như: Thông tư số 01/2000/TT - UBCK ngày 17/4/2000 về hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Quyết định số 79/2000/QĐ - UBCK ngày 29/12/2000 của Chủ tịch uỷ ban chứng khoán Nhà nước về việc ban hành quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán.
Để tăng cường hoạt động quản lý và điều hành, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 17/2000/NĐ - CP ngày 26/5/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán; Nghị định số 22/2000/NĐ - CP ngày 10/7/2000 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
Mặc dù việc xây dựng khung pháp lý về chứng khoán và TTCK phải thực hiện trong điều kiện đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới, phải làm từ đầu, pháp luật Việt Nam hầu như chưa có quy định về vấn đề này, chúng ta lại chưa có kinh nghiệm và chủ yếu là dựa trên kinh nghiệm và pháp luật của nước ngoài, nhưng có thể nói, trong thời gian qua, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đồng bộ để điều chỉnh các mặt hoạt động trên thị trường. Thực tế qua 2 năm hoạt động, về cơ bản, khung pháp lý đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra, thị trường đã tương đối ổn định và phát triển.
Mặc dù tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhất là đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, tuy nhiên ngay từ khi thành lập, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) dưới sự chỉ đạo của chính phủ, đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng khuôn khổ pháp lý , các tổ chức tài chính trung gian, chuẩn bị hàng hoá và các điều kiện khác cho sự ra đời TTCK. Ngày 11/7/1998, Nghị định số 48/1998/NĐ - CP về chứng khoán và TTCK và Quyết định số 127/1998/QĐ - TTg về việc thành lập 2 Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) ở Hà nội và TP.HCM được chính thức ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của TTCK Việt Nam.
Việc TTGDCK TP.HCM chính thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000 đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam. Mặc dù quy mô của TTCK còn nhỏ bé, song bước đầu đã thu được sự quan tâm của công chúng đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Đến nay TTCK Việt Nam đã trải qua 2 năm đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình. Hai năm vừa qua là 2 năm làm quen với hoạt động của TTCK, 2 năm vượt qua bao khó khăn thử thách để giữ vững, ổn định và từng bước phát triển thị trường.
Đã tổ chức và vận hành được một TTGDCK tập trung bán tự động với hơn 300 phiên giao dịch hoàn toàn suôn sẻ. Hệ thống giao dịch của TTGDCK ban đầu cho phép đấu lệnh 300.000 lệnh /phiên với thời hạn thanh toán giao dịch là 4 ngày (T+4), đến nay đã được nâng cấp với nhiều chức năng hỗ trợ cho quản lý giao dịch và đã thực hiện giảm thời gian thanh toán xuống 3 ngày (T+3).
Hoạt động quản lý, vân hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK TP.HCM đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. UBCKNN đã đề ra những biện pháp chính sách thích hợp, kịp thời,nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả, không để xẩy ra những hậu quả bất ổn đáng tiếc.
Các chủ đề tham gia TTCK như TTGDCK, CtyNY, CtyCK, các nhà quản lý, các nhà đầu tư qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực, hiệu quả. Thông qua hoạt động của thị trường, các CtyNY, CtyCK tận dụng được những lợi thế mà thị trường đem lại. Các công ty đã cải tiến phương thức hoạt động, công khai hoá thông tin, nâng cao vai trò quản trị công ty, nhờ vậy mà vị thế và tuy tín của công ty được nâng lên. Qua hai năm hoạt động của TTCK Việt Nam, hệ thống các CtyCK Việt Nam đã có những bước trưởng thành rõ rệt. Với 9 CtyCK và nhiều chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở nhiều trung tâm kinh tế quan trọng trên phạm vi cả nước, hệ thống CtyCK đã thực sự đóng vai trò là định chế tài chính trung gian trên TTCK. Sự phát triển của TTCK Việt Nam, một mặt tạo điều kiện cho các CtyCK phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó chính các CtyCK không ngừng phát triển sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của TTCK nói chung.
Thị trưòng từng bước có sự phát triển. So với thời gian đầu khá khiêm tốn đến nay đã có 19 CtyNY và 9 CtyCK. Số lượng nhà đầu tư, khối lượng giao dịch và tổng trị giá thị trường được tăng lên dần. Điều đángchú ý là có một số CtyNY đã hoặc đang có đề án phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua TTCK. Bên cạnh đó, nhằm mở rộng phạm vi, qui mô thị trường, theo quyết định và chỉ đạo của Chính phủ UBCKNN đang triển khai đưa thị trường giao dịch cổ phiếu cho DNV&N vào hoạt động.
Công tác đào tạo và tuyên truyền đã luôn được chú trọng và đóng góp đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết pháp luật về chứng khoán và TTCK cho công chúng.
Công tác tạo hàng hoá cho thị trường của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã có những thành công đáng khích lệ. Từ một thị trường ban đầu chỉ có 4 loại cổ phiếu với tổng giá trị vốn cổ phần vào khoảng hơn 300 tỷ đồng và hai loại trái phiếu chính phủ, đến nay số lượng cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên thị trường đã phát triển đến con số 17, với tổng số vốn cổ phần lên đến gần 900 tỷ đồng, gấp khoảng 3 lần số cổ phiếu ban đầu. Mặc dù chưa được giao dịch mạnh trên thị trường, nhưng giá trị trái phiếu được niêm yết lại tăng rất nhanh. Đến nay, các nhà đầu tư đã có thể tiếp cận với 27 loại trái phiếu bao gồm 2 loại của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, và 25 loại trái phiếu Chính phủ với tổng giá trị là hơn 3000 tỷ đồng.
Tuy nhiên thành công lớn hơn của công tác phát triển hàng hoá cho thị trường lại là ở chỗ, các doanh nghiệp đã có những kiến thức sâu sắc hơn về thị trường chứng khoán. Nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã mạnh dạn hơn trong việc tiếp cận với thị trường. Từ một thái độ dè dặt trước những rủi ro và trách nhiệm phải gánh vác khi tham gia thị trường, các nhà quản lý đã hiểu và nắm bắt những ưu thế của TTCK để sử dụng những ưu thế này cho những chiến lược phát triển có tính dài hạn của doanh nghiệp do mình quản lý. Đây chính là một tín hiệu đáng mừng báo hiệu một sự đột biến về số lượng cũng như chất lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới. Điển hình của sự chuyển biến này là đợt huy động vốn cho dự án nhà máy giấy Kraft đầu tiên ở Việt Nam của Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng. Mặc dù đã gặp phải không ít khó khăn nhưng bằng sự thống nhất và lòng quyết tâm của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên, Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng đã huy động được một lượng vốn không nhỏ cho dự án của mình. Với đợt huy động vốn này, Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng không những đã trở thành một minh chứng cụ thể cho vai trò của TTCK trong việc huy động v