Khóa luận Những xu hướng, tác động của liên kết kinh tế quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam trong quá trình tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

 

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 4

I. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 4

1. Khái niệm 4

2. Bản chất của liên kết kinh tế quốc tế: 5

2.1 Liên kết kinh tế quốc tế đưa tới sự gia tăng về số lượng và cường độ các mối quan hệ kinh tế quốc tế 5

2.2 Liên kết kinh tế quốc tế bao trùm và liên quan đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. 5

2.3 Liên kết kinh tế quốc tế góp phần loại bỏ tính biệt lập của nền kinh tế và chủ nghĩa cục bộ của từng quốc gia trong nền kinh tế thế giới. 5

2.4 Liên kết kinh tế quốc tế là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa những nhà nước độc lập có chủ quyền. 6

2.5 Liên kết kinh tế quốc tế là giải pháp trung hoà giữa xu hướng tự do hoá và bảo hộ mậu dịch: 6

2.6 Liên kết kinh tế quốc tế luôn luôn là hành động tự giác của các thành viên. 6

II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 7

1.Toàn cầu hóa về kinh tế là nguyên nhân cơ bản nhất hình thành liên kết kinh tế quốc tế 7

2. Liên kết kinh tế quốc tế là kết quả khách quan của phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của `cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản. 8

III. LỢI ÍCH CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 10

1. Liên kết kinh tế quốc tế làm tăng năng suất lao động và tăng mức sống của các quốc gia. 10

2. Góp phần phát huy vai trò của các chủ thể, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. 10

3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác triệt để lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của các quốc gia. 10

4. Tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước 11

5. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo thế và lực cho quốc gia trên trường quốc tế. 12

IV. CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 12

1. Liên kết nhỏ( Micro intergration): 12

1.1 Khái niệm: 12

1.2 Nguyên nhân hình thành các liên kết nhỏ: 13

1.3 Vai trò của các liên kết nhỏ: 13

1.4 Các hình thức liên kết nhỏ 14

1.4.1 Căn cứ vào vốn pháp định: 14

1.4.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động: 14

2. Liên kết lớn hay còn gọi là là liên kết kinh tế quốc tế nhà nước( Macro intergration) 15

2.1 Khái niệm: 15

2.2 Nguyên nhân hình thành các liên kết lớn: 15

2.3 Vai trò của liên kết lớn: 16

2.4 Phân loại liên kết lớn: 17

2.4.1 Căn cứ vào quy mô tham gia liên kết có thể chia thành 3 loại: 17

2.4.2. Căn cứ vào mức độ tham gia liên kết, liên kết lớn được chia thành các loại hình phát triển từ thấp đến cao như sau: 17

CHƯƠNG II: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 22

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ CHO ĐẾN HIỆN NAY: 22

1. Xu hướng mở rộng liên kết khu vực: 23

1.1 Những nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy xu hướng mở rộng liên kết khu vực: 23

1.1.1 Do xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và công nghệ diễn ra mạnh mẽ. 23

1.1.2 Hệ quả của các cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ và sức ép cải cách trong mỗi quốc gia. 24

1.2. Sự mở rộng và phát triển của một số LKKTQT điển hình. 24

1.2.1 Liên minh Châu Âu - European Union ( EU) 24

1.2.2 Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á - The Association of South East Asian Nation - ASEAN 28

2. Xu hướng ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương( BFTA) 40

2.1 Nguyên nhân thúc đẩy xu thế tự do hóa thương mại song phương: 40

2.2 Những cơ hội của các nước khi tham gia hiệp định thương mại tự do song phương: 41

2.3 Sự phát triển của các hiệp định thương mại tự do song phương : 42

3. Tổ chức thương mại thế giới WTO trở thành một LKKTQT lớn nhất và quan trọng nhất 43

3.1 Quá trình hình thành của GATT/WTO: 43

3.2 Những thành tựu của GATT/WTO 45

3.2.1 Cắt giảm thuế quan và giảm các biện pháp phi thuế 45

3.2.2 Tự do hóa các lĩnh vực khác 46

II. XU HƯỚNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG TƯƠNG LAI: 46

1 .Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế trên thế giới: 46

1.1 Xu hướng gia nhập các khu vực thương mại tự do( FTA) 46

Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chỉ là điều kiện, là tiền đề 46

1.2 Xu hướng mở rộng lĩnh vực liên kết 49

2. Một số ý tưởng về hình thức liên kết mới ở Châu Á và tính khả thi: 50

2.1 Đồng tiền chung Châu Á 50

2.2 Các sáng kiến trong khuôn khổ ASEAN+3 51

CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀO CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 53

I. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN 53

1. Thuận lợi: 53

2. Thách thức: 53

II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 54

1. Thuận lợi: 54

2. Thách thức: 56

III. TÁC ĐỘNG CỦA LKKTQT ĐẾN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 58

1. Quá trình tham gia các liên kết kinh tế của Việt Nam: 58

1.1. Tham gia ASEAN 59

1.2. Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ( BTA) 60

2.Tác động của việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế đến Việt Nam 62

2.1. Những cơ hội đối với nền kinh tế. 62

2.1.1 Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ 62

2.1.2 Tăng cường vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước cũng như đầu tư ra nước ngoài 63

2.1.3 Tăng thu ngân sách Nhà nước trong dài hạn 65

2.1.4 Tiếp thu kỹ thuật – công nghệ mới 65

2.1.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế 65

2.1.6 Sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước 66

2.2. Thách thức của việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế: 67

2.2.1. Giảm nguồn thu ngân sách 67

2.2.2 Doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gia tăng. 68

2.2.3 Khó khăn về lĩnh vực tài chính 69

2.2.4 Tiếp nhận những khoa học công nghệ cũ, lạc hậu 69

2.2.5 Thị trường lao động có nhiều diễn biến tiêu cực, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội 70

3. Định hướng tham gia liên kết kinh tế quốc tế của Việt Nam và một số đề xuất để Việt Nam tham gia có hiệu quả hơn vào các liên kết kinh tế quốc tế: 72

3.1. Định hướng tham gia liên kết kinh tế quốc tế của Việt Nam 72

3.1.1. Kết hợp hài hoà giữa hợp tác song phương, khu vực và đa phương 72

3.1.2. Tập trung thực hiện các cam kết trong WTO 72

3.1.3. Lựa chọn đối sách thích hợp trước sự phát triển nhanh chóng của các FTA song phương. 72

3.1.4. Tích cực, chủ động tham gia các sáng kiến liên kết mới 73

3.2 Một số đề xuất để Việt Nam tham gia có hiệu quả hơn vào các liên kết kinh tế quốc tế. 73

3.2.1. Thâm nhập và mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu: 73

3.2.2 . Xây dựng và hoàn thiện các công cụ nhằm bảo hộ sản xuất trong nước: 74

3.2.3 Cải cách và hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế: 75

3.2.4 Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng: 76

3.2.5 Chú trọng phát triển nguồn nhân lực: 77

KẾT LUẬN 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO 80

 

 

doc88 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9112 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những xu hướng, tác động của liên kết kinh tế quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam trong quá trình tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại giữa hai bên chiếm 13,7% thương mại toàn cầu và gần một nửa tổng kim ngạch thương mại của châu Á trong năm 2007. Nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng và thúc đẩy gắn kết giữa ASEAN và Trung Quốc, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố thành lập Quỹ Hợp tác Đầu tư ASEAN – Trung Quốc chi 10 tỷ USD cho các dự án hợp tác đầu tư lớn của ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, năng lượng và tài nguyên, công nghệ thông tin và truyền thông và một số lĩnh vực khác. Các hội nghị tham vấn nhằm hoàn tất Biên bản ghi nhớ( MOU) sơ bộ về việc thành lập trung tâm ASEAN-Trung Quốc đang được thực hiện. Các hội nghị tham vấn nhằm đưa ra Biên bản ghi nhớ chính thức trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và Các rào cản kỹ thuật trong thương mại( TBT) cũng đang được tiến hành. Tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt 192,5 tỷ USD năm 2008. Sự tăng trưởng này đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của ASEAN vào năm 2009, chiếm 11,3% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN. Khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường các mối quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc. Hội chợ Trung Quốc-ASEAN (CAEXPO) nhằm giới thiệu các sản phẩm của hai bên được tổ chức hàng năm tại Nam Ninh, Trung Quốc kể từ năm 2004, với nhiều sản phẩm mới được giới thiệu mỗi năm bởi các doanh nghiệp từ hai bên. Ngoài ra, Hội nghị Thương mại và Đầu tư ASEAN-Trung Quốc( CABIS), được tổ chức tiếp nối với hội chợ CAEXPO hàng năm, là một cách thức hiệu quả để chính phủ và khu vực tư nhân xích gần nhau hơn nhằm trao đổi quan điểm về các vấn đề ảnh hưởng đến tình hình kinh tế và kinh doanh của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Biên bản ghi nhớ giữa ASEAN và Trung Quốc về Tăng cường hợp tác trong Các  biện  pháp  kiểm dịch động thực vật( SPS) được ký kết vào tháng 11 năm 2007 bên lề Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 11 tại Singapore. Biên bản này được ký kêt nhằm hỗ trợ cho việc thực thi ACFTA. Quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp đã phát triển sâu rộng đánh dấu bởi biên bản ghi nhớ về hợp tác trong nông nghiệp năm 2002 tại Phnom Penh. Biên bản ghi nhớ này thúc đẩy quan hệ hợp tác trực tiếp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý nông nghiệp của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Một Biên bản ghi nhớ ASEAN-Trung Quốc về hợp tác trong nông nghiệp mở rộng trong giai đoạn 2007-2011 cũng được ký vào tháng 1 năm 2007 tại Cebu. Trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT), ASEAN và Trung Quốc vẫn liên tục tiến hành xúc tiến quan hệ đối tác chiến lược nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển đầu tư và nguồn nhân lực ICT cũng như tìm hiểu triển vọng xây dựng xa lộ thông tin tiểu vùng sông Mekong. Với mục đích này, hai bên đã hoàn tất hai văn bản quan trọng là Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin và Truyền thông  tháng 10 năm 2003 tại Bali và Tuyên bố Bắc Kinh về Hợp tác ASEAN-Trung Quốc vì sự phát triển chung lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, được thông qua tháng 5 năm 2005 tại Bắc Kinh. Nhằm củng cố quá trình thực hiện tuyên bố Bắc Kinh, hai bên đã thông qua kế hoạch hành động 2007-2012 tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12 tổ chức vào tháng 1 năm 2007 tại Cebu. Hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực giao thông giữa ASEAN và Trung Quốc được đánh dấu bởi Biên bản ghi nhớ về Hợp tác trong Giao thông vận tải tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăn. Qua biên bản ghi nhớ này, hai bên sẽ hỗ trợ hợp tác trung hạn và dài hạn trong các lĩnh vực sau: i) xây dựng cơ sở hạ tầng cho giao thông; ii) hỗ trợ giao thông; iii) an ninh và an toàn hàng hải; iv) giao thông đường hàng không; v) phát triển nguồn nhân lực; và vi) trao đổi thông tin. Thỏa thuận về vận tải biển giữa ASEAN và Trung Quốc (ACMTA) được ký tháng 11 năm 2007 tại Singapore. Hội nghị giữa các bộ trưởng giao thông vận tải của ASEAN và Trung Quốc lần thứ 7 được tổ chức vào tháng 11 năm 2008 đã thống nhất về nguyên tắc với Kế hoạch chiến lược hợp tác Giao thông vận tải ASEAN-Trung Quốc, trong đó nêu ra 90 dự án cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nhằm tăng cường và tạo điều kiện cho giao thông quốc tế và xuyên biên giới. Du lịch là một trong những lĩnh vực hợp tác tiềm năng của ASEAN và Trung Quốc. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa ASEAN và Trung Quốc đã được tăng cường và số lượng du khách luôn tăng ổn định. ASEAN và Trung Quốc tin tưởng rằng số lượng khách du lịch sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh cùng với mối quan hệ được mở rộng trong tương lai. Đầu tư hai chiều giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng tăng. Trung Quốc là nhà đầu tư lớn thứ 8 của ASEAN với tổng số vốn đầu tư cho đến năm 2008 lên tới 6,1 tỷ USD. Tổng đầu tư của các nước ASEAN vào Trung Quốc cho đến hết năm 2008 đạt 5,6 tỷ USD. Từ 01/01/2010, Hiệp ước thương mại tự do giữa Trung Quốc và sáu nước ban đầu của ASEAN bắt đầu có hiệu lực. Từ đây, quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc ngày càng phát triển hơn. b) Quan hệ ASEAN - Nhật Bản Nhật Bản là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN trong giai đoạn hiện nay. ASEAN và Nhật Bản tiếp tục mở rộng và tăng cường các quan hệ thương mại. Kim ngạch thương mại hai chiều ASEAN - Nhật Bản thường chiếm hơn 13 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ASEAN. Tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Nhật Bản tăng 22,1% từ 173,1 tỷ USD năm 2007 lên 211,4 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu của ASEAN sang Nhật Bản tăng 22,8% từ 85,1 tỷ USD năm 2007 lên 104,5 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu vào ASEAN từ Nhật Bản trong cùng giai đoạn cũng tăng từ 87,9 tỷ USD lên 106,8 tỷ USD, tương đương mức tăng 21,5%. Nhật Bản là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN với 12,4% tổng kim ngạch thương mại của khối.     Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN, dòng vốn FDI từ Nhật Bản giảm 8,4% từ 8,3 tỷ USD năm 2007 xuống 7,7 tỷ USD năm 2008. Trong các đối tác đối thoại của ASEAN, Nhật Bản là nguồn FDI lớn thứ hai của khối này. ASEAN và Nhật Bản đã ký Hiệp định về Quan hệ Đối tác Kinh tế toàn diện (AJCEP) vào tháng 4 năm 2008. Đây là thoả thuận toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Hiệp định AJCEP cũng sẽ tăng cường các quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản và tạo ra một thị trường lớn hơn, hiệu quả hơn với nhiều cơ hội hơn trong khu vực. Thỏa thuận này có hiệu lực từ ngày 1/12/2008. Đến tháng 7 năm 2009, các nước Brunây, Lào, Malaysia, Mianma, Singapo, Thái Lan, Việt Nam và Nhật Bản đã thông qua Hiệp định AJCEP. Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch ASEAN-Nhật Bản (AJC) được thành lập vào tháng 5 năm 1981 dựa trên Thỏa thuận thành lập Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch ASEAN được ký kết bởi chính phủ các nước ASEAN (khi đó bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapo và Thái Lan) và Nhật Bản. Sau đó, các nước Brunây (tháng 6/1990), Việt Nam (tháng 2/1998), Campuchia (tháng 6/2001), Lào (tháng 3/2002) và cuối cùng là Mianma (tháng 4/2006) cũng chính thức tham gia thỏa thuận này. Trung tâm AJC có trụ sở chính tại Tokyo đóng vai trò then chốt trong việc xúc tiến tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư và du lịch trong sự phát triển kinh tế giữa Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản diễn ra vào tháng 12 năm 2003 đã kêu gọi cải cách Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch ASEAN- Nhật Bản (AJC) để củng cố các chức năng và tăng cường các lĩnh vực hoạt động của trung tâm này. Ủy ban cán bộ cao cấp ASEAN-Nhật Bản( EPC) về cải cách Trung tâm AJC đã được thành lập năm 2005 và hoàn thành báo cáo riêng vào tháng 4/2006. Báo cáo này được đệ trình lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Nhật Bản lần thứ 10 vào tháng 1 năm 2007 tại Cebu. Hội nghị này nhấn mạnh các đề xuất và hướng dẫn các Bộ trưởng và quan chức cấp cao thực hiện việc cải cách trung tâm (bao gồm cả việc sửa đổi thỏa thuận) dựa trên các kiến nghị của EPC. Hội đồng giám đốc của trung tâm này đã thống nhất sửa đổi một số điều của Thỏa thuận Thành lập Trung tâm AJC vào tháng 11/ 2007. Các kiến nghị sửa đổi Thỏa thuận thành lập Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch ASEAN đang được các nước ký kết tiến hành các thủ tục chấp nhận hoặc thông qua. 2. Xu hướng ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương( BFTA) Hiệp định thương mại tự do song phương là thỏa thuận ký kết giữa hai quốc gia nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho quan hệ thương mại giữa các bên dựa trên các nguyên tắc tự do hóa thương mại như: không phân biệt đối xử, tiếp cận thị trường, cạnh tranh công bằng hay quyền được tự bảo vệ…Hiện nay các quốc gia đang tăng cường hợp tác theo xu thế này. 2.1 Nguyên nhân thúc đẩy xu thế tự do hóa thương mại song phương: Xu thế tự do hóa thương mại đang được tăng cường do các nguyên nhân là: Thứ nhất, cho đến nay, tiến trình tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO vẫn chưa được khai thông, các quốc gia có xu hướng tìm kiếm các thỏa thuận thương mại tự do song phương nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình tự do hóa thương mại quốc tế. Những bất đồng về tiếp cận thị trường, nhất là vấn đề mở cửa thị trường nông sản khiến quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu bị chậm lại. Việc tham gia các thỏa thuận thương mại tự do khu vực và song phương được xem như là giải pháp tình thế cho những bế tắc về tự do hóa thương mại trong khuôn khổ của WTO. Hai là, các thỏa thuận thương mại tự do song phương có khả năng giải quyết nhanh hơn những vấn đề mà phải đưa ra tổ chức gồm 153 thành viên. Tức là trong đàm phán song phương các nước dễ đạt được sự đồng thuận và nhượng bộ nhanh hơn trong đàm phán đa phương. Tham gia vào các hiệp định song phương, các nước đang phát triển sẽ hạn chế được những nghĩa vụ quá sức so với trình độ phát triển của mình. 2.2 Những cơ hội của các nước khi tham gia hiệp định thương mại tự do song phương: Hiện nay, hợp tác song phương ngày càng được chú trọng trong chính sách hội nhập kinh tế của các nước. Tham gia hợp tác song phương giúp các nước thu được những lợi ích trực tiếp, nhanh chóng hơn so với hợp tác đa phương. Theo đó, một số nước trước kia ít có những liên kết song phương thì giờ đây lại coi việc theo đuổi các liên kết song phương như một chiến lược cạnh tranh trong điều kiện tự do hoá thương mại. Dưới đây là một số cơ hội cho các nước tham gia các hiệp định thương mại song phương: Thứ nhất, tham gia vào hiệp định song phương, các nước có điều kiện tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại song phương. Hàng hóa của mỗi bên xuất khẩu sang thị trường của nhau có sức cạnh tranh cao hơn hàng hóa của nước khác. Nhờ tự do hóa thương mại, doanh nghiệp của các nước này được cắt giảm một lượng thuế quan đáng kể, do đó giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Hơn nữa, thời gian cắt giảm thuế quan trong BFTA nhanh hơn nhiều so với cam kết cắt giảm thuế quan của FTA khu vực hay đa phương. Thứ hai là quá trình thực hiện những cam kết về tự do hóa và thuận lợi hóa đầu tư giúp các nước tạo lập và duy trì một môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch, thu hút đầu tư lẫn nhau cũng như thu hút đầu tư từ bên ngoài. Ba là việc tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế giúp các nước khai thác có hiệu quả hơn những lợi thế của mình, giảm thiểu chi phí kinh doanh, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh trong nước, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của mỗi quốc gia. Tuy nhận được nhiều lợi ích nhưng tham gia vào các hiệp định song phương cũng gây những khó khăn, thách thức đối với các nước tham gia. Đó là các BFTA đưa nhiều quy định phức tạp về quy tắc xuất xứ gây nhiều khó khăn, phiền hà, tốn kém cho các bên trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, nhiều điều khoản có thể gây tổn hại cho kinh tế xã hội. Ví dụ như hiệp định giữa Mỹ và Chilê gồm các điều khoản về sở hữu trí tuệ thậm chí vượt xa các quy định tương tự của WTO trong TRIPS. Theo đó hạn chế tối đa khả năng cho phép sử dụng giấy phép bắt buộc đối với các loại thuốc, gia tăng thời hạn hiệu lực của bằng sáng chế độc quyền từ 20 đến 25 năm. Điều này đe dọa nghiêm trọng khả năng tiếp cận các loại thuốc đắt tiền của các bệnh nhân nghèo. Tóm lại, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do song phương vừa là cơ hội vừa mang lại nhiều thách thức, do đó các nước cần có chính sách đàm phán để bảo đảm lợi ích cho cả hai quốc gia... 2.3 Sự phát triển của các hiệp định thương mại tự do song phương : Trong những năm gần đây, các hiệp định thương mại tự do song phương được ký kết không những gia tăng về số lượng mà còn được diễn ra rộng khắp ở các khu vực trên thế giới, giữa các nước phát triển với nhau, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau. Xu hướng này diễn ra nổi bật với Mỹ, Hàn Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Mỹ ký hiệp định thương mại tự do song phương đầu tiên với Isrsel năm 1985. Tiếp đó ký với Canada( 1988), Mehicô ( 1994) mở đường cho sự ra đời khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ( NAFTA) gồm Mỹ, Canada, Mehicô. Tiếp đến là hiệp định với Singapore tháng 5/2003. Và các hiệp định khác với Jordany, Marốc, Australia, Chilê, Ôman, Pêru. Hàn Quốc cũng ký kết hiệp định với Chilê (2002), Singapore( 2005), Mỹ( 2007) và các nước khác như Mêhicô, Trung Quốc, Thái Lan, Australia, Newzealand, EU, Canada. Đối cới các nước ASEAN, ngoài những cam kết tự do hóa trong khuôn khổ của FTA và những hiệp định thành lập khu vực thương mại tự do của ASEAN với các nước đối tác lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ; hiện nay nhiều nước ASEAN đang tích cực đàm phán nhằm ký kết nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương với các nước bên ngoài khối. 3. Tổ chức thương mại thế giới WTO trở thành một LKKTQT lớn nhất và quan trọng nhất 3.1 Quá trình hình thành của GATT/WTO: Tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới WTO là Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch ( The General Agreement On Tariff and Trade – GATT) GATT được thành lập năm 1947 với 23 nước tham gia như là những sáng lập viên, cùng nhau xây dựng các Hiệp định về thuế quan và thương mại. Các Hiệp định của GATT bắt đầu có hiệu lực từ 11/1948 và đến hết năm 1994, GATT đã trải qua 8 vòng đàm phán thương mại với các mốc lịch sử như sau: Bảng 3: Các vòng đàm phán thương mại của GATT Thời gian Vòng đàm phán Số nước tham gia Nội dung chính 1947 Geneva 23 Cắt giảm thuế quan 45.000 mặt hàng khi giao dịch nội khối 1949 Annecy 13 Giảm thuế quan 35% cho 5.000 danh mục mặt hàng 1951 Torquay 38 Cắt bỏ 25% thuế quan so với mức năm 1948 1956 Geneva 26 Nhất trí cắt giảm quan thuế 2,5 tỷ USD 1958 Dellon 26 4.400 nhượng bộ quan thuế trị giá 4,9 tỷ USD 1964 - 1967 Kenedy 63 Thuế quan và biện pháp chống bán phá giá 1973 - 1979 Tokyo 102 Thuế quan 0,7-4,7% đối với hàng chế tạo của 9 thị trường công nghiệp lớn nhất, các biện pháp phi thuế quan và các hiệp định khung 1986 -1994 Uruguay 123 Thuế nhập khẩu bình quân 3,9%, phi thuế quan, các nguyên tắc dịch vụ, quyền SH trí tuệ, giải quyết tranh chấp Nguồn: Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, GS. TS Võ Thanh Thu Vòng đàm phán cuối cùng đã mở rộng nội dung sang hầu hết các lĩnh vực thương mại bao gồm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và cho ra đời một tổ chức mới thay cho GATT - Tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 01/01/1995. Từ năm 2001 vòng đàm phán Doha được tiến hành với nội dung chủ yếu là: Giảm thuế NK hàng công nghiệp, giảm bảo hộ nông nghiệp ở nước phát triển, quyền nước nghèo nhập khẩu với giá rẻ. Tuy nhiên, đến năm 2008, sau 7 năm liên tục thảo luận, những cuộc đối thoại của thế giới cuối cùng đã thất bại. Từ 15/ 02/ 2010, vòng đàm phán Doha được nối lại, tuy nhiên cho đến hiện nay các nước vẫn đang trong quá trình đàm phán. WTO tuy là tổ chức kế thừa hoạt động của GATT nhưng có những điểm khác biệt so với GATT: - GATT là một loạt các quy định, hiệp định đa biên, không có nền tảng về thể chế. Điều hành nó chỉ là một ban thư ký nhỏ gắn nó với mục đích ban đầu là cố gắng thành lập Tổ chức thương mại quốc tế( ITO) vào những năm 40. WTO là một tổ chức thường trú có ban thư ký riêng với 450 nhân viên được lãnh đạo bởi một tổng giám đốc và 4 phó tổng giám đốc. - Các hiệp định của GATT mang tính tạm thời được thay đổi, bổ sung qua các vòng đàm phán thương mại. Trong khi đó các hiệp định của WTO mang tính cam kết cố định và vĩnh viễn. - Các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại hàng hóa. Nhưng WTO còn bao hàm cả thương mại dịch vụ và các khía cạnh liên quan đến thương mại như vấn đề sở hữu trí tuệ, hoạt động đầu tư… - Trong khi GATT là một công cụ đa biên, đến những năm 80 nhiều hiệp định mới được bổ sung có tính chất đa phương, và do đó mang tính chọn lọc và tự nhiên. Các hiệp định của WTO phần lớn là đa biên và do đó bao gồm các cam kết của các nước để trở thành thành viên đầy đủ. - Hệ thống giải quyết các tranh chấp của WTO nhanh hơn, tự động hơn và ít bị tắc nghẽn so với hệ thống cũ của GATT. Việc thực hiện các phán quyết và giải quyết tranh chấp cũng dễ dàng đảm bảo hơn. - WTO là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế. Sở dĩ do những điều bất cập trên của GATT mà dần dần GATT không đáp ứng được nhu cầu của thời đại, do vậy WTO đã ra đời để tiếp tục những thành công mà GATT đã từng đạt được. 3.2 Những thành tựu của GATT/WTO 3.2.1 Cắt giảm thuế quan và giảm các biện pháp phi thuế Qua các vòng đàm phán, thuế quan của các danh mục mặt hàng đã được cắt giảm đáng kể. Từ mức thuế trung bình 40% năm 1948 đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và các nước đang phát triển khoảng 15%. Đặc biệt là kết quả tại vòng đàm phán Uruguay, 22.500 trang danh mục cam kết của các nước đối với một số loại hàng hóa và dịch vụ cụ thể, nhất là các cam kết giảm thuế và “ xác định mức thuế trần” đối với nhập khẩu hàng hóa. Trong một số trường hợp, thuế quan được giảm xuống mức 0%. Đồng thời có thêm rất nhiều mức thuế trần tức là những mức thuế đã được cam kết tại WTO và các nước khó có thể nâng lại. Các nước phát triển chấp thuận giảm từng bước phần lớn thuế quan trong vòng 5 năm kể từ ngày 1/1/1995. Kết quả là thuế nhập khẩu đối với sản phẩm của các nước này giảm 40%, từ trung bình 6,3% xuống còn 3,8%. Tỷ lệ các sản phẩm nhập khẩu vào các nước phát triển phải chịu thuế suất cao hơn 15% sẽ giảm từ 7% xuống 5%. Tỷ lệ hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp hóa đang phải chịu thuế suất trên 15% sẽ giảm từ 9% xuống còn 5%. Đặc biệt, đối với sản phẩm nông nghiệp, tại vòng đám phán Uruguay, Hiệp định đa phương đầu tiên về lĩnh vực này đã ra đời. Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan, hàng rào phi thuế quan cũng đang dần được dỡ bỏ. Theo định kỳ, những vấn đề khác như thủ tục hành chính rườm rà và các chính sách hối đoái cũng được xem xét… Nhiều hiệp định điều chỉnh những vấn đề kỹ thuật, hành chính hoặc pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho thương mại được ký kết: cơ chế giấy phép nhập khẩu, quy định về xuất xứ, các quy định về định giá hải quan đối với hàng hóa… 3.2.2 Tự do hóa các lĩnh vực khác GATT/WTO không chỉ tạo ra sự tự do hóa về thương mại hàng hóa mà còn từng bước tạo ra môi trường quốc tế hóa về các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và cạnh tranh lành mạnh qua các hiệp định của WTO đặc biệt được thể hiện qua các hiệp định điều chỉnh về vấn đề dịch vụ( GATT), vấn đề đầu tư( TRIMS), vấn đề sở hữu trí tuệ( TRIPS) và vấn đề giải quyết các tranh chấp. - GATS là tập hợp đầu tiên và duy nhất những quy định đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ thế giới. Hiệp định GATS điều chỉnh mọi loại hình dịch vụ. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được áp dụng cho tất cả các dịch vụ, trừ các trường hợp ngoại lệ tạm thời và mang tính hạn chế. - Về lĩnh vực đầu tư, Hiệp định TRIMS quy định rằng không một thành viên nào được phép áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử đối với người hoặc hàng hóa nước ngoài( tức là vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia của GATT). Hiệp định cũng cấm áp dụng các biện pháp đầu tư làm hạn chế khối lượng trao đổi( trái với một nguyên tắc khác của GATT). Hiệp định lập danh mục các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị coi là trái với các điều khoản của GATT. - Về vấn đề sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS đã đưa ra những quy định đầu tiên về sở hữu trí tuệ trong hệ thống thương mại đa biên. II. XU HƯỚNG CỦA CÁC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG TƯƠNG LAI: 1 .Xu hướng liên kết kinh tế quốc tế trên thế giới: 1.1 Xu hướng gia nhập các khu vực thương mại tự do( FTA) Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chỉ là điều kiện, là tiền đề cho những bước đi tiếp theo của hội nhập kinh tế. Với những gì đã và đang diễn ra hiện nay có thể thấy xu thế khu vực hóa đang chiếm ưu thế và sẽ định hướng tự do hóa thương mại trong cả thập kỷ tiếp theo. Và Việt Nam cần xác định những định hướng của mình khi tham gia vào tiến trình chung này. Vòng phát triển Doha (DDR) đã lỡ đích 2005 và để ngỏ thời điểm kết thúc. Khả năng kết thúc vòng đàm phán đầu tiên trong khuôn khổ WTO trở nên khó dự báo hơn do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự quay lại của xu thế bảo hộ. Đó là một trong những lý do khiến một số quốc gia lựa chọn giải pháp tự do hóa thương mại thông qua đàm phán các hiệp định FTA. Theo con số của Ban Thư ký WTO, hiện có 194 FTA đã đăng ký với WTO và vẫn đang còn hiệu lực. Trong đó 153 hiệp định có hiệu lực sau năm 1995, khi WTO ra đời. Và điều đáng lưu ý là xu hướng đàm phán các thỏa thuận khu vực tiếp tục gia tăng sau 2002, giai đoạn vòng Doha về toàn cầu hóa diễn ra. Bảng 4 : Số lượng các FTA có hiệu lực theo năm Nguồn: Nguyên nhân trước tiên để các nước lựa chọn giải pháp FTA cho tự do hóa thương mại bắt nguồn từ những lợi ích cơ bản của toàn cầu hóa: mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao hiệu quả nhờ sản xuất quy mô lớn, củng cố các quan hệ chính trị… Bên cạnh đó, đàm phán FTA có quy mô không quá lớn, giữa các nước có điều kiện tương đồng nên dễ tìm được tiếng nói chung hơn. Nội dung đàm phán được thiết lập gần với lợi ích và mối quan tâm các bên hơn so với đàm phán trong WTO. Một lý do khác để nhận định đàm phán FTA sẽ là xu thế ít nhất trong thập niên tới căn cứ trên thực tế các cuộc đàm phán FTA không chỉ gia tăng về số lượng mà còn có nội dung ngày càng mở rộng về phạm vi vấn đề thảo luận cũng như các tiêu chí, mức độ tự do hóa. Các quốc gia theo đuổi chủ trương đàm phán FTA phục vụ mục tiêu phát triển thị trường, mở rộng xuất khẩu đã thiết lập các tiêu chí đàm phán mới về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động… với mức độ tự do hóa cao hơn nhiều trong WTO. Điển hình là Khu vực tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp định Thương mại tự do song phương Hoa Kỳ - Hàn Quốc (KORUS), Hiệp ước đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)… Nắm bắt xu hướng khu vực hóa, nhiều quốc gia đã chủ động xây dựng các chiến lược đàm phán FTA có định hướng rõ ràng để phục vụ mục tiêu phát triển đặc thù của mình. Singapore, Chile… là những quốc gia tiêu biểu trong việc theo đuổi chính sách FTA theo mô hình “trục nan hoa”. Họ đàm phán FTA với tất cả các đối tác có thể trên phạm vi toàn cầu và hình thành một hệ thống các thỏa thuận tự do hóa thương mại với bản thân là trục của “hệ nan hoa” các FTA. Nhờ vậy, các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài tại những quốc gia này được hưởng điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều khi tiếp cận thị trường các nước trong “hệ nan hoa” so với nhà đầu tư tại các nước khác. Và trong trường hợp này, FTA không chỉ tạo cơ hội tiếp cận thị trường nước ngoài mà còn tăng đáng kể sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. FTA trên thực tế đã góp phần làm tăng tính hấp dẫn của môi trường thương mại các quốc gia này. Đặc biệt trong thời đại thương mại có ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội và quan hệ quốc tế, FTA ngày càng được nhìn nhận như công cụ hỗ trợ cho các quan hệ chính trị. Ý tưởng thiết lập một thị trường chung khổng lồ cho toàn châu Mỹ (AAFTA) rõ ràng thể hiện tham vọng tăng cường ảnh hưởng của Hoa Kỳ với khu vực Mỹ Latinh. Trung Quốc, sau khi gia nhập WTO đã tận dụng đà cải cách, mở cửa để đàm phán và ký kết một loạt các FTA. FTA mang lại cho các bên tham gia lợi ích nhiều mặt về kinh tế, thương mại và đầu tư trong khi tiến trình tự do hóa đa phương trong khuôn khổ WTO hiện vẫn đang trong tình trạng bế tắc và tiến triển chậm chạp. Vì vậy ký kết các FTA là biện pháp giúp đẩy mạnh tự do hóa thương mại trong thời gian hiện nay, các nước đang phát triển, sợ bị chậm chân, rơi vào tình thế bất lợi do không được hưởng ưu đãi về tiếp cận thị trường như các nước đã ký kết FTA nên rất tích cực tham gia vào các FTA khu vực và song phương. Trong thời gian tới, số lượng các FTA chắc chắn sẽ tăng lên nhanh chóng. 1.2 Xu hướng mở rộng lĩnh vực liên kết Hiện nay, việc ký kết FTA diễn ra giữa các nước, nhóm nước không chỉ nhằm mục đích tạo thuận lợi cho thương mại mà còn nhằm khai thông nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư và tự do hóa ngành dịch vụ. Điều này có thể thấy rõ qua việc các nước khi ký kết FTA thường ký thêm hiệp định về dịch vụ và hình thức FTA ngày càng trở nên phổ biến. Trong thời gian gần đây, một xu hướng mới xuất hiện trong việc ký kết các FTA. Đó là ký c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững xu hướng, tác động của liên kết kinh tế quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam trong quá trình tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế.doc
Tài liệu liên quan