MỤC LỤC
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY
SAU KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I – TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) 3
VÀ HIỆP ĐỊNH ĐA SỢI (MFA)
1.1 Tính tất yếu của sự ra đời Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 3 1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - 3
Tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới
1.1.1.1 Bối cảnh ra đời của GATT 3 1.1.1.2 Các chức năng và nguyên tắc cơ bản của GATT 4
1.1.2 Sự ra đời tất yếu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 5
1.2 Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) 7
1.2.1 Các chức năng nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động của
Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) 7
1.2.2 Bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) 7
1.2.3 Những thành tựu chính trong quá trình hoạt động của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 9
1.3 Hiệp định đa sợi (MFA) và tình hình thực hiện 12
1.3.1 Nội dung chính 12
1.3.2 Tình hình thực hiện Hiệp định đa sợi (MFA) 15
1.4 Hiệp định về hàng dệt – may tại vòng đàm phán URUGUAY 17
1.4.1 Tóm tắt Hiệp định 17
1.4.2 Tình hình thực hiện Hiệp định ATC trong thời gian qua 22
1.4.2.1 Về danh mục đưa vào tự do hóa 22
1.4.2.2 Về các Hiệp định song phương trong khuôn khổ MFA 25
1.4.2.3 Về việc các biện pháp hành chính trong thực hiện 25
các hạn chế
1.4.2.4 Về việc áp dụng các biện pháp tự vệ 25
1.4.3 Tác động của Hiệp định ATC đối với môi trường kinh doanh
dệt – may quốc tế 27
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH 29
DỆT – MAY VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1 Giới thiệu về ngành dệt – may Việt Nam 29
2.1.1 Nét chung của ngành dệt – may xuất khẩu Việt Nam 29
2.1.2 Đánh giá tổng quát khả năng sản xuất trong nước 30
2.1.3 Tóm lược tình hình công nghệ của ngành dệt may Việt Nam 32
2.1.4 Cơ cấu sản phẩm của ngành dệt – may Việt Nam 33
2.1.5 Khái quát thị trường tiêu thụ trong nước 36
2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
những năm qua 37
2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 37
2.2.1.1 Tổng quát về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam những năm qua 37
2.2.1.2 Phân tích cụ thể tình hình xuất khẩu hàng dệt may
trong năm 2002 38
2.2.2 Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam 39
2.2.2.1 Những chủng loại xuất khẩu chủ yếu trong thời
gian qua 39
2.2.2.2 Thực hiện cơ cấu về hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam 40
2.2.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu và kênh phân phối 41
2.2.3.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam 41
2.2.3.2 Đặc điểm về hệ thống phân phối của thị trường
mục tiêu xuất khẩu 44
2.2.4 Phương thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 48
2.2.4.1 Gia công xuất khẩu 48
2.2.4.2 Xuất khẩu trực tiếp 50
2.3 Vấn đề năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu 51
2.3.1 Đặc điểm chủ yếu về cạnh tranh của hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu (XK) 51
2.3.2 Năng lực canh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu 55
2.3.2.1 Chất lượng hàng dệt may XK của Việt Nam 55
2.3.2.2 Chí phí XK và mức giá XK của hàng dệt may Việt Nam 58
2.3.2.3 Năng lực cạnh tranh trong hệ thống phân phối 61
hàng dệt may của Việt Nam
2.3.2.4 Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam 61
2.3.3 Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam 62
2.3.3.1 Những kết quả nổi bật 62
2.3.3.2 Những thách thức lớn đối với hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu hiện nay 62
CHƯƠNG III – ĐỊNH HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ 64
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT – MAY VIỆT NAM
3.1 Định hướng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh 64
hàng dệt may của Việt Nam
3.1.1 Những quan điểm cơ bản trong định hướng xuất khẩu
và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 64
3.1.1.1 Quan điểm thứ nhất 65
3.1.1.2 Quan điểm thứ hai 65
3.1.1.3 Quan điểm thứ ba 66
3.1.1.4 Quan điểm thứ tư 67
3.1.2 Những định hướng chủ yếu cho xuất khẩu và nâng cao
năng lực cạnh tranh XK hàng dệt may của Việt Nam 68
3.1.2.1 Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản đối với
XK và nâng cao năng lực cạnh tranh XK hàng
dệt may của Việt Nam 68
3.1.2.2 Mục tiêu định hướng cho chiến lược đẩy mạnh XK
dệt may của Việt Nam đến năm 2010 70
3.1.2.3 Một số định hướng lớn cụ thể 72
3.2 Hệ thống các nhóm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 73
3.2.1 Nhóm giải pháp Marketing nghiên cứu thị trường và
hoạch định chiến lược thị trường 73
3.2.1.1 Đẩy mạnh hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường 73
3.2.1.2 Xây dựng chiến lược thị trường XK dệt may của
Việt Nam 77
3.2.2 Nhóm giải pháp về chiến lược sản phẩm và nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu 78
3.2.2.1 Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và
năng lực cạnh tranh 78
3.2.2.2 Giải pháp tập trung hóa kết hợp đa dạng hóa
sản phẩm với nhiều mẫu mã “mốt” thời trang 81
3.2.3 Nhóm giải pháp về chiến lược đầu tư công nghệ và
nâng cao năng lực cạnh tranh 82
3.2.3.1 Giải pháp về chiến lược công nghệ và nâng cao
năng lực cạnh tranh 82
3.2.3.2 Giải pháp về vốn đầu tư cho chiến lược công nghệ 87
3.2.4 Nhóm giải pháp về chiến lược chi xuất khẩu thấp và
tăng nhanh phương thức tự doanh trong xuất khẩu 88
3.2.4.1 Giải pháp về chiến lược chi phí xuất khẩu thấp,
nâng cao năng lực cạnh tranh 88
3.2.4.2 Giải pháp mở rộng phương thức xuất khẩu trực tiếp
hay tự doanh xuất khẩu 91
3.2.5 Các giải pháp còn lại 93
3.2.5.1 Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng cáo 93
3.2.5.2 Chú trọng hoạt động hội chợ triển lãm thương mại
quốc tế và các công cụ yểm trợ xuất khẩu khác 93
3.5.2.3 Giải pháp qui hoạch và đào tạo nguồn nhân lực 94
KIẾN NGHỊ 96
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
115 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2248 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những thách thức và cơ hội đối với ngành Dệt - May khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương Mại Thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống kênh phân phối khá phức tạp, đội ngũ nhân viên đông, chi phí tiêu thụ sản phẩm tương đối cao so với Bắc Mỹ và Eu. Trong những năm gần đây, do sự đòi hỏi của toàn xã hội, hệ thống kênh phân phối đã được chấn chỉnh tích cực nhưng vẫn phải tiếp tục hoàn thiện tốt hơn nhằm kiểm soát có hiệu quả hàoáo và dịch vụ nhập khẩu.
- Các nhà phân phối :
Nét nổi bật là các nhà phân phối Nhật Bản thường rất coi trọng mối quan hệ với các nhà cung cấp truyền thống nội địa, đồng thời thận trọng và dè dặt trước các nhà xuất khẩu nước ngoài, ngay cả khi sản phẩm của họ có thể tốt hơn và giá cả hấp dẫn hơn. Các nhà phân phối Nhật Bản rất cảnh giác việc các nhà cung cấp nước ngoài không giao hàng đúng hạn, khó cung cấp tốt dịch vụ sau bán hàng và do đó dễ có thể phát sinh rủi ro.
Do vậy, cùng với việc chiếm lĩnh lòng tin của các nhà phân phối Nhật Bản, rất cần phải thuyết phục được lòng tin của các nhà cung cấp ngay trong nước Nhật.
- Về hệ thống kênh bán lẻ ở Nhật Bản hiện nay khoảng một nửa lượng tiêu thụ hàng dệt may được thực hiện thông qua các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Các cửa hàng này có mối quan hệ mật thiết với các nhà sản xuất trong nước về các ưu đãi tài chính, những tài trợ về hạ tầng cơ sở và Makerting.
Hiện nay, khoảng hơn một nửa hàng dệt may xuất khẩu vào Nhật Bản được phân phối thông qua các cửa hàng lớn, cửa hàng bách hoá và các cửa hàng giảm giá. Bên cạnh đó, kênh phân phối ở Nhật Bản thông qua nhập khẩu trực tiếp ngày càng phổ biến.
2.2.4. Phương thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
2.2.4.1. Gia công xuất khẩu
Một cách ngắn gọn, gia công xuất khẩu là một phương thức kinh doanh quốc tế, theo đó bên đặt gia công (là khách hàng nước ngoài ) chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ vải và phụ liệu cho bên nhận gia công theo định mức tiêu hao nguyên liệu; còn bên nhận gia công (doanh nghiệp Việt Nam ) có nghĩa vụ tiến hành sản xuất để giao lại sản phẩm và được nhận một khoản tiền công theo hợp đồng thoả thuận.
Trong những năm qua (1995 - 2002) hoạt động kinh doanh xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vẫn tiến hành chủ yếu theo phương thức gia công xuất khẩu. Cụ thể hơn, phương thức này chiếm gần 80% tổng kim ngach xuất khẩu dệt may hàng năm.
Sau khi sản xuất xong, khách hàng nước ngoài nghiệm thu sản phẩm xuất khẩu, đồng thời trả lại cho doanh nghiệp Việt Nam tiền gia công như đã thoả thuận.
Nhìn chung, đối với doanh nghiệp, phương thức gia công xuất khẩu có những ưu điểm và nhược điểm cơ bản sau đây :
Ưu điểm :
Thứ nhất, doanh nghiệp không phải ứng trước vốn mua nguyên liệu vì được khách hàng nước ngoài cung cấp. Điều này rất có ý nghĩa về tài chính vì khi hạn hẹp về tài chính nhưng doanh nghiệp vẫn có thể tiến hành được hoạt động kinh doanh thông qua phương thức gia công xuất khẩu.
Thứ hai, doanh nghiệp đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động. Xu thế chung của các khách hàng nước ngoài khi đặt gia công bao giờ cũng muốn tìm đối tác tin cậy để đặt hàng thường xuyên. Khách hàng thường đặt hàng liên tục và lên kế hoạch đặt hàng gia công cụ thể hàng năm. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện bố trí kế hoạch sản xuất, ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động.
Thứ ba, doanh nghiệp tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật may của khách hàng nước ngoài. Khi thực hiện các hợp đồng gia công, khách hàng thường xuyên cử chuyên gia kỹ thuật đến hướng dẫn kỹ thuật may. Nhờ vậy, doanh nghiệp làm gia công tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật sản xuất của nước ngoài cũng như kinh nghiệm tổ chức, kỹ năng quản lý doanh nghiệp và nắm bắt được nhu cầu của thị trường thế giới.
Thứ tư, việc thanh toán tiền gia công của doanh nghiệp được đảm bảo. Trong điều kiện thanh toán của hợp đồng gia công thường quy định : Khách hàng mở L/C hoặc chuyển tiền từ 30 - 70 ngày trước thời hạn giao hàng. Điều kiện này bắt buộc khách hàng thanh toán chắc chắn phí gia công. Nếu khách hàng không thực hiện đúng, doanh nghiệp làm gia công không tiến hành giao hàng như quy định. Mặt khác, quy định trên giúp doanh nghiệp gia công bố trí năng lực sản xuất, đẩy nhanh tiến độ giao hàng và sớm thu hồi phần vốn của mình.
Nhược điểm:
Một là, lợi nhuận trong phương pháp gia công xuất khẩu thường chỉ đạt mức thấp. Thực chất của phương thức gia công là phương thức làm thuê, lấy công làm lãi nên lợi nhuận không cao, thường chỉ đạt 5% giá trị gia công. Vòng quay vốn chậm vì sản xuất một đơn hàng thường phải mất từ 30-45 ngày và 15-30 ngày cho việc thanh toán qua ngân hàng nên vốn thu hồi chậm.
Hai là, doanh nghiệp thường rơi vào tình trạng bị động, hoàn toàn phụ thuộc phía nước ngoài về việc cung cấp nguyên phụ liệu. Nhiều trường hợp khách hàng gửi nguyên vật liệu không đồng bộ nên các doanh nghiệp trong nước không thể triển khai sản xuất mà phải chờ đầy đủ nguyên vật liệu mới gia công được.
Ba là, doanh nghiệp chưa có điều kiện tiếp cận và giao dịch với nhà xuất khẩu nước ngoài, chưa có điều kiện khảo sát thực tế thị trường thế giới...
2.2.4.2. Xuất khẩu trực tiếp
Phương thức xuất khẩu trực tiếp còn gọi là "tự doanh" hay "mua đứt bán đoạn" là phương thức chiến lược của Ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010. Hiện nay phương thức này chỉ chiếm trên 20% trong kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng tăng dần tỷ trọng của phương thức xuất khẩu trực tiếp lên tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu vào các năm 2004 - 2005.
Ưu điểm :
Chủ động bố trí và lên kế hoạch sản xuất với cương vị ông chủ quyết định toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Lợi nhuận cao hơn hình thức gia công vì lẽ doanh nghiệp tìm được những nguồn cung cấp nguyên liệu với giá cả hợp lý và chủ động tiết kiệm tốt nhất trong khâu định mức tiêu hao nguyên liệu.
Nhược điểm:
Doanh nghiệp phải tự đầu tư vốn mua nguyên liệu và mọi chi phí đầu vào, tự lo thị trường xuất khẩu cho sản phẩm đầu ra, nghĩa là phải lo tất cả từ A đến Z trong kinh doanh xuất khẩu.
Doanh nghiệp phải tự chịu độ rủi ro cao.
2.3. VẤN ĐỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM XUẤT KHẨU
2.3.1. Đặc điểm chủ yếu về cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
Cạnh tranh luôn luôn tồn tại đồng hành cùng với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường. Tham gia vào thị trường hàng hoá nói chung cũng như thị trường dệt may nói riêng, doanh nghiệp đương nhiên phải chấp nhận cạnh tranh như một quy luật. Tuy nhiên, ngoài quy luật cạnh tranh chung, trong kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường thế giới còn có những đặc điểm riêng cụ thể, trước hết phải kể đến những đặc điểm chủ yếu sau :
Thứ nhất, nhu cầu về hàng dệt may rất đa dạng. Hàng dệt may trước hết thuộc loại nhu cầu thiết yếu hàng ngày của mọi người ở tất cả các nước. Khác với lương thực như lúa gạo, lúa mì hay các loại thực phẩm khác, hàng dệt may không chỉ thuộc loại nhu cầu vật chất thiết yếu thông thường mà còn gắn liền với nhu cầu tinh thần, trong đó phải kể đến nhu cầu văn hoá, nhu cầu danh dự. Như vậy, có thể nói, hàng dệt may liên quan mật thiết đến tất cả 5 cấp loại nhu cầu chủ yếu trong Marketing là : nhu cầu vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu danh dự và nhu cầu tự khẳng định.
Ngoài 5 cấp loại trên, tất cả mọi người, ngay cả sau khi từ giã cuộc đời và trong "hành trình sang thế giới bên kia", vẫn còn nhu cầu may mặc một cách đầy đủ, tươm tất (được xếp vào cấp nhu cầu thứ 6, nhu cầu tâm linh). Đó cũng là một trong những đặc trưng riêng của hàng dệt may.
Theo các chuyên gia Marketing, cần hiểu đầy đủ và mở rộng nhu cầu hàng dệt may theo các nghĩa : mặc ấm và mặc đẹp. Nhớ rằng, nhu cầu mặc ấm cũng không chỉ đơn thuần theo nghĩa đen là để chống rét hay đảm bảo an toàn sức khoẻ mà còn bao hàm cả tư chất, nhân cách riêng của mỗi người. nhu cầu "mặc đẹp" càng được mở rộng hơn nữa, như : đẹp phải trang nhã, thanh tao, đẹp phải dịu dàng, đẹp phải kín đáo, sành điệu, oai phong, đẹp phải hợp hoàn cảnh (y phục xứng kỳ đức)... nhu cầu mặc đẹp theo nghĩa rộng ấy từ trang nhã, lễ nghi, uy lực, đến đẳng cấp, địa vị... cũng được bộc lộ sự đa dạng theo giới tính, độ tuổi, tôn giáo v.v... Cũng do vậy, bản thân nhu cầu về hàng dệt may đã bao hàm tính văn hoá và tính thời trang rất cao, tinh tế và rất phong phú. Nắm bắt được nhu cầu rất đa dạng đó, các nhà tạo 'mốt" nổi tiếng, các hãng lớn đã dày công tìm tòi để đưa ra những mẫu mã mới, cải tiến, cách điệu có khả năng cạnh tranh cao và chiếm lĩnh thị trường rất hữu hiệu.
Tóm lại, toàn bộ nội dung phân tích tóm tắt trên muốn làm rõ:
- Nhu cầu về hàng dệt may là rất lớn và ngày càng mở rộng.
- Nhu cầu về hàng dệt may là rất phong phú và đa dạng, gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, trong đó có cả nhu cầu tâm linh.
- Cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may, do đó cũng rất đa dạng và khốc liệt.
- Năng lực cạnh tranh không chỉ đơn thuần bằng chất lượng và giá cả như các mặt hàng khác mà còn phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu theo từng khía cạnh nêu trên với nội dung rất phong phú, trong đó tính văn hoá và thời trang là nội hàm có ý nghĩa quyết định.
- Nếu không ý thức được đầy đủ nhu cầu phong phú trên thì không thấy được tính cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh khi xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới, nhất là thị trường các nước phát triển cao hiện nay.
Thứ hai là tương quan cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu. Nếu không kể lĩnh vực buôn bán tư liệu sản xuất thuộc ngành dệt may, thị trường nhập khẩu hàng tiêu dùng dệt may hiện nay chủ yếu vẫn là các nước phát triển thuộc 3 khu vực Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản. Những năm gần đây, nhập khẩu của các nước phát triển thường chiếm tỷ trọng trên dưới 80% tổng nhập khẩu toàn cầu. Ngược lại, các nước xuất khẩu hàng tiêu dùng dệt may chủ yếu là nhóm nước đang phát triển châu á.
Trong cuộc cạnh tranh giữa hai nhóm nước xuất khẩu và nhập khẩu này, nhìn chung lợi thế cạnh tranh vẫn thuộc về nhóm nước phát triển. Xét trên toàn cục, lợi thế đó được đánh giá thông qua những nội dung chủ yếu sau:
- Nhóm nước phát triển là quê hương của ngành công nghiệp dệt may. Như ở chương một đã nói, bước phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dệt may thế giới được gắn liền với sự ra đời và phát triển nhảy vọt của đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở các nước tư bản Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Từ sau Thế chiến hai (1939 - 1945) công nghiệp dệt may được chuyển dịch mạnh mẽ sang các nước mới phát triển (NICs) như Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan, Hongkong... Như vậy toàn bộ hoạt động sản xuất và thương mại quốc tế về hàng dệt may đã tồn tại ở các nước phát triển từ nhiều thế kỷ. Hiện nay, nhóm nước phát triển duy trì sản xuất và tự thoả mãn khoảng gần 1/2 tiêu dùng dệt may trong nước (chủ yếu chủng loại chất lượng cao), hơn một nửa còn lại được giải quyết bằng con đường nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Do trình độ kinh tế chung và mức sống đều rất cao cho nên các nước phát triển khi nhập khẩu từ các nước đang phát triển, luôn luôn đòi hỏi chất lượng rất nghiêm ngặt theo chất lượng cao trong nước. Do vậy, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu thực chất là cuộc cạnh tranh không cân sức giữa nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển, giữa một bên là những doanh nghiệp sinh sau đẻ muộn với trình độ tích tụ và tập trung sản xuất còn rất thấp, với một bên là các đại gia tiền bối, có trình độ tích tụ và tập trung cao, lại có kinh nghiệm tích luỹ qua nhiều thế kỷ.
- Các nước phát triển vẫn giữ độc quyền về công nghệ sản xuất trong ngành dệt may. Hàng năm các nước phát triển vẫn xuất khẩu công nghệ may sang các nước đang phát triển. Trong chiến lược chung, nhóm nước phát triển thường chỉ xuất khẩu những dây chuyền công nghệ thế hệ thứ 2 hoặc thứ 3, nghĩa là những dây chuyền công nghệ thường lạc hậu trên dưới 5 năm so với công nghệ mới nhất thuộc thế hệ thứ nhất ở trong nước. Chiến lược đó được xem như một nguyên tắc bảo vệ độc quyền công nghệ hiện nay của hết thảy các nước phát triển, bởi lẽ độc quyền công nghệ là cái gốc đảm bảo ưu thế trong cạnh tranh quốc tế khốc liệt hiện nay, trong đó hai công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất, đó là chất lượng sản phẩm cao và giá thành sản phẩm hạ. Hiện nay các nước phát triển đang đi đầu trong việc kết hợp công nghệ robot (tự động hoá cao) với công nghệ máy tính hiện đại ở hầu hết các khâu, từ thiết kế, sản xuất đến phân phối và tiêu thụ sản phẩm (sẽ nói cụ thể ở chương 3, phần giải pháp công nghệ ). Như vậy, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu hàng dệt may cũng diễn ra không tương sức, giữa một bên là công nghệ lạc hậu và một bên là công nghệ tiên tiến thuộc thế hệ thứ nhất. Do đó ưu thế trong cạnh tranh về chất lượng sản phẩm và giá cả vẫn nghiêng về các nước nhập khẩu mỗi khi giao dịch.
Thứ 3 là tương quan cạnh tranh nội bộ giữa các nước xuất khẩu hàng dệt may. Nét nổi bật ở đây là tương quan cạnh tranh rất không đồng đều giữa các nhà sản xuất thuộc nhóm nước đang phát triển. Có hai tiêu chí cơ bản để đánh giá sự không đồng đều này, đó là quá trình xuất khẩu truyền thống và kim ngạch xuất khẩu hiện nay.
- Về quá trình xuất khẩu truyền thống, có thể chia các nước đang phát triển xuất khẩu dệt may ra làm 3 nhóm sau :
+ Nước xuất khẩu dệt may sớm nhất, từ thập niên 50-60 của thế kỷ XX như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong... Trong cạnh tranh xuất khẩu dệt may vào 3 khu vực thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, ưu thế vượt trội thường thuộc về các nước có bề dày xuất khẩu truyền thống rất sớm, bởi những yếu tố:
- Trình độ tích tụ và tập trung sản xuất ngành dệt may khá cao.
- Công nghệ sản xuất khá hiện đại vì đây là những nước đứng đầu nhóm NICs.
- Sản phẩm thường đa dạng hoá với chất lượng cao, giá thành hạ
- Trình độ tổ chức và quản lý tốt.
- Biết Marketing và am hiểu thương trường, có hệ thống bạn hàng tin cậy
+ Nước xuất khẩu dệt may thuộc lớp thứ 2, từ thập niên 70-80, điển hình là Indonesia, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, .. Tuy tham gia xuất khẩu dệt may muộn hơn song nhìn chung năng lực cạnh tranh của nước này thuộc loại trung bình khá.
+ Nước xuất khẩu dệt may thuộc lớp thứ 3, từ thập niên 90, điển hình là Bungari, Ba Lan, Cộng hoà Séc, Việt Nam... thị trường xuất khẩu ban đầu của những nước này chủ yếu là khu vực EU, riêng Việt Nam là Nhật Bản và EU. Nhìn chung, năng lực cạnh tranh của nước này đang bị lép vế nhất vì thời gian tham gia xuất khẩu chưa nhiều, kinh nghiệm thương trường ít, hệ thống bạn hàng mỏng...
- Về kim ngạch xuất khẩu hiện nay (chủ yếu trong 3 năm gần đây), những nước đạt kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn và thị phần xuất khẩu cao, điền hình là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Hongkong, Mehico, Indonesia, Thái Lan, Pakistan. Cùng với những nước và những lãnh thổ xuất khẩu truyền thống (như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong), Trung Quốc đã vươn lên rất nhanh và trở thành nước dẫn đầu trong xuất khẩu hàng dệt may hiện nay. Nước này đang có nhiều ưu thế cạnh tranh ở cả thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản với chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ, chủng loại phong phú và đa dạng.
2.3.2. Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam xuất khẩu
Như chúng ta đã biết, năng lực cạnh tranh của bất kỳ một sản phẩm nào không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố nội tại của bản thân sản phẩm mà còn phụ thuộc sâu sắc vào hàng loạt điều kiện bên ngoài, nhiều khi những yếu tố bên ngoài còn đóng vai trò chi phối rất đáng kể. Chính vì thê, khi xét về năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp thường nhấn mạnh rằng : năng lực cạnh tranh = nội lực + thời thế.
Theo đánh giá gần đây của Bộ kế hoạch và Đầu tư, hàng dệt may được xếp vào nhóm 10 nhóm hàng có năng lực cạnh tranh nổi bật hiện nay và khả năng cạnh tranh của chúng ta ở mức trung bình. Xét về hàng dệt may, một trong những đặc điểm đáng lưu ý chính là tính thời trang và mùa vụ. Để xét năng lực cạnh tranh của mặt hàng này, chúng ta xét trên các mặt chủ yếu như : chất lượng (kiểu dáng, bao bì, nhãn mác...), chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và hệ thống phân phối. Đó là các yếu tố "nội lực" của khả năng cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam trong xuất khẩu được coi là yếu tố "thời thế" trong nội dung nghiên cứu này.
2.3.2.1. Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam:
Đánh giá đầy đủ chất lượng một sản phẩm là điều không đơn giản. Chính vì thế mà hàng loạt các tổ chức quốc tế và quốc gia về chất lượng sản phẩm đã ra đời để đánh giá chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, chất lượng sản phẩm thường được phát hiện đầy đủ trong quá trình sử dụng nghĩa là sau khi hàng hoá đã được bán. Đối với sản phẩm dệt may, với đặc điểm nổi bật là tính thời trang cho nên hình thức, kiểu dáng mẫu mã và chất liệu vải sợi tạo thành hàng dệt may thường là những nội dung cơ bản trước hết cần phải được đánh giá cụ thể.
- Đánh giá về chất liệu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
Như chúng ta đã biết, sở thích, thị hiếu của đa số người tiêu dùng ở các nước phát triển thường thiên về các sản phẩm dệt kim. Đặc trưng của sản phẩm dệt kim là các loại áo Polo- shirt. T.shirt ở thị trường xuất khẩu là áo liền sườn (ống nguyên theo thân người mặc, không có ráp sườn), độ co tối thiểu (2-3%) và sản phẩm đại trà từ sợi cotton OE có thêu hoa hoặc in hình nổi. Nắm bắt được thị hiếu này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đặt ra mục tiêu sản xuất quần áo dệt kim cotton OE 100% nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước phát triển. Các doanh nghiệp như Dệt kim Đông xuân, Dệt kim Đông phương, Dệt kim Thăng Long. Dệt Thành công... đã đầu tư chiều sâu bằng cách nhập thêm một số máy dệt kim có khổ rộng theo cỡ người, khâu hoàn tất có máy chống co cơ học compactor của Mỹ, bổ sung vào dây chuyền thiết bị sẵn có hoặc đầu tư nhà máy mới có sản lượng phù hợp. Ban đầu, Việt Nam vẫn phải nhập sợi OE nhưng sau đó thường căn cứ vào nhu cầu tăng trưởng để mở rộng thêm nhà máy chuyên kéo sợi OE cho dệt kim..
Có thể nói, trong những năm qua, ngành dệt Việt Nam đã không ngừng nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của mình nhằm đảm bảo tiêu chuẩn chất liệu quốc tế. Do vậy, các sản phẩm như sơ mi nam nữ, áo khoác, quần âu... đã đáp ứng được nhu cầu của những khách hàng khó tính. Tuy nhiên, so với sản phẩm chất lượng cao của nhiều hãng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn phải phấn đấu hơn nữa.
- Đánh giá về kiểu dáng, mẫu mã:
Hàng dệt may vốn dĩ thường có vòng đời sản phẩm ngắn. Đặc biệt đối với thị trường các nước phát triển luôn luôn chạy theo mốt cho nên vòng đời sản phẩm còn ngắn hơn nữa. Hàng năm, các nước đều có định hướng phát triển mẫu "mốt" cho từng thị trường của năm đó và dự báo những năm tiếp theo. Mẫu thời trang thường được xác định theo các tiêu chí:
+ Theo trào lưu mẫu thời trang chung của thế giới
+ Theo bản sắc văn hoá của từng dân tộc
+ Theo điều kiện kinh tế, khí hậu mỗi nước
+ Theo chất liệu và phụ liệu may
+ Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt của mỗi nước
Trên thực tế, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên các thị trường Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản đều còn quá nhỏ và phần lớn không thuộc diện hàng cao cấp nên mẫu mã, kiểu dáng vẫn theo "form" sẵn. Các doanh nghiệp dệt may lớn như May 10, Việt Tiến đã sử dụng công nghệ CAD-CAM (Computer Added Design - Computer Added Manufacturing, máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất). Công nghệ mới này mang lại hiệu quả rất cao, thực hiện được nhiều chức năng vẽ phác thảo trên máy, tạo mẫu chính xác, mô tả chất liệu vải, tạo ra bản vẽ kỹ thuật đầy đủ để đem đi gia công nơi khác, thiết kế thẳng trên người thật, hướng dẫn trưng bày sản phẩm. Nhờ có áp dụng kỹ thuật này, kiểu dáng, mẫu mã dệt may Việt Nam đã và đang được đón nhận khá thiện cảm trên thị trường các nước phát triển.
- Đánh giá về bao bì, nhãn mác:
Theo quan điểm Marketing, để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, điều quan trọng là phải thiết kế bao bì hấp dẫn với giá trị nghệ thuật cao (đẹp, trang nhã, lịch sự). Các chuyên gia về Marketing thường nhấn mạnh bao bì, nhãn hiệu phải thật sự hợp lý về kích thước và khối lượng nhằm đảm bảo tiện lợi và dễ vận chuyển, bao bì đẹp sẽ kích thích sự ham thích mua hàng của người tiêu dùng. Tạo ra giá trị sử dụng và bảo quản giá trị sử dụng là hai khâu rất quan trọng. Đóng gói là khâu quyết định để hàng hoá giữ vững chất lượng, còn việc bảo quản hàng hoá là biện pháp cần thiết để duy trì tốt giá trị sử dụng của hàng hoá.
Thời gian vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ, EU thường rất dài và phải trải qua nhiều phương tiện. Vì thế, các doanh nghiệp cần chú ý khâu thiết kế bao bì sao cho có thể bảo vệ hàng hoá khỏi hư hỏng, giữ được toàn vẹn chất lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Vật liệu làm bao bì phải là loại chắc chắn khi vận chuyển và tiện lợi cho người sử dụng, đồng thời thể hiện được tính mỹ thuật cao.
Khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm khi mua hàng, cho nên bao bì cần phải hấp dẫn sự chú ý, cung cấp được những thông tin cần thiết về đặc tính, chất lượng sản phẩm. Thông tin trên bao bì cần diễn đạt ngắn gọn, gây ấn tượng và bằng ngôn ngữ thông dụng là tiếng Anh. Trên thực tế, việc thiết kế bao bì sản phẩm phải phù hợp tiêu chuẩn quốc tế (như ghi rõ xuất xứ, có hệ thống ghi mã vạch bằng máy tính...), đồng thời cũng phải cô đọng để giảm chi phí vận chuyển, lưu kho và xếp dỡ.
Nâng cao chất lượng bao bì, nhãn hiệu sẽ làm tăng giá trị hàng hoá. Trên thực tế, chính bao bì chất lượng cao lại giúp giảm giá hàng hoá do giảm thiếu những tổn thất trong khâu vận chuyển, lưu kho và khâu bán hàng. Bao bì phù hợp, gọn nhẹ có thể còn tiết kiệm thêm một khoản tiền lớn. Đó cũng chính là một yếu tố quan trọng, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường các nước phát triển.
- Đánh giá về việc tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng dệt may xuất khẩu
Hiện nay, khách hàng dệt may Bắc Mỹ chưa hiểu biết nhiều về chất lượng hàng dệt may Việt Nam.. Vì thế, các doanh nghiệp may Việt Nam phải tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000, tạo lòng tin cho khách hàng nước ngoài khó tính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản.
Ngoài vấn đề tiêu chuẩn hoá chất lượng ISO 9000, với thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam đã lưu ý đến hệ thống tiêu chuẩn xã hội SA 8000. Bởi lẽ, thị trường Mỹ vốn nhạy cảm với các vấn đề "nhân quyền" các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường chú trọng điều đó khi thâm nhập thị trường nhạy cảm này.
Nhìn chung, vấn đề tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ, đặc biệt là thị trường Mỹ trong thời gian gần đây. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng được khách hàng mới đáng tin cậy, góp phần xứng đáng vào việc tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua vào thị trường Mỹ, một thị trường đầy hấp dẫn nhưng cũng rất khó tính.
2.3.2.2. Chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.
Việc định giá sản phẩm xuất khẩu là nội dung rất phức tạp, cần phải tính đến hàng loạt yếu tố như chi phí sản xuất , chuyên chở, bảo quản, điều kiện thị trường, điều kiện cạnh tranh, thuế các loại, chi phí cho người môi giới, chi phí bảo hiểm và rủi ro, chi phí nghiên cứu thị trường... Nhiều nhiều nhà xuất khẩu chỉ đơn giản lấy giá bán nội địa cộng thêm cước phí vận chuyển ngoài nước và phí bảo hiểm, chi phí đóng gói và chi phí Marketing, rồi từ đó định giá xuất khẩu. Một số nhà xuất khẩu dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh để định giá xuất khẩu sản phẩm của mình. Hai cách giải quyết đó đơn giản nhưng chưa hoàn toàn thoả đáng. Chúng ta phải có phương pháp xác định giá xuất khẩu một cách khoa học và toàn diện để đạt được mục tiêu xuất khẩu dài hạn, cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
Có nhiều phương pháp để định giá cho sản phẩm dệt may xuất khẩu. Đối với thị trường Mỹ, hiện nay chúng ta vẫn tiến hành chủ yếu phương thức giá gia công, theo đơn đặt hàng từ các nước thứ ba nên chưa hoàn toàn chủ động được giá xuất khẩu, lợi nhuận lại không cao. Chúng ta có thể thấy cụ thể hơn giá xuất khẩu một số loại hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như bảng dưới đây:
Bảng 14: Giá xuất khẩu một số loại hàng dệt may Việt Nam năm 2001 sang Mỹ
Mặt hàng
Đơn vị tính
Giá
Cửa khẩu giao hàng
Áo gilê 3 lớp
USD/chiếc
5
Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC
Áo jacet 3 lớp
USD/chiếc
25
Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC
Áo Blazer
EUR/chiếc
33
Chi cục HQ Biên Hoà
Áo Vest
USD/chiếc
12
Chi cục HQ Biên Hoà
Áo jacet (cat 21)
USD/chiếc
21
Chi cục HQ Biên Hoà
Áo đầm
USD/chiếc
4
Chi cục HQ Linh Trung
Áo bảo hộ
USD/chiếc
8
Chi cục HQKCX-KCN
Quần ngắn
USD/chiếc
5
Chi cục HQ Biên Hoà
Quần Âu nữ 92S
USD/chiếc
9
Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC
Váy bò 1 lớp
USD/chiếc
4
Chi cục HQ quản lý hàng ĐT-GC
Vải thành phẩm
USD/chiếc
4
Chi cục HQ Bến Lức
Nguồn : Thống kê giá cả hàng xuất khẩu - Tạp chí Ngoại thương 10/8/2002
So với mặt bằng giá chung trên thị trường thế giới, giá cả hàng dệt may Việt Nam bắt đầu đảm bảo được khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. thêm vào đó, chất lượng sản phẩm của chúng ta cũng được đánh giá khả quan nên được ưa chuộng. Trên thực tế, đã có nhiều đơn đặt hàng dệt may vượt qua được các nhà sản xuất Trung Quốc, bởi lẽ các hãng đặt hàng may gia công lớn trên thế giới đã tín nhiệm và tìm đến địa chỉ c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thách thức và cơ hội của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO.doc