Khóa luận Phân tích cú pháp tiếng Việt trong tin học

Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU.1

Danh mục hình.5

Danh mục bảng.5

Chương 1. Mở đầu.7

1.1. Tổng quan vềvấn đềphân tích văn bản.7

1.2. Bài toán phân tích cú pháp.7

1.3. Nội dung khoá luận.8

Chương 2. Văn phạm phingữcảnh.9

2.1. Văn phạmvà ngôn ngữsinh bởi văn phạm.9

2.2. Văn phạmphi ngữcảnh.10

2.3. Biểu diễn cấu trúc câu.11

2.4. Phân tích từtrên xuống.14

2.5. Phân tích từdưới lên.15

2.6. Đánh giá hai phương pháp phân tích trên.20

2.7. Phương pháp phân tích tổng hợp.21

Chương 3. Các mạng chuyển.27

3.1. Văn phạmvà ôtômát.27

3.2. Các yếu tốcơsởcủa mạng chuyển đệquy.29

3.3. Tính thủtục của các RTN.33

3.4. Phân tích từtrên xuống cho mạng chuyển đệquy.34

Chương 4. Xây dựng văn phạm tiếng Việt.37

4.1. Xây dựng tập từloại tiếng Việt.37

4.2. Xây dựng văn phạm tiếng Việt.38

4.2.1. Danh ngữ.39

4.2.2. Động ngữ.41

4.2.3. Tính ngữ.44

4.2.4. Câu đơn hai thành phần.45

4.2.5. Văn phạm tiếng Việt.47

Chương 5. Cài đặt chương trình.49

5.1. Cấu trúc dữliệu.49

5.2. Cài đặt thuật toán.51

5.3. Thểhiện kết quảphân tích.52

5.4. Đánh giá kết quả.57

Phụlục.58

Bài toán tách từvựng tiếng Việt.58

1. Đặt bài toán.58

2. Các bước giải quyết.58

3. Đánh giá kết quả.60

Tài liệu tham khảo.63

pdf63 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích cú pháp tiếng Việt trong tin học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở vị trí 1. 4. Nếu không xảy ra các trường hợp trên thì trạng thái này không thoả, một trạng thái lưu được lấy ra làm trạng thái hiện tại. Bây giờ, sử dụng thuật toán này, ta xét lại quá trình phân tích câu The green water evaporated. Nếu ta bắt đầu bằng ký hiệu S và vị trí 1, viết lại ký hiệu này, ta được Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (NP VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Viết lại NP theo bước 4 trong thuật toán, ta được Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (ART NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (ART ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Chương 2. Văn phạm phi ngữ cảnh Khoá luận tốt nghiệp 24 Ta kiểm tra thấy câu vào có một ART và một NOUN là đúng đắn. Sau thao tác này trạng thái hiện tại là ([NP1] VP [S1]) tại vị trí 3. Theo bước 2 của thuật toán, cờ dựng [NP1] được xử lý, bằng việc thêm một cấu trúc NP là [NP1] vào biểu đồ từ vị trí 1 tới vị trí 3. Khi đó, ta thu được trạng thái của quá trình phân tích và biểu đồ như sau: Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (VP [S1]) 3 (ART ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Hình 9. Biểu đồ sau khi phân tích cụm NP đầu tiên Viết lại VP sẽ có trạng thái sau Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (AUX VERB NP [VP4] [S1]) 3 (VERB NP [VP4] [S1]) 3 (ART ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Ta không chấp nhận trạng thái hiện tại vì water không phải là một AUX. Trạng thái lưu đầu tiên trở thành trạng thái hiện tại, trường hợp này mặc dù water là một VERB, nhưng sau đó vì không có NP nào theo sau VERB nên trạng thái này cũng bị loại. Trạng thái lưu tiếp theo được lấy ra làm trạng thái hiện tại. Câu cần phân tích có ART (the) ở vị trí 1, ADJ (green) ở vị trí 2, và NOUN (water) ở vị trí 3 nên sinh ra một NP thứ hai. Ta có tình huống và biểu đồ sau: Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (VP [S1]) 4 Chương 2. Văn phạm phi ngữ cảnh Khoá luận tốt nghiệp 25 (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Hình 10. Sau khi phân tích khả năng thứ hai của NP đầu tiên Viết lại VP ở vị trí 4 trong trạng thái hiện tại sinh ra tình huống mới sau Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (AUX VERB NP [VP3] [S1]) 4 (VERB NP [VP3] [S1]) 4 (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) 1 (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Vì không có AUX ở vị trí 4 nên trạng thái hiện tại không được chấp nhận. Trạng thái lưu thứ nhất cũng không thoả mãn, vì tuy có một VERB ở vị trí 4 nhưng sau đó lại không có NP. Trạng thái tiếp theo (ADJ NOUN [NP1] VP [S1]) cũng bị loại do the không phải là một ADJ. Chỉ còn lại hai trạng thái và biểu đồ như sau: Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (NP AUX VERB [S1]) 1 (NP VERB [S1]) 1 Hình 11. Sau khi tìm kiếm một S theo quy tắc 1 bị thất bại Bây giờ ta đã kết thúc mọi phân tích có thể từ việc bắt đầu bằng S, viết lại nó theo quy tắc 1. Bây giờ là lúc những thành phần mà biểu đồ đã lưu lại trước đó được mang Chương 2. Văn phạm phi ngữ cảnh Khoá luận tốt nghiệp 26 ra để sử dụng. Thay vì áp dụng các quy tắc để viết lại NP tại vị trí 1, trình phân tích sử dụng hai NP đã có trên biểu đồ, sinh ra Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (AUX VERB [S1]) 3 (AUX VERB [S1]) 4 (NP VERB [S1]) 1 Trạng thái hiện tại bị loại, do không có AUX nào tại vị trí 3. Tương tự, trạng thái lưu đầu tiên cũng không được chấp nhận, bởi không có AUX nào ở vị trí 4 cả. Trạng thái (NP VERB [S1]) là trạng thái cho phân tích đúng đắn duy nhất. Một lần nữa, dùng 2 NP đã có trên biểu đồ, sinh ra hai trạng thái sau: Trạng thái hiện tại Trạng thái lưu Vị trí (VERB [S1]) 3 (VERB [S1]) 4 Trạng thái hiện tại sinh ra một cấu trúc S từ vị trí 1 đến vị trí 4 nhưng lại bỏ sót evaporated. Trạng thái lưu còn lại sinh ra phân tích mong muốn, câu cần phân tích có cấu trúc như sau: Hình 12. Cấu trúc của câu cần phân tích Rõ ràng, chiến lược phân tích kết hợp từ trên xuống và từ dưới lên ưu việt hơn cả hai phương pháp phân tích đơn thuần nói trên; so với cách phân tích từ trên xuống thì cách phân tích này chỉ có một hạn chế là biểu đồ cần nhiều ô nhớ hơn. Nhưng trong phần lớn các trường hợp, so với lợi thế về thời gian phân tích thì phần ô nhớ mất thêm này là không đáng kể. Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp Chương 3. Các mạng chuyển Ngoài các hệ văn phạm, các mô hình mạng chuyển, nhất là các mạng chuyển đệ quy cũng được sử dụng rộng rãi để mô tả các cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ tự nhiên. Các mạng chuyển có cơ sở là các máy trừu tượng, chúng được coi là những thiết bị nhận dạng văn phạm. Chính vì vậy, trước khi đi vào phần trình bày về các mạng chuyển, em trình bày khái quát về các máy trừu tượng, từ đơn giản nhất tới tổng quát nhất. 3.1. Văn phạm và ôtômát Văn phạm một mặt có thể coi là những định nghĩa cho các câu của một ngôn ngữ, mặt khác còn có thể coi là sự mô tả của một máy trừu tượng có khả năng đoán nhận hoặc sinh những xâu nằm trong ngôn ngữ đó. Những máy này được gọi (một cách trừu tượng) là các ôtômát, và độ phức tạp của những máy này tương ứng với độ phức tạp của các quy tắc sinh trong văn phạm. Mỗi máy có thể xem là một tập các trạng thái, một thiết bị vào có khả năng truy nhập mỗi lần một ký hiệu vào, và một đơn vị điều khiển có khả năng kiểm tra và đọc đầu vào, chuyển máy sang trạng thái khác. Ngoài ra, những máy này có thể có bộ nhớ, được đơn vị điều khiển truy nhập để lưu giữ hoặc kiểm tra các ký hiệu. Yếu tố quyết định năng lực tính toán của máy là độ phức tạp của bộ nhớ và những thao tác trên bộ nhớ. Những ôtômát đơn giản nhất là các máy hữu hạn trạng thái hay các ôtômát hữu hạn trạng thái (Finite State Automata -- FSA), các ngôn ngữ mà chúng đoán nhận gọi là các ngôn ngữ chính quy. Ngôn ngữ chính quy có đầy đủ các tính chất của ngôn ngữ phi ngữ cảnh và do đó luôn có thể đoán nhận được bằng một ôtômát với số trạng thái hữu hạn. Các máy hữu hạn trạng thái không có bộ nhớ trong, nên mọi thao tác hoàn toàn được quyết định bởi ký hiệu hiện đang được đọc và trạng thái hiện tại của máy. Để minh hoạ sự vận hành của các máy nói trên, ta xét văn phạm đơn giản sau: S → aB B → bB B → c Văn phạm này sinh ra ngôn ngữ chính quy abnc. Ôtômát tương đương với nó thường được biểu diễn bằng một sơ đồ trạng thái như hình vẽ sau: Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 28 trong đó các nút biểu diễn các trạng thái và các cung biểu diễn các bước chuyển. Nút vuông chỉ rằng đó là trạng thái kết. Với ôtômát này, việc chuyển từ những quy tắc sinh sang sơ đồ trạng thái là: ký hiệu không kết chuyển thành trạng thái, ký hiệu kết chuyển thành bước chuyển. Sự hoạt động của ôtômát này như sau: việc tính toán bắt đầu từ một trạng thái được xác định trước gọi là trạng thái khởi đầu, ở đây là S; ký hiệu đầu tiên của xâu vào được kiểm tra xem có cung chuyển nào khớp với nó hay không; nếu có thì máy theo cung này chuyển tới trạng thái kế tiếp và tiêu thụ ký hiệu đó, đọc tiếp ký hiệu đứng sau. Quá trình này được tiếp tục cho tới khi máy bị dừng, ví dụ khi không cung chuyển nào là khớp nữa. Nếu máy dừng tại một trạng thái kết và xâu vào đã được tiêu thụ thì ta nói xâu đó đã được đoán nhận. Nếu ta thêm bộ nhớ hoạt động theo nguyên lý của danh sách vào sau ra trước (LIFO) vào ôtômát (ví dụ một ngăn xếp đẩy xuống), cùng với một số quy tắc điều khiển thì FSA sẽ chuyển thành ôtômát đẩy xuống (Push Down Automaton -- PDA). Các PDA chỉ có thể đoán nhận những ngôn ngữ phi ngữ cảnh. Nếu bỏ đi hạn chế về tổ chức ngăn xếp trong bộ nhớ trong, chỉ áp dụng ràng buộc quy định kích thước bộ nhớ là hàm tuyến tính theo độ dài của xâu vào, thì ta tạo ra một ôtômát mạnh hơn gọi là ôtômát bị chặn tuyến tính (Linear Bounded Automaton -- LBA). Nếu cần, ta có thể tổ chức bộ nhớ trong sao cho một phần bộ nhớ được tổ chức như một ngăn xếp, phần còn lại là bộ nhớ truy nhập ngẫu nhiên, khi đó sẽ giữ lại được mối liên hệ về mặt cấu trúc với lớp các PDA yếu hơn. Các LBA có khả năng đoán nhận một lớp rất tổng quát của ngôn ngữ, được định nghĩa bởi các văn phạm tuyến tính theo chiều dài, các ngôn ngữ này bao gồm cả các thành phần cấu trúc ngữ pháp cảm ngữ cảnh thường gặp trong ngôn ngữ. Sau cùng, nếu ta bỏ đi ràng buộc cuối cùng đối với bộ nhớ trong, cho phép nó có kích thước không hạn chế, khi đó ta được lớp ôtômát tổng quát nhất, gọi là các máy Turing (Turing Machines -- TMs). Văn phạm tương đương với nó là hệ thống viết lại không hạn chế, trong đó, các quy tắc sinh được phép viết lại bất kỳ cái gì cũng thành một thứ bất kỳ. Các máy Turing là sự trừu tượng tương tự của các máy tính tuần tự đa nhiệm nguyên thuỷ. Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 29 Một trong những vấn đề đầu tiên của lý thuyết các ôtômát là câu hỏi về tính quyết định, được diễn tả hình thức là: có hay không một tiên nghiệm cho phép biết được một lớp các tính toán cho trước có kết thúc trong một thời gian hữu hạn hay không. Cụ thể là, bài toán đoán nhận một xâu không thuộc ngôn ngữ tương ứng với một ôtômát đã cho nói chung không thể quyết định được bởi các TM. Câu hỏi này, về nguyên tắc, là có thể trả lời được đối với các lớp ôtômát yếu hơn. 3.2. Các yếu tố cơ sở của mạng chuyển đệ quy Mạng chuyển đệ quy (recursive transition networks -- RTNs) được Wood đưa ra lần đầu tiên vào năm 1970, là một thiết bị nhận dạng các văn phạm phi ngữ cảnh. Xét văn phạm đơn giản sau 1. (a) S → NP (Aux) V (NP) PP* 1. (b) S → Aux NP V (NP) PP* 2. NP → (Det) (Quant) Adj* N* N PP* 3. PP → Prep NP Văn phạm này định nghĩa một ngôn ngữ phi ngữ cảnh trên bảng chữ cái {Aux, V, Det, Quant, Adj, N, Prep}. Ở đây có một mở rộng so với thông thường là các ngoặc tròn, chứa các phần tử tuỳ chọn, và dấu hoa thị dùng để chỉ ký hiệu đi kèm với nó có thể không có hoặc xuất hiện nhiều hơn một lần. Các vế phải của các quy tắc cũng có thể được xem như định nghĩa của các biểu thức của các ngôn ngữ chính quy, hay các biểu thức chính quy, tương ứng trên các bảng chữ cái {NP, Aux, V, PP} đối với quy tắc 1, {Det, Quant, Adj, N, PP} đối với quy tắc 2 và {Prep, PP} đối với quy tắc 3 -- do đó mỗi biểu thức có thể được diễn tả bằng một ôtômát hữu hạn trạng thái tương đương. Ví dụ, sơ đồ trạng thái của các ôtômát tương ứng với các quy tắc 1.(a) và 1.(b) là: Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 30 trong đó ký hiệu JUMP chỉ các bước chuyển không có điều kiện không tiêu thụ ký hiệu. Nhìn vào biểu diễn này, ta thấy ngay rằng biểu diễn bước chuyển của các trạng thái cho phép ta ghép các vế phải của 1.(a) và 1.(b) thành một sơ đồ duy nhất, vì hai quy tắc là giống nhau kể từ ký hiệu V trở đi. Điều này sẽ làm việc mô tả các thông tin trong hai quy tắc ngắn gọn hơn so với hình thức viết lại. Ghép hai sơ đồ A1(a) và A1(b) ta sẽ được ba sơ đồ bước chuyển tương ứng với bốn quy tắc 1-3 như sau: Ở đây, ta gặp vấn đề với các cung chuyển NP trong A1 và A3 và PP trong A2. Để biểu diễn đúng theo máy hữu hạn trạng thái thì ta phải coi chúng như những ký hiệu kết, trong khi rõ ràng chúng là các ký hiệu không kết trong văn phạm ban đầu. Vậy nếu chúng không kết thì làm thế nào để đoán nhận được bởi các ôtômát hữu hạn trạng thái tương ứng? Cách giải thích hiển nhiên ở đây là ta cần có cách nhìn khác đối với những cung "không kết" này, ta coi ba ôtômát A1-A3 là một hệ. Bây giờ ta không đòi hỏi A1 phải đoán nhận ký hiệu NP, mà để nó tạm thời chuyển sang A2, và quay lại với thông tin NP đó có thể đoán nhận được tại vị trí vào hiện tại hay không. Tương tự, A2 phải Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 31 chuyển trách nhiệm đoán nhận PP cho A3, đến lượt mình, A3 lại gọi A2 để đoán nhận NP. Rõ ràng là một FSA đơn thuần không thể đáp ứng được tiến trình đệ quy này, bởi nó không có cách nào để ghi nhớ đã xuất phát từ đâu và làm thế nào để quay lại đó sau khi kết thúc một quá trình trung gian. Tuy vậy, ta thấy rằng nếu ta dùng thêm một ngăn xếp để chuyển các FSA này thành một PDA thì thiết bị này hoàn toàn có khả năng quản lý mọi thao tác phụ gồm ghi nhớ và lấy lại các trạng thái. Khi điều khiển được chuyển sang một quá trình trung gian thì trạng thái hiện tại của máy được đẩy vào ngăn xếp, để khi kết thúc quá trình này máy sẽ quay lại đúng trạng thái đó. Trong thuật ngữ của RTN, việc chuyển điều khiển sang một trạng thái, giả sử NP, được gọi là PUSH NP. Khi ra khỏi trạng thái kết ta dùng một cung có nhãn POP để chỉ rằng khi quá trình kết thúc, máy quay lại trạng thái được lưu trong ngăn xếp. Ta cũng có thể sử dụng RTN để biểu diễn từ điển, thay vì dùng tập các quy tắc viết lại dạng Det → 'a' Det → 'the' Det → 'some' ta có thể sử dụng dạng chuyển như sau và gắn kết quả vào mạng văn phạm tương tự như A1-A3. Để tiện cho việc trình bày, ta có thể định nghĩa tập các hàm mà cung chuyển có thể gọi. Các hàm tìm kiếm trong từ điển hay sử dụng nhất là CAT, hàm này kiểm tra kiểu từ loại đã định nghĩa trước trong từ điển của từ hiện tại đang đọc vào. Các hàm khác được tóm lược trong bảng sau: Các hàm Ví dụ Cách dùng CAT noun đi qua được chỉ nếu từ loại của từ hiện tại có cùng tên WRD of đi qua được chỉ nếu từ hiện tại chính là từ này PUSH NP đẩy tới một mạng khác Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 32 JUMP jump luôn có thể đi qua được POP pop chỉ việc đi qua được toàn bộ mạng chuyển Để kết thúc mục này, ta tóm tắt sự giống và khác nhau giữa mạng chuyển RTN và các ôtômát hữu hạn trạng thái FSA và ôtômát đẩy xuống PDA như sau: Giống nhau: ¾ RTN cũng như FSA và PDA đều có thể đoán nhận các câu sinh bởi các văn phạm cấu trúc câu. ¾ RTN tương đương với PDA về khả năng đoán nhận ngôn ngữ sinh bởi văn phạm phi ngữ cảnh (CFG) của Chomsky. ¾ Hoạt động của RTN cũng như FSA và PDA đều có thể được biểu diễn bằng các mạng chuyển. Khác nhau: ¾ Các cung và các đỉnh (trạng thái): Trong khi các trạng thái trong mạng chuyển của FSA có nhãn là các từ không kết thúc của văn phạm tương đương với ôtômat, các cung có nhãn là các từ cuối (cũng như vậy với PDA, trừ các cung rỗng và cung kết thúc pop), thì các cung của RTN có nhãn là các từ không kết thúc (trừ một số cung đặc biệt cũng có nhãn là từ cuối) của văn phạm tương đương, với các trạng thái được đánh dấu tuỳ ý. ¾ Các mạng con: Các mạng chuyển của FSA và PDA là các mạng đầy đủ, còn mạng chuyển của RTN thì được xử lý như là một tập các mạng con. Với mỗi ký hiệu có xuất hiện ở vế trái trong các qui tắc sinh của văn phạm tương đương được biểu diễn bằng một mạng con. ¾ RTN không đơn định, quá trình đoán nhận do vậy phải dùng phương pháp quay lui. ¾ Do đặc điểm của mô hình RTN là một tập các mạng chuyển con, việc đoán nhận câu trong RTN phải theo phương pháp xử lý từ trên xuống (xuất phát từ mạng con S – tức là mạng biểu diễn các quy tắc sinh có vế trái là tiên đề) và xử lý theo chiều sâu trước (phải đi qua từng mạng con trước khi chuyển sang cung tiếp theo). Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 33 3.3. Tính thủ tục của các RTN Phương pháp biểu diễn nêu trên có mức độ trừu tượng tương đương với một hệ các quy tắc viết lại của văn phạm phi ngữ cảnh, theo nghĩa mọi quy tắc của văn phạm phi ngữ cảnh đều có thể chuyển thành một RTN tương đương. Tuy nhiên, cách biểu diễn bằng RTN có một đặc điểm quan trọng mà trong các hệ quy tắc viết lại không có, đó là các tiến trình (process). Khi ta sử dụng một văn phạm để xây dựng thủ tục đoán nhận một ngôn ngữ, thì các quy tắc viết lại chỉ ra cần làm cái gì; còn ôtômát nằm trong RTN lại mô tả làm như thế nào. Để so sánh, giả sử ta dùng một hệ sản xuất để đoán nhận một ngôn ngữ phi ngữ cảnh và dùng một RTN để đoán nhận cũng ngôn ngữ đó. Khi thiết kế hệ sản xuất, ta tự do quyết định các câu hỏi như áp dụng quy tắc nào tiếp theo, phần dữ liệu nào sẽ xem xét tiếp theo, và thực hiện các thao tác "viết lại" trên dữ liệu đó như thế nào. Với RTN, quyền lựa chọn các quyết định tương tự như trên không thuộc về người thiết kế nữa, bởi vì chúng đã bị ẩn trong biểu diễn ngữ nghĩa của văn phạm. Hình thức biểu diễn bằng RTN thể hiện nhiều đặc tính của các ngôn ngữ lập trình thủ tục thường gặp, đặc biệt khi nó được dịch thành biểu diễn tuyến tính cho đầu vào của máy tính - lệnh nhảy goto có và không có điều kiện (các bước chuyển trạng thái), các nhãn lệnh (các tên trạng thái), và các lời gọi thủ tục (PUSH và POP). Các điều khiển thủ tục có một đặc điểm quan trọng không bị ẩn trong ký hiệu, đó là cách trình thông dịch thực hiện khi nó gặp một trạng thái có nhiều cung chuyển tiếp theo. Chế độ bình thường là lần lượt đi theo các cung chuyển, bắt đầu từ cung chuyển đầu tiên, thực hiện từ trên xuống và ưu tiên chiều sâu, đi theo các đường dẫn xa nhất có thể và chấp nhận đường đi đầu tiên đến được một trạng thái kết với một xâu vào rỗng và ngăn xếp rỗng. Ở đây có sự khác nhau cơ bản so với cách tiếp cận hệ sản xuất, với hệ sản xuất, dạng viết lại của các quy tắc tự nó không giả định trước bất kỳ một tiến trình nào. Người xây dựng mạng chuyển RTN cần suy nghĩ theo tiến trình nhận dạng từ trên xuống, từ trái sang phải. Như vậy, hình thức RTN cho phép ta dễ dàng theo dõi tiến trình phân tích. Các RTN mô tả tiến trình, còn CFG thì không. Do mỗi chương trình máy tính là một sự mô tả tiến trình nên các RTN rất có giá trị khi được dùng để viết chương trình phân tích. Trên thực tế cũng có nhiều trình phân tích được điều khiển bởi các quy tắc của văn phạm. Sự khác nhau lớn nhất của hai hình thức này là vào thời điểm chạy chương trình, trình phân tích RTN "biết được" tại mỗi bước đã có sẵn những lựa chọn nào, Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 34 còn các trình phân tích dựa trên văn phạm phi ngữ cảnh phải tìm trong dãy các quy tắc những quy tắc nào là có thể áp dụng được. 3.4. Phân tích từ trên xuống cho mạng chuyển đệ quy Trạng thái phân tích tại một thời điểm nào đó được biểu diễn như sau: ¾ Vị trí hiện tại. Lưu lại phần nào của câu đã được phân tích rồi ¾ Nút hiện tại. Nút ta đang dừng lại để phân tích ¾ Ðiểm quay lại (trở về). Ta đang nằm trong một mạng (B) bởi lời gọi từ một nút nào đó của mạng (A). Khi đó điểm trở về là nút của mạng A, để khi quay ra ta lại tiếp tục quá trình phân tích. Trước hết, ta xét thuật toán đơn giản tìm kiếm trên một mạng chuyển đệ quy. Giả sử rằng nếu ta có thể đi qua một cung nào đó thì cung đó sẽ là đúng đắn trong phân tích cuối cùng; và giả sử ta chỉ xét các cung cat, push, và pop. Sau đó ta sẽ sửa đổi thuật toán này để tìm tất cả các đường đi bằng kỹ thuật quay lui. Giả sử ta đang đứng ở một nút trung gian nào đó và biết 3 thông tin đã qua. Ta thử đi theo một cung để ra khỏi nút hiện tại. Có các trường hợp sau xảy ra ¾ Nếu cung này là cung cat và từ kế tiếp trong câu thuộc vào lớp từ loại đó, thì - cập nhật lại vị trí hiện tại là từ kế tiếp; - cập nhật lại nút hiện tại là đích của cung này; ¾ Nếu cung này là cung push đẩy tới một mạng N thì - đưa đích của cung này vào danh sách các điểm trở về; - cập nhật lại nút hiện tại là nút bắt đầu của mạng N; ¾ Nếu cung này là cung pop và danh sách các điểm trở về chưa rỗng thì cập nhật nút hiện tại là điểm đầu tiên trong danh sách này; ¾ Nếu cung này là cung pop, danh sách các điểm trở về là rỗng và không còn từ nào cả thì việc phân tích là thành công; Ðể minh hoạ, ta xét văn phạm sau (Hình 13), Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 35 Hình 13. Mạng chuyển đệ quy làm ví dụ trong phân tích từ trên xuống cùng với bộ từ vựng ART the, a NUMBER one PRONOUN one ADJ wild, green NOUN dogs, man, saw, green VERB cried, saw, broke, faded, man Khi đó, câu 1 The 2 wild 3 dogs 4 cried 5 sẽ được phân tích như trên Bảng 3. Bước Nốt hiện tại Vị trí hiện tại Ðiểm trả về Cung được đi 1. S 1 nil S/1 2. NP 1 {S1} NP/1 3. NP1 2 {S1} NP1/1 4. NP1 3 {S1} NP1/2 5. NP2 4 {S1} NP2/1 6. S1 4 nil S1/1 7. S2 5 nil N2/1 Bảng 3. Quá trình phân tích từ trên xuống Chương 3. Các mạng chuyển Khoá luận tốt nghiệp 36 Câu The green faded sẽ không thể phân tích tích được bằng văn phạm này, bởi đầu tiên trình phân tích coi green là một tính từ, cho nên sau đó nó không tìm được một danh từ. Xét câu 1 One 2 saw 3 the 4 man 5, Ban đầu, trình phân tích thử phân tích câu với cụm danh từ one saw, nhưng sau đó thất bại khi tìm một động từ tiếp theo, nó quay lại và tìm ra cách phân tích thành công với cụm danh từ là one. Quá trình phân tích như trên Bảng 4. Bước Trạng thái hiện tại Ði theo cung Các trạng thái được lưu lại 1. (S,1,nil) S/1 nil 2. (NP,1,{S1}) NP/2 (và NP/3 để lưu) nil 3. (NP1,2,{S1}) NP1/2 {NP2,2, {S1}} 4. (NP2,3,{S1}) NP2/1 {NP2,2, {S1}} 5. (S1,3,{nil}) không thể đi theo cung nào cả {NP2, 2, {S1}} 6. (NP2,2,{S1}) NP2/1 nil 7. (S1,2,nil) S1/1 nil 8. (S2,3,nil) S2/2 nil 9. (NP,3,{S2}) NP/1 nil 10. (NP1,4,{S2}) NP1/2 nil 11. (NP2,5,{S2}) NP2/1 nil 12. (S2,5,nil) S2/1 nil 13. phân tích thành công nil Bảng 4. Phân tích từ trên xuống kết hợp quay lui cho mạng chuyển đệ quy Trong bước 2, có hai cung ra khỏi nút NP có thể chấp nhận one. Cung NP/2 coi one là một số (number) và sinh ra nút kế tiếp; đồng thời one cũng là một đại từ (pronoun), nên trình phân tích lưu lại khả năng đi qua cung NP/3 để đến nút NP2, như thế trình phân tích lưu trạng thái (NP2,2,{S1}). Tại bước 6, nó dùng lại trạng thái này, bởi nhận thấy rằng không có cung nào đi ra khỏi S1 chấp nhận từ the. Với những ví dụ phức tạp hơn, sẽ có cả một danh sách các điểm được lưu. Tuỳ theo danh sách này được tổ chức theo thứ tự ra sao, trình phân tích sẽ sinh ra những thứ tự phân tích khác nhau. Chương 4. Xây dựng văn phạm tiếng Việt Khoá luận tốt nghiệp Chương 4. Xây dựng văn phạm tiếng Việt 4.1. Xây dựng tập từ loại tiếng Việt Ngữ pháp tiếng Việt hết sức phức tạp. Việc xây dựng một bộ văn phạm hoàn chỉnh cho tiếng Việt là rất khó khăn. Ngay cả về vấn đề từ loại của tiếng Việt hiện nay vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất. Sau khi tham khảo nhiều tài liệu chuyên ngành cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, nhóm nghiên cứu đã quyết định sử dụng trước mắt cách phân loại từ tiếng Việt theo cuốn Ngữ Pháp tiếng Việt (nhà xuất bản KHXH, 1983) và đề nghị bộ nhãn chi tiết như danh sách dưới đây: 1. Danh từ (N) a. Danh từ riêng Np b. Danh từ đơn thể Nc c. Danh từ tổng thể Ng d. Danh từ loại thể Nt e. Danh từ đơn vị Nu f. Danh từ trừu tượng Na g. Danh từ số lượng Nn h. Danh từ vị trí Nl 2. Động từ (V) a. Động từ ngoại động Vt b. Động từ nội động Vit c. Động từ cảm nghĩ Vim d. Động từ phương hướng Vo e. Động từ tồn tại Vs f. Động từ biến hoá Vb g. Động từ ý chí Vv h. Động từ tiếp thụ Va i. Động từ so sánh Vc j. Động từ “là” Vla 3. Tính từ (A) a. Tính từ hàm chất Aa b. Tính từ hàm lượng Am 4. Đại từ (P) a. Đại từ xưng hô Pp b. Đại từ không gian, thời gian Pd c. Đại từ số lượng Pn d. Đại từ hoạt động, tính chất Pa e. Đại từ nghi vấn Pi Chương 4. Xây dựng văn phạm tiếng Việt Khoá luận tốt nghiệp 38 5. Phụ từ (J) a. Phụ từ thời gian Jt b. Phụ từ mức độ Jd c. Phụ từ so sánh Jr d. Phụ từ khẳng định, phủ địnhJa e. Phụ từ mệnh lệnh Ji 6. Kết từ (C) a. Kết từ chính phụ Cm b. Kết từ liên hợp Cc 7. Trợ từ M 8. Cảm từ I 4.2. Xây dựng văn phạm tiếng Việt Mục tiêu của ta là xây dựng được một văn phạm vừa đủ để giải quyết bài toán phân tích. Nếu văn phạm quá rộng thì vừa không cần thiết vừa làm phức tạp thêm vấn đề. Nhưng nếu văn phạm quá hẹp thì không thể bao quát được hết cấu trúc của các câu cần phân tích, do đó không đủ mạnh để giải quyết bài toán. Khi xây dựng câu tiếng Việt, ta triển khai xây dựng theo từng bước từ → ngữ → câu. Ngữ pháp truyền thống chia ra các loại ngữ sau đây: Tên ngữ Nhãn Đặc trưng Danh ngữ (noun phrase) NP Danh từ làm trung tâm Động ngữ (verb phrase) VP Động từ làm trung tâm Tính ngữ (adjectival phrase) AP Tính từ làm trung tâm Giới ngữ (prepositional phrase) PP Giới từ làm trung tâm Nói chung, mỗi ngữ đều có ba bộ phận: phần phụ trước đứng trước thành tố chính, phần trung tâm chứa thành tố chính và phần phụ sau đứng sau thành tố chính. Thành tố chính của ngữ giữ vai trò quan trọng về mặt ngữ pháp đối với ngữ, cần thiết về mặt tổ chức của ngữ, sự có mặt của nó là bắt buộc, không thể lược bỏ. Thành tố chính đại diện cho toàn bộ ngữ trong mối liên hệ với các yếu tố khác nằm ngoài ngữ, chi phối các thành tố khác và quyết định chức vụ ngữ pháp của tất cả các thành tố phụ có liên quan. Xét về vị trí, thành tố phụ của ngữ đứng trước hay sau phần trung tâm. Trong cùng một loại ngữ, những từ có khả năng khi thì làm thành tố phụ sau, khi thì làm thành tố phụ trước không nhiều. Xét về từ loại, thành tố phụ có thể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhân tích cú pháp tiếng Việt trong tin học.pdf
Tài liệu liên quan