Khóa luận Phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình trồng rau nhút mùa nước nổi ở thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang

MỤC LỤC

 

 

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

Danh mục sơ đồ

Danh mục chữ viết tắt

 

Chương 1. MỞ ĐẦU 1

 

1.1. Cơ sở hình thành 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.3. Phạm vi nghiên cứu 2

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 2

1.3.2. Về thời gian 2

1.3.3. Về không gian 2

1.3.4. Về nội dung 2

1.4. Ý nghĩa 2

 

Chương 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 4

 

2.1. Quan niệm về hiệu quả kinh tế 4

2.2. Các loại chi phí trong mô hình TRNMNN 4

2.3. Kênh phân phối 5

2.4. Khái niệm về tổ hợp tác, hợp tác xã 5

2.4.1. Hợp tác xã 5

2.4.2. Tổ hợp tác 6

2.5. Thị trường 6

2.6. Phương pháp nghiên cứu 6

2.6.1. Nguồn dữ liệu 6

2.6.2. Phương pháp phân tích dữ liệu 7

2.7. Một số yếu tố về kỹ thuật 7

 

Chương 3. TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH TRỒNG RAU NHÚT MÙA NƯỚC NỔI Ở XÃ THẠNH MỸ TÂY - HUYỆN CHÂU PHÚ - TỈNH AN GIANG 10

 

3.1. Giới thiệu sơ lược 10

3.1.1. Sơ lược về mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 10

3.1.2. Hai loại rau nhút trong mô hình 10

3.2. Sơ đồ mô hình 11

3.3. Ưu điểm và nhược điểm của mô hình TRNMNN 13

3.3.1. Ưu điểm 13

3.3.2. Nhược điểm 13

 

Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 14

 

4.1. Nguồn lực của hộ nông dân 14

4.1.1. Giống đầu vào 14

4.1.2. Đất đai 15

4.1.3. Nguồn lao động 17

4.1.4. Trang thiết bị 18

4.1.5. Quy mô 19

4.2. Điều kiện phát triển mô hình TRNMNN ở Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 21

4.2.1. Thuận lợi 21

4.2.2 . Khó khăn 22

4.3. HQKT của mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 24

4.3.1. Chi phí sản xuất trong mô hình TRNMNN 24

4.3.2. HQKT trong mô hình TRNMNN 26

4.3.3. Kênh phân phối 29

4.3.4. Các lợi ích mang lại từ mô hình 32

4.4. Các giải pháp để phát triển và nâng cao HQKT của mô hình TRNMNN ở xã

Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 33

4.4.1. Đưa mô hình TRNMNN vào tổ hợp tác nông nghiệp của xã Thạnh Mỹ

Tây, Châu Phú, An Giang 33

4.4.2. Trồng rau nhút mùa nước nổi kết hợp với nuôi tôm 33

4.4.3. Giảm chi phí sản xuất: chi phí giống và chi phí phân, thuốc BVTV 33

Chương 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 35

 

5.1. Kết luận 35

5.2. Kiến nghị 36

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 37

 

 

 

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình trồng rau nhút mùa nước nổi ở thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 42,86 45,24 100,00 40,00 80,95 45,08 Giống mua % 0,00 50,00 57,14 54,76 0,00 60,00 19,05 54,92 Mật độ trồng Tấn/ha 2,50 1,75 1,86 1,87 1,55 1,66 1,97 1,76 Giá đầu vào 1000đ/kg 2,50 2,75 3,03 2,94 2,75 2,90 2,76 2,86 Loại rau nhút Trắng % 50,00 80,00 86,05 85,37 50,00 50,00 62,02 71,79 Đỏ % 50,00 20,00 13,95 14,63 50,00 50,00 37,98 28,21 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp Theo số liệu trong bảng 4.1, điểm nổi bật là ở 2 ấp Thạnh Hòa và Tây An, năm 2005 các hộ trồng rau ở cả 2 ấp này không phải mua giống từ nơi khác về mà nguồn giống của các hộ này là của vụ trước để lại tiếp tục trồng ở những đường mương hoặc ao nhỏ nằm cặp bờ ruộng. Nhưng đến năm 2006 thì đã có sự thay đổi lớn: với tỷ lệ giống tự có đã giảm xuống 50% và tỷ lệ giống mua tăng lên 50% ở ấp Mỹ Bình; tương tự ở ấp Tây An tỷ lệ giống tự có cũng giảm đi 60% và tỷ lệ giống mua tăng lên 60%. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do: ở ấp Thạnh Hòa năm 2005 chỉ có 2 hộ TRNMNN và cả hai hộ này đều có nguồn giống từ vụ trước để lại, đến năm 2006 số hộ áp dụng mô hình TRNMNN đã tăng lên 4 hộ, 2 hộ mới này phải mua 100% giống để canh tác. Tương tự ở ấp Tây An năm 2005 có 2 hộ áp dụng mô hình TRNMNN đến năm 2006 số lượng đã tăng lên 5 hộ và 3 hộ mới này cũng phải mua 100% lượng giống để canh tác. Còn đối với ấp Mỹ Bình thì tỷ lệ giống tự có và giống mua thay đổi không lớn trong 2 năm, nguyên nhân là do ấp Mỹ Bình có số năm áp dụng mô hình TRNMNN nhiều hơn 2 ấp còn lại nên số hộ áp dụng mô hình TRNMNN cũng như tỷ lệ giống tự có và giống mua thay đổi không lớn qua các năm. Về mật độ trồng, bình quân của 3 ấp năm 2006 giảm 0,21 tấn/ha so với năm 2005. Trong đó, mật độ trồng trong năm 2005 cao nhất là ấp Thạnh Hòa với 2,5 tấn/ha, thấp nhất là ở ấp Tây An với 1,55 tấn/ha và mật độ trồng cao nhất trong năm 2006 là ở ấp Mỹ Bình với 1,87 tấn/ha và thấp nhất là 1,66 tấn/ha ở ấp Tây An. Nguyên nhân của sự cao thấp này là do khả năng đầu tư và kinh nghiệm canh tác của mỗi hộ nông dân. Về giống rau nhút thì có 2 loại: loại rau nhút thân trắng và loại rau nhút thân đỏ, giá đầu vào của 2 loại rau này không có chênh lệch. Mức giá trung bình của 3 ấp trong năm 2006 tăng 100 đồng/kg so với năm 2005, đây là một mức chênh lệch khá cao và nếu dựa trên mức giá chênh lệch bình quân này để tính chi phí giống đầu vào thì chi phí giống đầu vào sẽ tăng lên tối đa 250 ngàn đồng/ha, đây là một con số không cao. Nhưng thực tế khi tính chi phí giống đầu vào thì không dựa vào mức giá bình quân của 3 ấp mà dựa vào mức giá thực tế khi các hộ nông dân mua giống để canh tác. 4.1.2. Đất đai Tình hình đất đai và sử dụng đất đai của các hộ nông dân trồng rau nhút mùa nước nổi ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang trong năm 2005 và năm 2006 được thể hiện qua bảng 4.2. Trong tổng số 65 hộ điều tra có 18 hộ phải thuê đất để canh tác và 18 hộ này đều thuộc ấp Mỹ Bình, các hộ còn lại thì không phải thuê mướn vì họ tận dụng diện tích đất nông nghiệp thuộc quyền sử dụng của gia đình để TRNMNN. Sau đây là chi tiết về diện tích đất thuê để áp dụng mô hình TRNMNN ở ấp Mỹ Bình, diện tích năm 2006 là 3,76 ha cao hơn năm 2005 là 0,46 ha. Nguyên nhân 18 hộ này phải thuê đất để canh tác là vì đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và những hộ này đều thuộc khu dân cư trong ấp. Về nguồn lực đất đai thì tổng diện tích đất nông nghiệp cũng chính là tổng diện tích đất trồng lúa của các hộ điều tra của 3 ấp không thay đổi giữa 2 năm 2005 và năm 2006. Điều này có nghĩa là các hộ dân sử dụng hết phần đất nông nghiệp để canh tác lúa và tỷ lệ tăng trưởng từ năm 2005 đến năm 2006 của cả 3 ấp đều là 0%. Ngược lại, diện tích đất TRNMNN thì cả 3 ấp đều thay đổi, có tăng và cũng có giảm. Tăng mạnh nhất là ở ấp Tây An với 99,11% diện tích, tương đương 1,12 ha và tiếp theo là ấp Thạnh Hòa tăng 80,77% diện tích, tương đương 0,42 ha. Nguyên nhân của việc tăng mạnh là do người dân thấy được lợi ích và nguồn thu nhập mang lại từ mô hình TRNMNN khá cao đồng thời trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật và khả năng tiếp thu cái mới, sự tiến bộ kết hợp với khả năng học hỏi từ người thân, bạn bè, hàng xóm,…của người dân ngày càng phát triển mạnh. Chính vì thế, mô hình TRNMNN ngày càng được nhiều người trong địa phương áp dụng, cụ thể là: trong năm 2005 ở ấp Thạnh Hòa có 2 hộ áp dụng mô hình TRNMNN với diện tích là 0,52 ha, đến năm 2006 tăng lên 4 hộ với diện tích là 0,94 ha; ở ấp Tây An có 2 hộ áp dụng với diện tích là 1,12 ha trong năm 2005 và tăng lên 5 hộ áp dụng với diện tích là 2,23 ha trong năm 2006. Ấp Mỹ Bình tuy là ấp có số năm áp dụng mô hình TRNMNN nhiều nhất trong 3 ấp nghiên cứu nhưng diện tích đất trồng rau nhút lại giảm so với 2 ấp còn lại, cụ thể là giảm đi 2,35% diện tích tương đương với 0,42 ha. Nguyên nhân chính của việc giảm diện tích là do: như đã phân tích ở trên, ấp Mỹ Bình có khu dân cư, trong đó có một số hộ dân không có đất để canh tác nên phải thuê đất nông nghiệp vào mùa nước nổi để trồng rau nhút. Nhưng trong năm 2006 trong các hộ này có một số hộ không thuê được đất, cụ thể là 2 hộ. Vì vậy, diện tích đất trồng rau nhút mùa nước nổi giảm đi ở ấp Mỹ Bình. Bảng 4.2: Tình hình đất đai và sử dụng đất đai của các hộ áp dụng mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang trong năm 2005 và năm 2006 Chỉ Tiêu ĐVT Thạnh Hòa (I) Mỹ Bình (II) Tây An (III) BQ Của 3 Ấp (IV) Chênh Lệch 2006/2005 (%) 2005 2006 2005 2006 2005 2006 2005 2006 I II III IV 1. Số hộ điều tra (có trồng rau nhút) Hộ 2,00 4,00 43,00 41,00 2,00 5,00 15,67 16,67 100,00 -4,65 150,00 6,38 2. Đất nông nghiệp ha 8,55 8,55 47,90 47,90 6,93 6,93 21,13 21,13 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đất trồng lúa ha 8,55 8,55 47,90 47,9 6,93 6,93 21,13 21,13 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đất trồng rau nhút ha 0,52 0,94 17,84 17,42 1,12 2,23 6,49 6,86 80,77 -2,35 99,11 5,70 3. Một số chỉ tiêu - Đất NN BQ/hộ ha 2,14 2,14 0,86 0,86 1,39 1,39 1,46 1,46 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đất NN BQ/NK ha 0,48 0,48 0,21 0,21 0,31 0,31 0,33 0,33 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đất NN BQ/LĐ ha 0,66 0,66 0,33 0,33 0,41 0,41 0,47 0,47 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đất trồng rau nhút BQ/hộ ha 0,26 0,24 0,41 0,40 0,56 0,45 0,41 0,36 -7,69 -2,44 -19,64 -12,20 - Đất trồng rau nhút BQ/NK ha 0,03 0,05 0,08 0,08 0,05 0,10 0,05 0,08 66,67 0,00 100,00 60,00 - Đất trồng rau nhút BQ/LĐ ha 0,04 0,07 0,12 0,12 0,07 0,13 0,08 0,11 75,00 0,00 85,71 37,50 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp Một điểm khác biệt trong bảng 4.2 là diện tích đất TRNMNN ở 2 ấp Thạnh Hòa và Tây An đều tăng lên nhưng diện tích đất trồng rau nhút bình quân/hộ ở cả 2 ấp này đều giảm. Cụ thể là ở Thạnh Hòa năm 2006 giảm 7,69% so với năm 2005 tương đương 0,02 ha và ở ấp Tây An giảm đi 19,64% tương đương 0,11 ha. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do ở mỗi ấp các hộ mới áp dụng mô hình TRNMNN (mới áp dụng vào năm 2006) có diện tích TRNMNN ít hơn các hộ TRNMNN ở năm 2005. Vì vậy, mặc dù tổng diện tích đất TRNMNN ở mỗi ấp đều tăng lên nhưng khi tính bình quân/hộ thì giảm xuống. Tóm lại, tổng diện tích đất TRNMNN của 3 ấp nghiên cứu nói riêng và xã Thạnh Mỹ Tây nói chung có sự thay đổi theo chiều hướng tăng lên. 4.1.3. Nguồn lao động Nguồn lực thứ ba là lao động được thể hiện trong bảng 4.3 Bảng 4.3: Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ áp dụng mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây trong năm 2005 và năm 2006 Chỉ Tiêu ĐVT Thạnh Hòa Mỹ Bình Tây An BQ Của 3 Ấp 1. Tuổi BQ chủ hộ Tuổi 54,75 45,48 39,60 46,61 2. Số nhân khẩu BQ/hộ Nhân khẩu 4,50 4,00 4,40 4,30 3. Số lao động BQ/hộ Lao động 3,25 2,59 3,40 3,08 - Lao động nam Lao động 1,75 1,39 2,20 1,78 - Lao động Nữ Lao động 1,50 1,20 1,20 1,30 4. Học vấn của chủ hộ - Mù chữ % 0,00 5,36 0,00 1,79 - Tiểu học % 50,00 46,43 40,00 45,48 - Trung học cơ sở % 25,00 35,71 40,00 33,57 - Trung học phổ thông % 25,00 12,50 20,00 19,17 - Trung cấp % 0,00 0,00 0,00 0,00 - Đại học % 0,00 0,00 0,00 0,00 - Sau Đại học % 0,00 0,00 0,00 0,00 5. Số năm trồng rau Nhút Năm 2,75 3,50 2,20 2,82 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp Trong bảng 4.3, số lao động bình quân/hộ chỉ tính những người nằm trong độ tuổi lao động theo quy định của luật lao động. Về tình hình số lượng lao động, số lao động bình quân/hộ TRNMNN 3,08 lao động. Trong đó, số lao động ở ấp Tây An là cao nhất với 3,40 lao động và thấp nhất là 2,59 lao động ở ấp Mỹ Bình. Điều này cho thấy nguồn lực về lao động giữa 3 ấp không đều nhau, tuy nhiên mức chênh lệch về lao động của 3 ấp là thấp, chưa đến 1 lao động. Đồng thời, số lao động nam và nữ cũng có chênh lệch (lao động nam chiếm 57,79%, lao động nữ chiếm 42,21% trong tổng số lao động bình quân/hộ của 3 ấp là 3,08 lao động). Tuy nhiên, trong mô hình TRNMNN thì lao động nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng mà quan trọng là kinh nghiệm bản thân và trình độ tay nghề lao động, 2 mặt này sẽ quyết định đến năng suất lao động cao hay thấp. Phần lớn việc thuê lao động là vào các ngày thu hoạch rau, vì công việc thu hoạch rau nhút không thể áp dụng máy móc hay phương tiện kỹ thuật hiện đại nên công việc thu hoạch rau làm bằng phương pháp thủ công. Bên cạnh đó, công việc này tương đối tốn thời gian nên đòi hỏi phải thuê lao động. Trung bình 1 lao động thu hoạch được 200 kg rau nhút/ngày công. Về phần lao động gia đình thì số ngày công cũng rất thấp so với các mô hình khác, chủ yếu là vào ngày xuống giống và các công việc tiến hành cùng ngày với ngày thu hoạch rau (sau mỗi lần thu hoạch rau thì tiến hành phun thuốc và rải phân cho rau). Về trình độ học vấn của chủ hộ, bình quân của cả 3 ấp có đến 45,48% chủ hộ có trình độ tiểu học, 33,57% chủ hộ có trình độ phổ thông cơ sở và trình độ phổ thông trung học gần 20%. Đặc biệt là số chủ hộ mù chữ chiếm chưa đầy 2%, đây là một con số khả quan. Nếu xét riêng từng ấp thì số chủ hộ mù chữ trong tổng số 65 hộ đều thuộc ấp Mỹ Bình và 2 ấp còn lại thì tỷ lệ chủ hộ mù chữ là 0% trong tổng số hộ nghiên cứu của từng ấp. Nhưng nhìn chung, trình độ học vấn của chủ hộ trong tổng số hộ nghiên cứu là tương đối thấp, mặc dù tỷ lệ mù chữ trung bình của chủ hộ của 3 ấp chỉ có 1,79% nhưng tỷ lệ chủ hộ có trình độ trung học phổ thông vẫn còn thấp 19,17%. Đây là một trở ngại lớn trong quá trình tiếp thu khoa học kỹ thuật trong toàn bộ quá trình canh tác cây rau nhút mùa nước nổi. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế cũng như sự phát triển của mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang. 4.1.4. Trang thiết bị Sau đây là thông tin về trang thiết bị phục vụ sản xuất trong mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang. Bảng 4.4: Trang thiết bị phục vụ sản xuất của các hộ áp dụng mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây trong năm 2005 và năm 2006 Chỉ Tiêu ĐVT Thạnh Hòa Mỹ Bình Tây An BQ Của 3 Ấp Cọc Tràm Cây/ha 1287 1017 1000 1101 Dây gân kg/ha 19,38 24,97 20,00 21,45 Dây bẹ kg/ha 13,13 7,34 9,50 9,99 Bình phun thuốc Cái/tổng hộ điều tra 4,00 38,00 5,00 15,67 Xuồng Chiếc/tổng hộ điều tra 2,00 50,00 5,00 19,00 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp Qua bảng 4.4 thì các loại trang thiết bị cần thiết và mang tính bắt buộc phải có trong mô hình TRNMNN bao gồm các loại sau: cọc tràm, dây gân, dây bẹ, bình phun thuốc, xuồng hoặc các trang thiết bị tương đương. Tuy nhiên, không bắt buộc tất cả các hộ áp dụng mô hình TRNMNN đều phải có đầy đủ các trang thiết bị như trong bảng trên mà có thể thiếu 2 loại là bình phun thuốc và xuồng. Bởi vì 2 vật này có thể mướn hoặc mượn khi cần thiết. Phần lớn các loại trang thiết bị trong mô hình này có chi phí rất thấp, ví dụ như: tràm, dây gân, dây bẹ, đồng thời tận dụng được các trang thiết bị từ việc canh tác lúa như xuồng và bình phun thuốc. Sự chênh lệch về số lượng của các loại trang thiết bị ở 3 ấp nghiên cứu là do khả năng đầu tư, kỹ thuật và kinh nghiệm của mỗi hộ dân mà sử dụng số lượng nhiều hay thấp. Bên cạnh đó, kỹ thuật và kinh nghiệm sử dụng các trang thiết bị sẽ quyết định khả năng và thời gian tái sử dụng của chúng. Tóm lại, trang thiết bị sử dụng trong mô hình TRNMNN rất ít, đơn giản và có chi phí không cao, đây là một lợi thế rất lớn của mô hình TRNMNN so với các mô hình khác. Nó góp phần làm giảm chi phí đầu tư ban đầu và tăng thêm lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. 4.1.5. Quy mô Thông tin về quy mô và cơ cấu giống của các hộ nông dân áp dụng mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An giang trong năm 2005 và năm 2006 được thể hiện qua bảng 4.5. Về số lượng giống/ha thì có sự chênh lệch lớn giữa các hộ trồng rau, hộ có số lượng trồng thấp nhất là 0,50 tấn/ha, cao nhất là 4,00 tấn/ha và nhìn chung thì lượng giống/ha bình quân của 3 ấp trong năm 2006 có giảm đi so với năm 2005, giảm 10,66%. Nguyên nhân của sự chênh lệch về lượng giống trồng là do khả năng đầu tư và kinh nghiệm của mỗi hộ nông dân. Trồng thưa hay trồng dày đều có ưu và nhược điểm riêng. Tùy thuộc vào cá nhân từng người mà áp dụng. Về cơ cấu giống, theo như giới thiệu ban đầu thì rau nhút có 2 loại đó là rau nhút có thân màu trắng xanh và rau nhút có thân màu đỏ tím (để đơn giản, người dân địa phương gọi là rau nhút trắng và rau nhút đỏ). Giữa 2 loại rau này thì rau nhút trắng được người dân ưa chuộng hơn vì nó có nhiều ưu điểm như thân mập, lóng dài, cả thân và lá đều xanh tốt, phau phát triển mạnh. Theo số liệu tổng hợp trong bảng 4.5 thì cả 2 năm các hộ nông dân ở xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú đều trồng rau nhút trắng nhiều hơn rau nhút đỏ, riêng ấp Thạnh Hòa thì ngược lại. Cụ thể là: Năm 2005 bình quân của 3 ấp có tỷ lệ rau nhút trắng là 82,99% và rau nhút đỏ là 17,01% trong tổng số lượng giống được trồng. Đến năm 2006 tuy số lượng rau nhút đỏ có tăng lên nhưng tỷ lệ rau nhút trắng vẫn còn cao hơn rất nhiều so với rau nhút đỏ, cụ thể là rau nhút trắng chiếm 80,31% và rau nhút đỏ là 19,69%. Nguyên nhân ấp Thạnh Hòa có tỷ lệ rau nhút đỏ được trồng cao hơn hai ấp còn lại là vì mô hình TRNMNN mới được nông dân áp dụng trong năm 2005 và năm 2006 nên người dân chưa nắm được ưu nhược điểm của từng loại rau nhút. Vì vậy, các hộ này không quan tâm đến trồng loại rau nhút trắng hay rau nhút đỏ thì có hiệu quả hơn. Nên khi mua giống để trồng thì chỉ chọn giống khỏe mạnh và xanh tốt là được, đây chính là nguyên nhân làm cho tỷ lệ rau nhút đỏ cao hơn tỷ lệ rau nhút trắng ở Thạnh Hòa. Bảng 4.5: Quy mô và cơ cấu giống của các hộ áp dụng mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây trong năm 2005 và năm 2006 Chỉ Tiêu ĐVT Thạnh Hòa (I) Mỹ Bình (II) Tây An (III) BQ Của 3 Ấp (IV) Chênh Lệch 2006/2005 (%) 2005 2006 2005 2006 2005 2006 2005 2006 I II III IV 1. Diện tích đất trồng rau ha 0,52 0,94 17,84 17,42 1,12 2,23 6,49 6,86 80,77 -2,35 99,11 5,70 2. Số lượng giống/ha - Bình Quân Tấn/ha 2,50 1,75 1,86 1,87 1,55 1,66 1,97 1,76 -30,00 0,54 7,10 -10,66 - Cao nhất Tấn/ha 3,00 3,00 4,00 4,00 1,60 2,00 2,87 3,00 0,00 0,00 25,00 4,53 - Thấp nhất Tấn/ha 2,00 1,00 0,50 0,60 1,50 1,50 1,33 1,03 -50,00 20,00 0,00 -22,56 3. Cơ cấu - Tổng lượng giống trồng Tấn/ấp 0,50 0,70 8,02 8,22 0,31 0,83 2,94 3,25 40,00 2,49 167,74 10,42 Loại rau nhút Trắng Tấn/ấp 0,20 0,30 6,95 6,85 0,16 0,68 2,44 2,61 50,00 -1,44 325,00 7,11 Tỷ lệ % 40,00 42,86 86,65 83,32 51,61 81,93 82,99 80,31 Đỏ Tấn/ấp 0,30 0,40 1,07 1,37 0,15 0,15 0,50 0,64 33,33 28,04 0,00 26,32 Tỷ lệ % 60,00 57,14 13,35 16,68 48,39 18,07 17,01 19,69 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp Tóm lại, số lượng rau nhút giống được trồng trong năm 2006 đều tăng lên so với năm 2005 ở cả 3 ấp. Sự tăng lên ở ấp Thạnh Hòa và Tây An là vì năm 2006 ở cả 2 ấp này diện tích đất TRNMNN đều tăng lên do có thêm nhiều hộ áp dụng mô hình TRNMNN. Còn ở ấp Mỹ Bình năm 2006 lượng rau giống được trồng tăng lên không đáng kể, chủ yếu là do có một số ít hộ trồng rau với mật độ dày hơn năm 2005. 4.2. Điều kiện phát triển mô hình TRNMNN ở Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 4.2.1. Thuận lợi Kinh tế Nhà nước luôn quan tâm phát triển kinh tế hộ gia đình với nhiều hình thức: hỗ trợ vốn, kỹ thuật,… Trong những năm gần đây, UBND tỉnh An Giang rất quan tâm phát triển các mô hình kinh tế trong mùa nước nổi. Hiện nay, nông nghiệp đã được giảm và miễn thuế. Văn hóa, xã hội Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống của người dân Việt Nam. Các sản phẩm của nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm chính để con người tồn tại và phát triển và rau nhút cũng là một trong số những loại thực phẩm đó, cái tên rau nhút hầu như trở nên rất quen thuộc với người dân Việt Nam từ người già cho đến trẻ thơ tất cả đều biết đến. Loại rau này rất dễ dùng, sống hay chín đều dùng được, nó phù hợp với rất nhiều món ăn như: canh chua, món lẩu,…Điều đặc biệt là rau nhút được dùng trong mọi trường hợp, từ một bữa ăn gia đình đến một đám cưới ở làng quê hay một buổi tiệc ở nhà hàng, khách sạn và không phân biệt người giàu có hay nghèo khổ mà tất cả đều dùng được. Về văn hóa ẩm thực thì trong những năm gần đây từ thành thị đến nông thôn đều xuất hiện nhiều món ăn mới lạ và đi kèm với nó là một đĩa rau đầy màu sắc mà điển hình là các món lẩu. Tự nhiên An Giang nói riêng, ĐBSCL nói chung có nhiều điều kiện thuận lợi để sản xuất nông nghiệp mà thiên nhiên đã ban tặng: đất đai màu mỡ, có nguồn nước ngọt dồi dào với nhiều chủng loại cá tôm. Vào mùa nước nổi, mực nước lên cao và kéo dài suốt 5 tháng liền, rất thuận lợi cho việc trồng các loại rau củ và rau nhút là một trong những số đó. 5 tháng là một khoảng thời gian đủ để người nông dân kiếm được khoản thu nhập khá cao từ loại rau này so với canh tác mô hình khác (lúa vụ 3,…). Khoa học công nghệ Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ như ngày nay thì người dân cũng dần, đã và đang áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất và đã cho ra nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Những thuận lợi khác Chế biến và tiêu thụ: Thị trường nội địa với hơn 80 triệu dân, đây là một thị trường có sức tiêu thụ rất lớn và cũng là một cơ hội lớn cho việc canh tác mô hình này. Bên cạnh đó, nhu cầu rau nhút trên thị trường vào mùa nước nổi rất lớn. Nguyên nhân là số lượng các loại rau khác giảm mạnh do không trồng được trong mùa nước nên các loại rau thủy sinh chiếm ưu thế trên thị trường trong đó có cây rau nhút. Công nghệ thiết bị: Trong mô hình này không đòi hỏi nhiều và các công cụ, dụng cụ cần thiết rất đơn giản, dễ tìm và đặc biệt là chi phí cho các trang thiết bị này rất thấp. Nguồn lực: Phần lớn người dân sẵn có diện tích đất để canh tác do tận dụng diện tích đất trồng lúa để trồng rau nhút trong mùa nước nổi đồng thời có nguồn lao động nông thôn rất dồi dào nên vấn đề thiếu hụt lao động không phải lo ngại, do phần lớn người dân tại địa phương trồng lúa là chính, nơi đây lại không có tuyến đê bao ngăn lũ nên người dân có được khoảng thời gian rãnh trong suốt mấy tháng mùa nước. Vì vậy, việc thuê lao động không phải là vấn đề khó khăn trong việc trồng và thu hoạch rau. Chương trình khai thác lợi thế mùa nước nổi trong giai đoạn 2006 – 2010 của UBND tỉnh An Giang An Giang xác định: đến năm 2010, phấn đấu khai thác từ mùa nước nổi khoảng 400 ngàn tấn lúa, trên 268 ngàn tấn rau dưa các loại, gần 6 ngàn tấn rau nhút, 5 ngàn tấn ấu, 3,5 ngàn tấn rau muống, trên 8 ngàn tấn cá đồng, 1 ngàn tấn lươn, 200 tấn ếch. Đặc biệt, trong 5 năm (2006 - 2010) tỉnh sẽ tổ chức đào tạo nghề cho gần 100 ngàn nông dân vùng ngập lũ. UBND tỉnh An Giang đã điều chỉnh lại Chương trình khai thác lợi thế mùa nước nổi trong giai đoạn 2006 - 2010 hợp lý hơn. Đó là thực hiện xả lũ theo định kỳ, giảm diện tích gieo trồng lúa, tăng diện tích trồng trọt hoa màu và nuôi trồng thủy sản SGGP. 29.08.2006. Thắng lợi “kép” trong mùa nước nổi. Đọc từ: (đọc ngày 05.05.2003) . Đây là một cơ hội lớn cho nông dân xã Thạnh Mỹ Tây nói riêng và nông dân tỉnh An Giang nói chung. Riêng cây rau nhút, 6 ngàn tấn một con số không nhỏ, điều này sẽ giúp người dân an tâm sản xuất cây rau nhút cũng như các loại hoa màu khác. 4.2.2 . Khó khăn Thứ nhất là về kỹ thuật canh tác, hiện tại phần lớn người dân tại địa phương chưa nắm vững kỹ thuật trồng rau nhút trong mùa nước nổi. Ví dụ: Trong việc phòng và trị bệnh cho rau nhút, người dân không dự đoán được thời tiết nóng hoặc lạnh hoặc mưa nhiều thì rau nhút bị những bệnh gì mà phòng ngừa cho thích hợp. Chỉ khi nào rau bị bệnh thì mới trị, nhưng khi trị bệnh thì lại sử dụng không đúng thuốc;… Thứ hai là về mặt tự nhiên, đối với cây rau nhút thì loại cây này rất thích hợp với dòng chảy nhẹ. Nhưng vào mùa nước thì dòng chảy của nước rất mạnh kết hợp với sóng và gió thì cây rau dễ bị chìm và cuốn trôi nên đối với những cánh đồng nhận dòng chảy trực tiếp từ các sông lớn thì khó có thể áp dụng mô hình này, nếu trồng được thì năng suất cũng không cao. Chính vì mặt hạn chế này nên mô hình TRNMNN không thể trồng đơn lẻ 1 hoặc vài hộ được mà phải trồng tập trung với diện tích càng lớn càng tốt. Thứ ba là vấn đề đầu ra, đây là một vấn đề rất quan trọng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mô hình. Hiện tại, có thể nói đầu ra của cây rau nhút của người dân xã Thạnh Mỹ Tây là tương đối ổn định, vì hàng ngày cả mùa khô và mùa nước đều có thương lái tại địa phương và một số tỉnh lân cận thu mua do thị trường có nhu cầu về loại rau này. Nhưng điều lo ngại là giá cả biến động và bấp bênh do người dân không hợp tác về giá cả, đắt hay rẻ gì cũng bán, vấn đề khó khăn này là do người dân không hợp tác tìm cho mình một đầu ra chắc chắn và an toàn. Chính vì thế, trong tương lai sẽ gặp khó khăn về đầu ra cho cây rau nhút. Ba vấn đề trên đã góp phần hạn chế sự phát triển của mô hình TRNMNN ở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, An Giang. 4.3. HQKT của mô hình TRNMNN ở xã thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, AG 4.3.1. Chi phí sản xuất trong mô hình TRNMNN Bảng 4.6: Chi phí trong mô hình TRNMNN của các hộ nông dân ở xã Thạnh Mỹ Tây trong năm 2005 và năm 2006 ĐVT: Triệu đồng/ha Chỉ Tiêu Thạnh Hòa Mỹ Bình Tây An BQ Của 3 Ấp 2005 2006 2005 2006 2005 2006 2005 2006 1. Chi phí chuẩn bị ban đầu 0,97 1,23 0,81 0,75 0,79 0,69 0,86 0,89 - Cọc tràm 0,66 0,17 0,56 0,52 0,50 0,46 0,57 0,38 - Dây gân 0,08 0,96 0,12 0,13 0,09 0,09 0,10 0,39 - Dây bẹ 0,23 0,10 0,13 0,10 0,20 0,14 0,19 0,11 2. Chi phí giống 6,50 4,75 5,13 4,92 4,25 4,82 5,29 4,83 - Rau nhút trắng 2,00 1,75 4,41 4,29 2,00 3,92 2,80 3,32 - Rau nhút đỏ 4,50 3,00 0,72 0,63 2,25 0,90 2,49 1,51 3. Chi phí phân, thuốc BVTV 1,88 2,52 3,86 3,94 7,62 8,09 4,45 4,85 4. Chi phí trang thiết bị 1,38 1,38 0,97 0,97 0,58 0,58 0,98 0,98 5. Chi phí vốn vay 0,00 0,00 0,61 0,00 0,00 0,00 0,20 0,00 - Vốn vay 0,00 0,00 0,59 0,00 0,00 0,00 0,20 0,00 - Lãi vay 0,00 0,00 0,02 0,00 0,00 0,00 0,01 0,00 6. Chi phí lao động 2,62 2,63 2,15 2,41 2,87 4,04 2,55 3,03 - Lao động gia đình 1,82 1,89 1,31 1,41 1,58 2,16 1,57 1,82 - Lao động thuê 0,80 0,74 0,84 1,00 1,29 1,88 0,98 1,21 7. Chi phí thuê đất 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 Tổng chi phí (*) 11,53 10,62 12,22 11,58 14,53 16,06 12,76 12,76 Tổng chi phí (**) 15,85 15,01 16,03 15,49 18,61 20,72 16,83 17,07 Nguồn tin: Điều tra và tính toán tổng hợp (*) Chưa tính chi phí lao động gia đình và chi phí thuê đất (**) Tính cả chi phí lao động gia đình và chi phí thuê đất Về tổng chi phí chưa tính công lao động gia đình và chi phí thuê đất, bình quân của 3 ấp không có sự thay đổi. Trong đó, ấp Tây An có tổng chi phí cao nhất trong cả 2 năm và ấp có tổng chi phí/ha/vụ thấp nhất trong cả 2 năm là ấp Thạnh Hòa. Nguyên nhân là do ấp Tây An có chi phí phân, thuốc BVTV cao hơn rất nhiều so với 2 ấp nghiên cứu còn lại. Cụ thể là năm 2005 ấp Tây An có chi phân, thuốc BVTV cao gấp 4 lần chi phí phân, thuốc BVTV của ấp Thạnh Hòa và cao gấp đôi ấp Mỹ Bình. Tổng chi phí khi tính cả công lao động gia đình và chi phí thuê đất thì tổng chi phí/ha/vụ bình quân của 3 ấp đã tăng lên 31,90% trong năm 2005 và năm 2006 tăng 33,86% so với tổng chi phí chưa tính công lao động gia đình và chi phí thuê đất, đây là một khoảng chênh lệch tương đối lớn. Vì vậy, công lao động gia đình và việc tận dụng diện tích đất trồng lúa của gia đình để trồng rau nhút vào mùa nước nổi đã góp phần mang lại thêm một phần lợi nhuận không nhỏ cho người dân. Trong 7 loại chi phí trong bảng trên thì chi phí thấp nhất là chi phí vốn vay, tính bình quân của 3 ấp nghiên cứu chỉ có 0,20 triệu đồng/ha trong năm 2005 và năm 2006 chi phí này bằng 0. Điều đặc biệt là loại chi phí này chỉ có ở ấp Mỹ Bình, nguyên nhân là do: - Ở ấp này có khu dân cư và trong khu dân cư này có một số hộ gặp khó khăn về kinh tế nên các hộ này phải vay tiền để trang trải chi phí đầu tư cho việc canh tác. - Chi phí đầu tư cho mô hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích hiệu quả kinh tế của mô hình trồng rau nhút mùa nước nổi ở thạnh mỹ tây - châu phú - an giang.doc
Tài liệu liên quan