MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu đồ
Danh mục các chữ viết tắt
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 1
1.1 Lý do chọn chuyên đề: 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu: 1
1.3 Phạm vi nghiên cứu: 1
1.4 Phương pháp nghiên cứu: 1
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU AN GIANG (ANGIMEX) 3
2.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của công ty: 3
2.2 Cơ cấu tổ chức của công ty: 3
2.3 Nhiệm vụ, chức năng, ngành nghề kinh doanh của công ty: 5
2.3.1 Nhiệm vụ của công ty: 5
2.3.2 Chức năng của công ty: 5
2.4 Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận: 5
2.4.1 Ban giám đốc : 5
2.4.2 Phòng tổ chức - hành chánh : 5
2.4.3 Phòng kế hoạch - kinh doanh : 5
2.4.4 Phòng đầu tư - phát triển : 5
2.4.5 Phòng kế toán - tài vụ : 6
2.4.6 Phòng đầu tư phát triển thị trường: 6
2.4.7 Chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh: 6
2.4.8 Chi nhánh Cần Thơ : 6
2.4.9 Nhà máy Châu Ðốc và các xí nghiệp : 6
2.4.10 Cửa hàng thương mại số 1 , 2 và 4 : 6
2.4.11 Cửa hàng Honda Long xuyên - Châu Ðốc : 6
2.4.12 Tổ đại lý : 6
2.5 Tình hình kinh doanh của công ty: 6
2.6 Phương hướng hoạt động năm 2007: 7
2.6.1 Các chỉ tiêu kinh doanh: 7
2.6.2 Các giải pháp: 7
2.6.3 Chiến lược, định hướng kinh doanh: 8
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH RỦI RO TRONG XUẤT KHẨU GẠO CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU AN GIANG, 9
3.1 Rủi ro nguồn nguyên liệu: 9
3.2 Rủi ro thanh toán: 16
3.3 Rủi ro nghiệp vụ xuất nhập khẩu: 22
3.3.1 Nghiệp vụ thuê tàu: 22
3.3.2 Nghiệp vụ mua bảo hiểm: 22
3.3.3 Điều kiện mua bán: 23
3.4 Rủi ro tài chính: 23
3.4.1 Các khoản phải thu: 23
3.4.2 Khả năng thanh toán: 24
3.4.3 Hàng tồn kho: 26
3.4.4 Hiệu quả sử dụng vốn: 27
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 31
4.1 Kết luận: 31
4.2 Kiến nghị: 31
35 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3735 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích rủi ro trong xuất khẩu gạo của công ty xuất nhập khẩu An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Nam tăng và đứng ở mức cao.
Bảng 3.4: Cung cầu gạo thế giới (Triệu tấn) 2004/2005
Quốc gia
Cung
Sử dụng
TKĐK
Sản xuất
Nhập khẩu
Tiêu dùng trong nước
Xuất khẩu
TKCK
Thế giới
86,15
402,07
25,07
415,35
27,4
72,88
Mỹ
0,76
7,4
0,42
3,84
3,54
1,21
Tổng cộng nước ngoài
85,39
394,67
25,28
411,51
23,86
71,67
Các nhà XK chính
16,90
130,03
0,30
113,84
19,15
14,24
India
10,80
85,31
0,00
83,11
4,50
8,50
Pakistan
0,24
5,02
0,00
2,75
2,30
0,21
Thailand
1,71
17,07
0,00
9,48
7,25
2,05
Vietnam
4,15
22,63
0,30
18,50
5,10
3,48
Các nhà NK chính
12,55
59,60
9,26
68,67
0,54
12,20
Brazil
1,34
8,98
0,55
9,00
0,30
1,57
EU-25
0,97
1,86
1,00
2,53
0,18
1,13
Indonesia
4,02
34,25
0,50
35,85
0,00
2,92
Nigeria
1,00
2,30
1,37
4,25
0,00
0,42
Philippines
4,05
9,44
1,50
10,40
0,00
4,59
Một số nước Trung Đông
0,99
2,27
3,25
5,07
0,06
1,38
Năm 2005: cũng giống như năm 2004 sản lượng lương thực năm 2005 của toàn thế giới là 402,07 triệu tấn trong khi nhu cầu lên đến 415,35 triệu tấn, nguồn cung không đủ khiến cho nhu cầu tiêu thụ tăng cao tác động đến giá xuất khẩu. Tính riêng Việt Nam, năm 2005 sản xuất được 22,63 triệu tấn gạo (tăng so với năm trước khoảng gần 2 triệu tấn) nhu cầu tiêu dùng là 18,5 triệu tấn như vậy Việt Nam chỉ còn khoảng 4,13 triệu tấn dành cho xuất khẩu nhưng trong năm đã xuất đến 5,2 triệu tấn mang về khoảng 1,279 tỷ USD (trị giá FOB), so cùng kỳ năm 2004 tăng 28% về số lượng và 49% về trị giá (sử dụng luôn cả dự trữ để xuất do xuất được giá trung bình giá xuất khẩu gạo năm 2005 là 253 USD/tấn tham khảo từ bảng 4 ) điều này đã đẩy giá thu mua nguyên liệu lên cao, bên cạnh đó cũng còn một số nguyên nhân như:
Một là: Theo báo cáo của của tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO), sản lượng thóc thế giới năm 2005 đạt khoảng 614 triệu tấn, tương đương với 409,3 triệu tấn gạo tăng 1,5% so với năm 2004. Nhu cầu tiêu thụ gạo thế giới năm 2005 khoảng 413 triệu tấn, cao hơn nguồn cung 3,7 triệu tấn. Tồn kho gạo cuối năm 2005 dự đoán sẽ tiếp tục giảm 4,2%, sau khi đã giảm khoảng 23% so với cuối năm trước. Cũng theo tổ chức này dự đoán xuất khẩu gạo thế giới năm 2005 chỉ đạt 25,5 triệu tấn giảm 2,8% so với năm trước. Trong đó xuất khẩu gạo năm 2005 dự đoán sẽ giảm chủ yếu ở Thái Lan do sản lượng thóc của Thái Lan giảm và việc áp dụng chính sách giá thóc gạo nội địa cao làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Thái Lan. Giá gạo của Thái Lan tăng do nhu cầu mua gạo của Thi Lan tiếp tục tăng lên ở Nigeria, Nam Phi, Yemen, mặt khác đồng Baht tăng giá.
Hai là: Do hạn hán tiếp tục kéo dài, đặc biệt là sự trở lại của hiện tượng EL NINO càng làm cho hạn hán thêm nghiêm trọng tại nhiều nước Châu Á, khu vực chiếm 75% lượng gạo xuất khẩu hàng năm trên thị trường thế giới.
Ba là: Do ảnh hưởng của trận động đất sóng thần xảy ra cuối năm 2004 tại một số nước Nam á và Đông Nam á càng làm cho nhu cầu nhập khẩu gạo tăng mạnh như Philippin, Indonesia, Bangladesh và châu Phi, các nước Trung Mỹ…
Bốn là: Giá gạo Việt Nam hiện đang thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan, cùng với nhu cầu của khách nước ngoài nhập khẩu gạo Việt Nam tăng mạnh, khách hàng chính là Philipines, Cu Ba, Nga, các nước châu Phi, châu Âu… Mặt khác các nhà xuất khẩu vẫn đang đẩy mạnh tìm kiếm nguồn cung để đáp ứng nhu cầu đã ký kết trong khi nguồn cung hạn chế.
Năm 2006: sản lượng lương thực năm 2006 của toàn thế giới là 415,49 triệu tấn trong khi nhu cầu chỉ cần 413,35 triệu tấn, nguồn cung vựơt cầu.Tính riêng Việt Nam, năm 2006 sản xuất được 22,00 triệu tấn gạo (giảm so với năm trước khoảng gần 0,6 triệu tấn) nhu cầu tiêu dùng là 18,25 triệu tấn như vậy Việt Nam chỉ còn khoảng 3,75 triệu tấn dành cho xuất khẩu nhưng trong năm đã xuất đến 4,8 triệu tấn (sử dụng luôn cả dự trữ để xuất do xuất được giá trung bình giá xuất khẩu gạo năm 2005 khoảng 251 USD/tấn tham khảo bảng 4) trong bối cảnh chung của thế giới là sản xuất vuợt tiêu dùng khoảng 2 triệu tấn lý ra giá phải giảm nhưng giá xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng do các nước như Indonesia, Malaysia và Nigeria có nhu cầu nhập cao hơn, trong năm đã xảy ra cơn sốt giá lúa gạo chưa từng có ở Việt Nam mà nguyên nhân là:
Thứ nhất và sâu xa là ở thời điểm đó vẫn chưa khống chế được dịch (vàng lùn và lùn xoắn lá chính là do tác động của cơn sốt giá gạo thế giới đối với hạt gạo của nước ta.Trước hết, theo các số liệu thống kê của WTO, nếu như chỉ số giá gạo thế giới năm 2003 là 62 điểm (năm gốc 1995 = 100 điểm), thì năm 2004 tăng vọt lên 77 điểm, năm 2005 lên 90 điểm, còn giữa năm nay đứng ở mức 94 điểm, Hiển nhiên, diễn biến này của thị trường gạo thế giới là cơ hội vàng khiến hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta trở thành “chiến lược” trong gần 3 năm qua. Như vậy, trong gần 3 năm qua, giá xuất khẩu lúa gạo tăng tổng cộng 45%. Nguồn lợi quá hấp dẫn đã khiến cả nông dân lẫn các chi cục bảo vệ thực vật và các cấp chính quyền địa phương bỏ ngoài tai các khuyến cáo chuyên môn về giống và nguy cơ dịch bệnh. Lịch thời vụ, giống không được tuân thủ, đất không được nghỉ làm lúa liền 3 vụ/năm, thậm chí có nơi còn cố sức làm 7 vụ trong 2 năm… Môi trường độc canh trong thời gian dài như thế chắc chắn sẽ gây ra dịch bệnh. Và dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá xảy ra ở chính ngay vựa lúa của cả nước – ĐBSCL. Năm 2006, Việt Nam có tới 10 cơn bão trong đó, cơn bão số 9 (Durian) xảy ra ngày 5/12 đã gây thiệt hại nặng nề về người và của cho các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long. Ở các tỉnh phía Bắc, năm nay không có mưa to, bão lớn, nhưng bất chợt, vào thượng tuần tháng 11/2006 có ngay mưa đá ở nhiều nơi. Thời gian mưa không dài, nhưng thiệt hại cũng không nhỏ. (trích từ bài viết trên website
Bảng 3.5 : Cung cầu gạo thế giới / (triệu tấn) 2005/2006
Quốc gia
Cung
Sử dụng
TKĐK
Sản xuất
Nhập khẩu
Tiêu dùng trong nước
Xuất khẩu
TKCK
Thế giới
78,14
415,49
26,27
413,22
27,80
80,42
Mỹ
1,21
7,11
0,54
3,81
3,69
1,37
Tổng cộng nước ngoài
76,93
408,38
25,72
409,41
24,11
79,05
Các nhà XK chính
15,18
136,79
0,40
115,52
18,80
18,04
India
8,50
91,04
0,00
85,22
3,80
10,52
Pakistan
0,20
5,55
0,00
2,56
2,90
0,30
Thailand
2,31
18,20
0,05
9,50
7,30
3,76
Vietnam
4,16
22,00
0,35
18,25
4,80
3,46
Các nhà NK chính
12,92
59,91
10,67
69,66
0,49
13,36
Brazil
1,73
7,87
0,60
8,97
0,25
0,98
EU-25
1,13
1,71
0,93
2,55
0,28
1,04
Indonesia
3,45
34,96
0,60
35,80
0,00
3,21
Nigeria
0,42
2,70
1,78
4,35
0,00
0,55
Philippines
4,57
9,82
1,90
11,00
0,00
5,29
Một số nước Trung Đông
1,46
2,38
3,76
5,39
0,06
2,14
(Nguồn: www.usda.gov)
Thứ hai, cơn sốt giá lúa gạo chưa từng có hiện nay còn do chúng ta đã xuất khẩu “quá đà”. Sản lượng lúa năm 2004 tăng tương đương với gần 1,5 triệu tấn gạo so với năm 2003, nhưng gạo xuất khẩu chỉ tăng gần 1 triệu tấn. Ấy thế mà, khi sản lượng lúa năm 2005 giảm tương đương với khoảng 240 nghìn tấn thì lượng gạo xuất khẩu lại đạt kỷ lục trên 5 triệu tấn! Rõ ràng việc tăng này là do chúng ta đã “vét kho” để đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện rất được giá như đã nói ở trên. Trong khi đó, tổng sản lượng lúa của miền Bắc chỉ tăng được 800 nghìn tấn, còn ĐBSCL lại giảm xấp xỉ 1 triệu tấn, mà lượng gạo xuất khẩu thì vẫn cứ tăng đến 1 triệu tấn so với cả 4 năm trước đó (2001-2004), cho nên rất có thể chúng ta đã lại một lần nữa “vét kho” để xuất khẩu! Cộng với tác nhân dịch bệnh dai dẳng trong nhiều tháng qua, hành động này tạo nên cơn sốt chưa từng có ở ngay trong ruột vựa lúa lớn nhất nước. Triển vọng giá gạo thế giới vẫn tiếp tục nóng cũng là một phần nguyên nhân gây ra đầu cơ lúa gạo ở thị trường trong nước. (trích từ bài viết trên website
Nguyên nhân đẩy giá nguyên liệu lên cao đã rõ, vấn đề cần được làm rõ là công ty Angimex mua từ những nguồn nào và có ảnh hưởng gì đến công ty?
Bảng 3.6 : Số lượng thu mua của công ty so với sản lượng lúa toàn tỉnh và ĐBSCL
Sản lượng
2004
2005
2006
ĐBSCL (triệu tấn)
18,500
19,100
18,750
An Giang (triệu tấn)
3,000
3,100
2,900
Công ty mua (triệu tấn)
0,207
0,248
0,248
So với An Giang (%)
6,9%
8,00%
8,55%
So với ĐBSCL (%)
1,12%
1,30%
1,32%
Như đã nói ở trên, công ty thoã thuận giá cả với các thương lái và nông dân theo thuận mua vừa bán không qua hợp đồng, công ty thu mua từ nhiều nơi: trong tỉnh cũng có, ngoài tỉnh cũng có miễn sao giá cả hợp lý. Từ năm 2004 đến năm 2006 công ty chỉ mua ở tỷ lệ rất nhỏ so với sản lượng của toàn tỉnh (chiếm tối đa là 8,55 % sản lượng của tỉnh) và cao nhất cũng chỉ chiếm1,32% trên tổng sản lượng của ĐBSCL. Với ưu thế nằm trong vựa lúa lớn nhất cả nước rõ ràng công ty không phải lo lắng về nguồn cung cấp đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Qua phân tích thị trường lúa gạo 3 năm ta nhận thấy giá cả nguồn nguyên liệu đầu vào tăng đồng thời giá cả đầu ra cũng tăng nhưng sự tăng giá của đầu ra làm thặng dư cho nhà xuất khẩu chẳng những bù đắp sự chênh lệch ở giá đầu vào mà còn đem lại khoản lợi nhuận lớn. Ba năm vừa qua với kim ngạch tăng đều từ 55.190 triệu USD năm 2004 lên 70.409 triệu USD năm 2005 và 77.529 triệu USD năm 2006 công ty xuất nhập khẩu An Giang vẫn giữ vững tỷ lệ khoảng 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, ngày càng khẳng định mình là một trong những đơn vị xuất khẩu gạo hàng đầu của tỉnh. Tuy nhiên, trong điều kiện giá nguyên liệu tăng như thế này, nếu như giá xuất khẩu giảm hoặc hiệp hội quản lý giá xuất hoặc cả hai cùng xảy ra thì công ty sẽ gặp khó khăn do vậy công ty nên tính toán cho mình một hướng đi mang tính bền vững.
Rủi ro thanh toán:
Trong hoạt động ngoại thương có rất nhiều hình thức thanh toán chẳng hạn như phương thức T/T, CAD, TTR, L/C… Mỗi phương thức thanh toán đều có ưu nhược điểm của riêng nó, việc sử dụng phương thức nào phụ thuộc các yếu tố:
Quan hệ thương mại thường xuyên hay không thường xuyên.
Sự tín nhiệm lẫn nhau .
Quy mô của hợp đồng thương mại hay dịch vụ.
Khả năng cung ứng hàng hoá của người bán và khả năng tài chính của người mua,
Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia.
Xuất phát từ đặc điểm của mình công ty Angimex đã lựa chọn các phương thức L/C, D/P, TTR và CAD làm phương thức thanh toán.
Vì sao công ty Angimex lại chọn những phương thức này?
Thứ nhất xét về đặc điểm của các phương thức này:
L/C: phương thức thông dụng nhất hiện nay và được xem là an toàn cho các bên giao dịch do nó được đảm bảo bởi các ngân hàng đồng thời được thực hiện, giải quyết trong khuôn khổ “quy tắc về tập quán và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ” (UCP 500), “quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo tín dụng chứng từ của ICC và “tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong thanh toán tín dụng chứng từ” (ISBP số 645 của ICC năm 2003), Thêm vào đó L/C có thể chỉnh sửa, bổ sung từ bất kì bên nào (có thể là người mở, người hưởng lợi) nếu có sự đồng ý về phía ngân hàng.
T/T: phương thức chuyển tiền rẻ nhất, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Đối với hình thức này thì người nhận được tiền ít bị ảnh hưởng của tỷ giá, Được áp dụng trong thanh toán các khoản tiền tương đối nhỏ. Sự an toàn cho người xuất khẩu là không chắc chắn do việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người nhập khẩu và ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện việc thanh toán theo uỷ nhiệm để hưởng một khoản phí mà không bị ràng buộc nào cả.
CAD: phương thức có lợi cho nhà xuất khẩu vì họ chắc chắn thu được tiền hàng nhanh chóng, thủ tục đơn giản không phức tạp như thanh toán tín dụng chứng từ, áp dụng trong trường hợp người mua và người bán có quan hệ tốt và tin tưởng lẫn nhau.
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ: phương thức mà nhà xuất khẩu sau khi cung cấp hàng hoá hay dịch vụ thì lập bộ chứng từ và hối phiếu nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ với điều kiện ngân hàng này thay mặt nhà xuất khẩu khống chế bộ chứng từ, chỉ khi nào người mua đồng ý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hối phíêu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để làm cơ sở nhận hàng.
Thứ hai, rủi ro của các phương thức:
Trong thanh toán TTR/ DP : khách hàng trì hoãn thanh toán, trong khi hàng hóa đã đóng hàng xong vào container hoặc đã xếp lên tàu, hoặc hàng hóa đang trên đường vận chuyển sang nước ngoài, hoặc đã đến cảng dỡ.
D/P, D/A, T/T trước 1 phần, CAD đều có mức độ rủi ro nhất định đối với người bán hàng. Những rủi ro đó là người mua nhận hàng mà không trả tiền (D/A), người mua không nhận hàng và không trả tiền (D/P, CAD, T/T trước 1 phần). Trong cả hai trường hợp này, người bán bị mất hàng hoặc phải tốn phí để xử lý hàng của mình (thường những phí này rất lớn).
Trường hợp thanh toán bằng L/C: ngân hàng mở L/C cố tình vạch lá tìm sâu để từ chối thanh toán trong trường hợp người mua có vấn đề về tài chánh; bộ chứng từ bị phát hiện có bất hợp lệ (do những sai sót trong quá trình thiết lập chứng từ) và bị ngân hàng từ chối thanh toán, người mua lẩn tránh trách nhiệm; trường hợp hàng đã xếp xong mà L/C chưa hoàn chỉnh (do những thay đổi trong quá trình giao hàng, người mua hứa sẽ tu chỉnh L/C) nhưng không được tu chỉnh hợp lệ; ngân hàng mở L/C không có uy tín; ngân hàng mở L/C phá sản…..; nước nhập hàng bị cấm vận.
Do biến động của thị trường mà điển hình là khi giá giảm, khách hàng có thể tìm cách thoái thác để không phải nhận hàng gây ra rủi ro chậm hoặc trì hoãn hoặc không thanh toán (thí dụ nêu bất hợp lệ trong chứng từ để không thanh toán, khiếu nại hàng không đúng chất lượng để yêu cầu giảm giá,…)
Thứ ba, công ty Angimex đã hơn 30 năm hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo với số lượng bạn hàng lớn (ước trên 40 khách hàng) và mỗi khách hàng lại có những đặc trưng khác nhau do vậy trên thực tiễn giao dịch, các phương thức được áp dụng như sau:
Phương thức T/T: Dành cho khách hàng quen với số lượng không nhiều dao động từ 250 tấn đến 500 tấn tương đương từ 10 đến 20 container. Sau khi ký hợp đồng khách hàng sẽ trả 10% - 30% giá trị hợp đồng, phần còn lại sẽ thanh toán theo 2 cách: thanh toán trước khi đóng hàng vào container hoặc là thanh toán khi hàng cập cảng đến (ở kho ngoại quan), trường hợp này công ty sẽ giữ lại bộ chứng từ gốc và phát lệnh yêu cầu chủ tàu giao hàng cho khách hàng mà không cần chứng từ. Những khách hàng uy tín giao dịch với số lượng khoảng 2000 tấn chỉ phải trả trước 10% giá trị hợp đồng, phần còn lại khách hàng sẽ chuyển tiền và công ty chuyển bộ chứng từ (công đoạn này tiến hành song song với nhau).
Kết hợp phương thức T/T và D/P hoặc CAD: cũng giống như phương thức T/T nhưng chỉ khác nhau ở cách thanh toán phần còn lại thay vì khách hàng sẽ chuyển tiền cho công ty thì công ty sẽ chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng nhờ thu hộ. Phương thức này áp dụng cho những khách hàng mà công ty đánh giá là chưa uy tín.
Phương thức L/C: áp dụng cho các tập đoàn hoặc những hợp đồng có giá trị lớn từ vài trăm ngàn USD trở lên. Thời gian mở L/C có hai hướng: (1) mở L/C sau 3 ngày kể từ khi ký hợp đồng, (2) mở L/C trước khi tàu đến khoảng 15 ngày. Trong quá trình thương lượng hợp đồng với khách hàng về hình thức thanh toán sau khi ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu chấp nhận bộ chứng từ nếu công ty thỏa thuận với khách hàng chấp nhận thanh toán khi nhận được điện báo thì sẽ thu ngắn thời gian quay vòng của vốn chịu chi phí lãi vay ít hơn (do công ty hàng năm vay nợ ngắn hạn từ ngân hàng rất lớn) so với cách thanh toán thông thường nghĩa là nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ của mình sau khi kiểm tra ngân hàng sẽ chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu, nơi đây bộ chứng từ sẽ được kiểm tra lần nữa rồi mới thanh toán
Theo thống kê từ phòng kinh doanh tỷ lệ các phương thức thanh toán theo giá trị thanh toán hàng năm không có sự thay đổi lớn cụ thể: L/C dao động quanh tỷ lệ 40%, T/T dao động quanh tỷ lệ 35%, D/A dao động quanh tỷ lệ 20%, và D/P dao động quanh tỷ lệ 5%.
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ các phương thức thanh toán theo giá trị thanh toán.
(Nguồn số liệu thống kê từ phòng kinh doanh công ty Angimex)
Qua biểu đồ và những phân tích trên ta nhận thấy: mỗi phương thức đều có rủi ro bên cạnh những ích lợi của riêng nó, điều cần làm là chọn cho mình những điều kiện áp dụng thích hợp nhất. Công ty Angimex đã thực hiện như thế, với phương châm hoạt động kinh doanh an toàn, công ty đã thiết lập những điều kiện phù hợp nhất cho mỗi phương thức chẳng hạn như:
T/T: chỉ dành cho những khách hàng nhỏ, uy tín ; do phương thức này chiếm 35% khối lượng giao dịch, có rủi ro là phần giá trị còn lại chiếm khoảng 70 – 90% tổng giá trị, khách hàng trì hoãn thanh toán, trong khi hàng hóa đã đóng hàng xong vào container hoặc đã xếp lên tàu, hoặc hàng hóa đang trên đường vận chuyển sang nước ngoài, hoặc đã đến cảng dỡ, nếu khách hàng không thanh toán đúng hạn công ty sẽ bị chiếm dụng vốn không nhỏ.
L/C chiếm 40% khối lượng giao dịch dành cho những hợp đồng giá trị lớn thường là các tập đoàn; rủi ro lớn nhất ở phương thức này là bộ chứng từ thanh toán, thông thường các xảy ra các trường hợp như: bộ chứng từ không thõa mãn với một hoặc một vài điều kiện quy định trong L/C; sai sót về từ ngữ, con số…
Qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu công ty đã luôn cẩn trọng xây dựng cho mình quy trình làm việc rất chuyên nghiệp trong lựa chọn khách hàng, nhà cung ứng… cho nên công ty rất ít gặp phải những rủi ro loại này. Song song đó công ty có mối quan hệ tốt với các ngân hàng nên việc thương thảo giải quyết những vấn đề liên quan đến thủ tục thanh toán cũng thuận lợi hơn.
Bên cạnh phương thức thanh toán thì đồng tiền thanh toán cũng không kém quan trọng trong quan hệ ngoại thương bởi vì mỗi loại đồng tiền nó sẽ đi kèm với tỷ giá mà tỷ giá lại có sự thay đổi khác nhau tùy theo tình hình thế giới và chính sách của chính phủ đây hàm chứa rủi ro cho nhà xuất khẩu lẫn nhà nhập khẩu. Rủi ro ở đây tính riêng cho nhà xuất khẩu là làm lượng tiền kỳ vọng của mình thấp hơn mong đợi kéo theo giảm lợi nhuận cho nên việc lựa chọn đồng tiền thanh toán như thế nào là hết sức quan trọng. Đối với Angimex, công ty chỉ lựa chọn duy nhất đồng tiền USD cho mọi giao dịch với khách hàng xuất khẩu và lý do chủ yếu của quyết định này không gì khác hơn là: đồng tiền USD được giao dịch rộng rãi, dễ thanh toán, tập trung đối phó với rủi ro tỷ giá USD/VND, đây là hướng đi phù hợp trong bối cảnh thị trường hiện nay.
Xét tình hình biến động tỷ giá USD/VND trong 3 năm từ 2004 đến 2006 :
Qua đồ thị thống kê tỷ giá ta thấy tỷ giá luôn có sự biến động, có lúc đồng USD tăng rất mạnh chẳng hạn vào thời điểm tháng 2 năm 2004, 1 USD = 15860 VND tăng 218 so với tháng 1 (USD/VND = 15641) đến tháng 3 năm 2004 lại giảm 111. Đến tháng 4 năm 2005 tăng đột biến 108 từ 15812 (tháng 3 năm 2005) lên 15921. Đến tháng 4 năm 2006 tỷ giá hối đoái ghi nhận thêm một biến động mới tăng 120 từ 15874 lên 15995. Nhìn chung tỷ giá có tăng có giảm nhưng hiện rõ nhất chính là xu hướng tăng giá của USD đồng nghĩa với VND giảm giá, xu hướng này hoàn toàn có lợi cho các đơn vị xuất khẩu trong đó có Angimex. Hơn nữa, quy trình của công ty là mua nguyên liệu – sản xuất – giao hàng trong công đoạn mua nguyên liệu công ty cần rất nhiều vốn nhất là thời điểm nông dân thu hoạch các vụ lúa, vay ngân hàng là giải pháp công ty thựchiện ở những thời điểm đó. Thế nhưng trong khoản vay ngắn hạn của mình, công ty Angimex luôn có những khoản vay ngắn hạn bằng ngoại tệ khá lớn. Cũng xin nói thêm lý do vì sao công ty lại như vậy:
Biểu đồ 3.4 : Tỷ giá USD/VND từ 2004 đến 2006
(Nguồn: tự tổng hợp từ số liệu của địa chỉ
Bảng 3.7 : Các khoản vay bằng ngoại tệ
(ĐVT: triệu đồng)
Khoản mục
2004
2005
2006
Tổng vay
vay bằng ngoại tệ
Tổng vay
vay bằng ngoại tệ
Tổng vay
vay bằng ngoại tệ
Tháng 1
140.745
29.605
166.964
71.369
87.873
32.258
Tháng 2
241.645
8.351
177.580
77.496
111.215
58.718
Tháng 3
270.532
21.271
292.838
94.571
281.759
143.405
Tháng 4
117.594
85.199
259.949
140.194
118.334
71.256
Tháng 5
117.538
831
172.672
105.168
199.247
53.595
Tháng 6
103.809
66.848
107.304
46.028
77.357
196
Tháng 7
135.761
51.988
289.145
107.978
200.640
134.054
Tháng 8
48.738
15.083
266.573
148.536
179.834
62.310
Tháng 9
137.106
61.909
251.666
149.257
131.983
91.766
Tháng 10
132.703
21.346
99.370
39.105
47.847
11.953
Tháng 11
167.753
80.777
45.004
0
25.101
155
Tháng 12
100.758
65.548
32.869
0
17.663
0
Tổng
1.714.682
508.756
2.161.934
979.702
1.478.853
659.666
Tỷ lệ
29,67%
45,32%
44,61%
(Nguồn: số liệu phòng kế toán công ty Angimex)
Chúng ta biết rằng, vay trong nước bị hạn chế bởi hạn mức tín dụng và thủ tục rườm rà, hơn thế nữa lãi suất đồng VND cao hơn đồng USD điều đó không có lợi cho những nhà đầu tư cần vay tiền khi mà đồng USD lên giá.
Ngược lại vay ngân hàng nước ngoài có thể vay theo hợp đồng (vay theo nguồn thu của mình), lãi suất đồng USD thấp hơn lãi suất đồng VND .
Như vậy nếu theo dõi tình hình bíên động tỷ giá và dự kiến tỷ giá thì chúng ta hoàn toàn có thể cân nhắc nên vay đồng nào có lợi. Đó cũng là lý do Angimex có những khoản vay bằng ngoại tệ.
Theo bảng thống kê thì tỷ lệ vay bằng ngoại tệ trong tổng nợ vay của công ty đang có xu hướng tăng, năm 2004 là 29,67%, năm 2005 là 45,32% và năm 2006 là 44,61%. Tỷ lệ này là khá cao, nếu công ty không có khoản thu bằng ngoại tệ cũng như không nắm bắt biến động tỷ giá thì công ty sẽ phải chi nhiều hơn trong thanh toán lãi và vốn gốc.
Để làm sáng tỏ hơn vấn đề này chúng ta so sánh doanh thu xuất khẩu với vay ngoại tệ, có 3 khả năng xảy ra:
Trường hợp 1: Doanh thu XK < vay ngoại tệ: lượng ngoại tệ thu về không cân bằng với các khoản vay chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá cao.
Trường hợp 2: Doanh thu XK = vay ngoại tệ: lượng ngoại tệ thu về cân bằng với các khoản vay ngoại tệ.
Trường hợp 3: Doanh thu XK > vay ngoại tệ: lượng ngoại tệ thu về lớn hơn các khoản vay ngoại tệ.
Bảng 3.8 : Doanh thu xuất khẩu hàng tháng so với vay ngoại tệ
ĐVT: triệu đồng
Khoản mục
2004
2005
2006
Doanh thuXK
vay ngoại tệ
Doanh thuXK
vay ngoại tệ
Doanh thuXK
vay ngoại tệ
Tháng 1
14.487
29.605
25.307
71.369
52.594
32.258
Tháng 2
71.085
8.351
65.161
77.496
59.181
58.718
Tháng 3
141.146
21.271
107.540
94.571
134.304
143.405
Tháng 4
95.266
85.199
121.293
140.194
69.001
71.256
Tháng 5
139.726
831
167.777
105.168
105.496
53.595
Tháng 6
80.440
66.848
70.769
46.028
88.965
196
Tháng 7
66.550
51.988
167.913
107.978
88.570
134.054
Tháng 8
48.316
15.083
90.047
148.536
117.568
62.310
Tháng 9
7.817
61.909
177.015
149.257
125.607
91.766
Tháng 10
46.306
21.346
72.535
39.105
62.571
11.953
Tháng 11
79.704
80.777
67.391
0
46.480
155
Tháng 12
78.461
65.548
14.201
0
20.724
0
Tổng
869.304
508.756
1.146.949
979.702
971.061
659.666
(Nguồn số liệu phòng kế toán công ty Angimex)
Công ty xuất nhập khẩu An Giang chưa từng rơi vào trường hợp 1 và 2 do hoạt động chính của công ty là xuất khẩu gạo đây là lĩnh vực mang về nhiều lợi nhuận nhất nếu doanh thu XK nhỏ hơn hoặc bằng vay ngoại tệ thì công ty sẽ phá sản. Thực tế từ doanh thu xuất khẩu hàng tháng qua các năm công ty luôn có đủ nguồn ngoại tệ để trang trải cho các khoản vay của mình, tổng doanh thu năm 2004 là 869.304 triệu đồng cao hơn nhiều so với 508.756 triệu đồng năm 2004, năm 2005 là 1.146.949 triệu đồng so với 979.702 triệu đồng và năm 2006 là 971.061 triệu đồng so với 659.666 triệu đồng. Bởi vậy, rủi ro này công ty hoàn toàn kiểm soát được, một mặt công ty tận dụng những lợi thế của vay ngoại tệ mặt khác phải đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ của khách hàng.
Tóm lại, sự biến động của tỷ giá USD/VND ít gây ảnh hưởng cho công ty xuất nhập khẩu An Giang. Có thể nói công ty đã chủ động trong vấn đề rủi ro tỷ giá thông qua các chương trình:
Chương trình biểu đồ tỷ giá: lưu trữ tỷ giá tiền tệ của 4 nước Thái Lan, Philipin, Inđônêxia và Việt Nam so với đồng USD. Vẽ biểu đồ tỷ giá theo tháng, quý, năm, so sánh số liệu cùng kỳ.
Chương trình hiệu quả USD: vẽ biểu đồ biến động của 2 loại ngoại tệ USD, EUR so sánh cùng kỳ. Tính hiệu quả vay USD hay vay VND.
Chính hai chương trình này làm cơ sở cho BGĐ đề ra những phương hướng, chiến lược phù hợp từ đó công ty đã thành công. Bên cạnh đó công ty cũng nên lưu ý rằng: đồng VND đang trên đà giảm giá nhưng không biết chắc rằng sự giảm giá này sẽ kéo dài trong bao lâu, nếu một lúc nào đó nó tăng giá trở lại hẳn là công ty cũng gặp khó không ít vì thế công ty có những bước chuẩn bị chẳng hạn như tăng nhập khẩu nhằm cân đối lượng cung cầu ngoại tệ.
Rủi ro nghiệp vụ xuất nhập khẩu:
3.3.1 Nghiệp vụ thuê tàu:
Trong xuất nhập khẩu nghiệp vụ thuê tàu gắn liền với phương thức giao nhận, có những phương thức tàu do bên xuất khẩu chuẩn bị cũng có những phương thức tàu do bên nhập khẩu chuẩn bị. Công ty Angimex chỉ xuất khẩu theo điều kiện FOB và CIF, như vậy rủi ro mà công ty có thể gặp phải là:
Xuất FOB: Tàu do bên NK chuẩn bị, có thể phía nhà XK sẽ bị động về thời gian giao hàng, giao hàng trễ hạn, hàng đã đóng gói rồi nhưng chưa có tàu phải ch