Khóa luận Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua

LỜI NÓI ĐẦU 3

CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG 6

1. GIỚI THIỆU VỀ KIM LOẠI VÀNG 6

1.1 Giới thiệu về kim loại vàng 6

1.2 Ứng dụng của vàng. 7

2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ 10

2.1 Vàng với vai trò là một loại tiền tệ 10

2.1.1 Các tính chất để vàng trở thành phương tiện lưu thông tiền tệ 10

2.1.2 các tính chất của vàng để làm một loại tiền tệ 11

2.2 Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ. 11

2.2.1 Chế độ đồng bản vị (hai bản vị vàng – bạc) 11

2.2.1.1 Chế độ bản vị song song 12

2.2.1.2 Chế độ bản vị kép 13

2.2.1 Chế độ bản vị vàng 15

2.2.2.1. chế độ bản vị tiền vàng 15

2.2.2.2 chế độ bản vị vàng thỏi 16

2.2.2.3 Chế độ bản vị hối đoái vàng 17

2.2.3 Chế độ lưu thông tiền giấy 19

3. GIÁ VÀNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG GIÁ VÀNG 24

3.1 Mức cung về Vàng 24

3.1.1. xu hướng chung của mức cung 24

3.1.2. Mức khai thác hầm mỏ của các nước có sản lượng lớn 24

3.1.3. Những giao dịch của các nước có dự trữ chủ lực và các cơ quan quốc tế. 26

3.2 Mức cầu về vàng 27

3.2.1 Mức cầu của khu vực kim hoàn 28

3.2.2 Mức cầu của các ngành công nghiệp sử dụng vàng 29

3.2.3 Mức cầu dự trữ của các ngân hàng quốc gia 30

3.2.4 Mức cầu về đầu tư và đầu cơ 30

3.2.5 Tình hình đầu tư và đầu cơ vàng ở các nước 31

3.3 Tổng hợp các yếu tố cơ bản của giá vàng 33

3.4 Một số yếu tố tác động đến giá vàng thế giới 34

3.4.1 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá dollar Mỹ. 34

3.4.2 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá dầu thô. 35

3.4.3 Mối quan hệ giữa giá vàng và giá cả của các hàng hóa khác 37

3.4.4 Ảnh hưởng do các chính sách của Nhà nước đối với vàng. 38

CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA GIÁ VÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 43

1. Diễn biến giá vàng Việt Nam trong thời gian qua 43

2. Nguyên nhân biến động giá vàng Việt Nam trong thời gian qua 46

2.1. Do ảnh hưởng của giá vàng thế giới 46

2.1.1 Biến động của giá vàng thế giới 46

2.2.2 Nguyên nhân biến động của giá vàng thế giới 49

2.2.2.1 Mất giá và xu hướng tiếp tục mất giá của đồng USD 49

2.2.2.2 Hành động cắt giảm lãi suất của FED 61

2.2.2.3 Giá dầu tăng cao 64

2.2 Do sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam 68

2.3 Do lạm phát 72

3. Tác động của sự biến động giá vàng đối với Việt Nam 74

3.1 Thị trường ngoại tệ 75

3.2 Thị trường bất động sản 75

3.3 Thị trường chứng khoán 76

3.4 Việc huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng 76

3.5 Hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế 77

CHƯƠNG III. DỰ BÁO GIÁ VÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM 80

1. Dự báo giá vàng trong thời gian tới 80

1.1 cơ sở dự báo 80

1.1.1 Tình hình thế giới 80

1.1.1.1. Triển vọng kinh tế Mỹ 80

1.1.1.2 Xu hướng đồng USD 81

1.1.1.3 Quan hệ cung cầu về vàng 82

1.1.1.4 Giá dầu thế giới 82

1.1.2 Tình hình trong nước 84

1.1.2.1 Kế hoạch xây dựng một sàn giao dịch vàng quốc gia 84

1.1.2.2 Thuế xuất nhập khẩu vàng – kho ngoại quan vàng 86

1.1.2.3 Lạm phát 87

1.2 Dự báo giá vàng VN trong trung và dài hạn 88

2. Một số biện pháp phát triển thị trường vàng Việt Nam 90

2.1 Kiềm chế lạm phát 90

2.2 Phát huy hiệu quả của kho ngoại quan vàng 91

2.3 Phát triển kế hoạch xây dựng sàn giao dịch vàng quốc gia 92

2.4 Phát triển thị trường chứng khoán và bất động sản. 93

2.5 Quản lý việc kinh doanh bất hợp pháp vàng qua mạng. 94

KẾT LUẬN 96

 

 

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2618 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dạng nào khác ngoài nữ trang, đồ mỹ nghệ và Nhà nước nắm giữ độ quyền ngoại thương về vàng. Hậu quả của chính sách này đều giống nhau ở khắp mọi nơi: mức cung không đủ cho mức cầu về vàng của tư nhân, mức chênh lệch giữa giá vàng nội địa và giá vàng thế giới đủ sức hấp dẫn cho các hoạt động buôn lậu phát triển. Vì thế, hiện nay các nước dù không còn sử dụng các biện pháp cứng rắn nhưng cũng đều đặt vàng trong tầm kiểm soát của Nhà nước với những mức độ quản lý khác nhau phù hợp với điều kiện kinh tế và quan điểm của chính quyền. Nhìn chung, đa số các nước đều chọn giải pháp cho tư nhân tự do cất trữ và kinh doanh vàng, nhưng không được xuất nhập khẩu vàng, đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm soát hối đoái. Khi đó, một sự thay đổi nào trong các biện pháp cụ thể này đều có thể ảnh hưởng kéo theo sự thay đổi giá vàng trong nước. Một khi vàng đã trở về vị trí là một loại hàng hóa, việc kinh doanh vàng đều phải chịu thuế như kinh doanh những hàng hóa khác. Chính sách thuế ở một số nước cho thấy mức thuế suất trên các giao dịch về vàng cũng khác biệt nhau. Có những nước không danh cho kinh doanh vàng một sự ưu đãi về thuế như Ý: 35%, Tây Ban Nha: 30%. Trái lại, Luxembourg không đánh thuế trên các giao dịch về vàng và nhờ đó họ đã được khoản lãi đáng kể trong kinh doanh vàng. Tất nhiên, mọi khoản thuế có liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng cuối cùng rồi cũng đưa vào giá bán các sản phẩm của vàng. Vì vậy, khi áp dụng chính sách thuế đánh trên vàng sẽ ảnh hưởng đến giá vàng. Khi giá bán có tính thuế, giá vàng trong nước tăng, sẽ dẫn đến mức cầu về vàng có thể bị giảm nếu thu nhập của công chúng không tăng. Lúc đó, các nhu cầu về nữ trang bằng nguyên liệu vàng được sử dụng thay thế (như các loại nữ trang bằng nhựa, thủy tinh, bằng kim loại khác… vừa rẻ vừa có mẫu mà, màu sắc đa dạng, phong phú). Mặt khác, số cầu về vàng dự trữ cũng giảm đi do các nhà đầu tư, đầu cơ chuyển dịch vốn sang thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái. Bởi lẽ, nếu áp dụng thuế suất 30% thì chênh lệch giữa giá bán và giá mua không thể dưới 30% giá bán, trong khi hiếm khi có biến cố gây tăng giảm giá vàng 30% trong ngắn hạn. Tuy nhiên, khi giá vàng trong nước tăng cao so với giá vàng thế giới, sẽ xuất hiện các hoạt động buôn lậu đưa vàng vào thị trường nội địa, hình thành một thị trường phi chính thức. Các nhà đầu tư, đầu cơ vàng cũng sẽ tiếp tục hướng về vàng vì lúc này họ là người “ăn theo” mức thuế suất cao đánh trên vàng (nhưng Nhà nước không thu được). TÌnh hình sẽ đưa đến sự biến động giá vàng rất phức tạp do nhiều mức giá khác nhau trên cùng một địa bàn, tạo điều kiện cho các hoạt động đầu cơ đẩy giá vàng lên xuống bất ngờ. Giá vàng thế giới 15 1 2 3 7 6 5 14 13 8 9 10 4 12 11 16 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng thế giới Chú giải: Mức sản xuất và cung ứng vàng của các nước thuộc cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), Trung Âu, Đông Âu. Những giao dịch của các quỹ dự trữ quốc tế : IMF, BRI, FECOM. Các hoạt động đầu cơ, đầu tư và dự trữ trong tư nhân. Mức cầu của các ngành công nghiệp sử dụng vàng nguyên liệu. Mức cầu của các ngành kim hoàn, thủ công mỹ nghệ. Những giao dịch của các quỹ dự trữ quốc gia, các nước chủ lực : châu Âu, Mỹ, Trung Đông, Nhật Bản. Mức khai thác các hầm mỏ ở Nam Phi, Mỹ, Úc, Canada, Brazil, các nước khác. - Tình hình mậu dịch quốc tế. - Tình hình cán cân thương mại, cán cân thanh toán giữa các nước. - Giá trị đồng đôla và một số đồng tiền mạnh, quan hệ tín dụng, viện trợ. - Sự chuyển dịch vốn đầu tư giữa các nước, giữa các ngành công nghiệp. - Các chính sách tài chính - tiền tệ. - Mức độ tăng trưởng nền kinh tế từng nước, chu kỳ suy thoái. - Mức độ lạm phát, giảm phát. - Sự biến động trong sản xuất dầu mỏ, lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng. Các điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng. - Các chính sách quản lý thuế khóa đối với vàng. - Lãi suất thực tế giữa vàng, đôla, trái phiếu, bất động sản. - Các thông tin có liên quan đến cung – cầu về vàng. - Xu hướng tiết kiệm nguyên liệu. - Mức độ gia tăng sản lượng. - Khả năng đa dạng hóa sản phẩm. - Khả năng thu tái chế, tự cung cấp. - Dân số, thu nhập, đời sống. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Thị hiếu về thời trang. - Múc độ phát triển các nữ trang không dùng vàng. - Phong tục, tập quán. - Tình hình an ninh trật tự. - Sự mở rộng giao lưu văn hóa, thể dục thể thao. - Mức độ cung cấp tín dụng cho các thành viên. - Yêu cầu ổn định và giải quyết các vấn đề trong hệ thống tiền tệ quốc tế. - Khả năng trả nợ của các nước thành viên. - Chính sách thuế khóa và quản lý tài nguyên. - Giá thành khai thác và quản lý tài nguyên. Tiến bộ công nghệ thăm dò, khai thác. CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA GIÁ VÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Diễn biến giá vàng Việt Nam trong thời gian qua Từ năm 2006 đến nay, vàng trải qua hai lần tăng giá mạnh. Lần thứ nhất là vào khoảng giữa tháng 5 năm 2006, giá vàng lần đầu tiên kể từ năm 1980 vượt mức kỷ lục vượt ngững 1,4 triệu đồng/lượng. Từ tháng 7 năm 2006 đến tháng 9 năm 2007, giá vàng dao động nhỏ trong phạm vi 1,1 triệu đến 1,3 triệu và đột ngột tăng mạnh từ tháng 9 năm 2007. Đỉnh điểm của đợt tăng giá này là vào tháng 3 năm 2008, giá vàng Việt Nam vượt ngưỡng 1,9 triệu đồng/lượng– cao nhất trong lịch sử. Kể từ đó đến nay, giá vàng vẫn tiếp tục biến động mạnh ở mức cao, trong phạm vi từ 1,75 triệu đến 1,85 triệu đồng/lượng. Năm 2006 là một năm đầy dấu ấn với giá vàng Việt Nam và thế giới. Bắt đầu từ cuối tháng ba, vàng đột ngột tăng mạnh. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, giá vàng đã tăng lên 370 nghìn đồng (tương đương 35%), đánh dấu mức tăng cao nhất kể từ năm 1980. Giá vàng thế giới vượt mức 700 USD/ounce gần bằng mức cao kỷ lục trong năm 1980. Tuy nhiên chỉ sau một tháng, vàng lại quay lại mức dưới 1,1 triệu – giảm gần 350.000/lượng, tương đương 25% - đưa giá vàng trở về mốc cuối tháng 3. Sau đó giá vàng có một vài đợt tăng cao trở lại nhưng với tốc độ chậm hơn và mức độ tăng thấp hơn. Trong khoảng từ tháng 7 năm 2006 đến tháng 9 năm 2007, giá vàng biến động xung quanh giá trị 1,2 đến 1,3 triệu VNĐ một lượng. Tháng 9 năm 2007 đánh dấu một bước ngặt lớn trong biến động giá vàng. Khi các thông tin về thị trường tài chính Mỹ bị phanh phui, lo ngại về một cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá vàng đột ngột tăng mạnh, tạo tiền đề cho đợt tăng giá đỉnh điểm vào những tháng đầu năm 2008. Giá vàng trong nước đã có xu hướng tăng mạnh trong những tháng cuối năm 2007. Nửa tháng đầu năm, giá vàng tăng đột biến từ 1,54 triệu/lượng ngày 1/1 lên 1,74 triệu ngày 15/1, tốc độ tăng trung bình là 13%. Trong hơn một tháng tiếp theo, giá vàng biến động quanh 1,7 triệu/lượng. Đến ngày 17/3, giá vàng đạt mức cao kỷ lục trong lịch sử giá vàng Việt Nam (1.925.000 VNĐ/lượng) và giá vàng thế giới (1032 USD/ounce – lần đầu tiên giá vàng thế giới vượt qua ngưỡng 1000 USD). Sau khi đạt đỉnh trên 1,9 triệu, giá vàng giảm trong ngày giao dịch tiếp theo. Từ đó, giá vàng vẫn duy trì ở mức cao, giao động xung quanh 1,8 triệu. 2. Nguyên nhân biến động giá vàng Việt Nam trong thời gian qua 2.1. Do ảnh hưởng của giá vàng thế giới 2.1.1 Biến động của giá vàng thế giới Tình hình cung cầu về vàng của thế giới từ năm 2002 đến nay và ước tính đến năm 2012 Trong vòng hai năm 2006-2007 giá vàng thế giới liên tục tăng cao, từ mức 517,2 USD/oz lên mức 833,2 USD/oz, tương đương 61%; như vậy mức tăng bình quân năm là 27% và bình quân tháng hơn 2%. Đây là mức tăng rất cao so với mức tăng khoảng 13%/năm của giai đoạn 2000-2006, đặc biệt, trong hơn hai tháng đầu năm 2008 có mức tăng đột biến từ mức 833.3USD/oz lên đến 989,4 USD/oz vào ngày 19/3/08 tương đương gần 19%, như vậy bình quân tháng tăng gần 6% cao hơn nhiều so với mức 2% của giai đoạn 2006-2007. Đáng lưu ý là vào ngày 17/3 giá vàng đã có lúc đột biến lên đến 1032USD/oz. Biểu đồ giá vàng Việt Nam và giá vàng Thế giới (2006 – 2008) Từ đồ thị giá vàng của Việt Nam và Thế giới trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, ta dễ dàng nhận thấy giá vàng Việt Nam vận động theo giá vàng thế giới. Theo các tính toán ước lượng độ tương quan giữa giá vàng Việt Nam và thế giới, giá vàng Việt Nam phụ thuộc hơn 90 % vào giá vàng thế giới. Điều này cũng dễ hiểu vì theo như lý thuyết về tác động của một nền kinh tế mở nhỏ (như Việt Nam) bị chi phối giá bởi giá thế giới. Thị trường vàng Việt Nam chiếm tỉ trọng rất nhỏ trên thị trường thế giới, mặt khác nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vì vậy giá vàng trong nước chịu ảnh hưởng rất lớn từ giá vàng thế giới. Tuy nhiên giá vàng thế giới tính bằng đơn vị USD còn giá vàng Việt Nam tính theo đơn vị VNĐ, tức là có sự khác biệt khi quy đổi từ giá vàng thế giới sang giá vàng Việt Nam do tỷ giá giữa VNĐ và USD có sự thay đổi. Trong thời gian vừa qua, tỷ giá VNĐ/USD giảm (hay đồng đôla đang mất giá trên thị trường thế giới), thì ở thị trường trong nước, giá vàng được đánh giá là rẻ hơn trước, do vậy người dân sẽ tích cực mua vàng vào để tích trữ hoặc đầu cơ, chờ lúc giá USD lên sẽ bán. Sở dĩ có tâm lý như vậy là vì người dân và các nhà đầu tư trên thế giới vẫn tin tưởng vào sức mạnh và sự phục hồi giá trị của đồng đôla Mỹ trong tương lai vì vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế thế giới. 2.2.2 Nguyên nhân biến động của giá vàng thế giới 2.2.2.1 Mất giá và xu hướng tiếp tục mất giá của đồng USD a. Vai trò của đồng đôla Mỹ Đồng đôla Mỹ không chỉ là tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ mà còn là đơn vị tiền tệ chính thức của nhiều nước và vùng lãnh thổ và được sử dụng như một tiền tệ quốc tế và nó giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới. - Là tiền tệ chung chuyển chủ yếu trên thị trường ngoại hối (main vechile currency): Hầu hết các thị trường ngoại hối quốc gia và quốc tế đều yết giá đồng Đôla, vì thế đồng đôla vừa có thể trao đổi trực tiếp với các đồng tiền khác vừa là phương tiện trung gian trao đổi gián tiếp các đồng tiền khác với nhau. Cả trước và sau khi đồng Euro ra đời, Đôla vẫn là đồng tiền thống trị thị trường ngoại hối thế giới. Bên cạnh đó, đôla còn được Chính phủ các nước sử dụng như là phương tiện để can thiệp vào thị trường ngoại hối và tài trợ cho cán cân thanh toán của nước mình. - Là tiền tệ tính giá và thanh toán chủ yếu trong giao dịch thương mại quốc tế (main invoicing currency): Đôla Mỹ là đồng tiền tính giá truyền thống của các mặt hàng thiết yếu như bột mì, dầu, vàng, đồng… Các mặt hàng này có tính đồng nhất cao và được mua bán tập trung nên hầu hết được thanh toán thống nhất bằng một đồng tiền. Đồng Đôla với chi phí giao dịch thấp lại dễ dàng chuyển đổi ra các đồng tiền khác nên chính là đồng tiền được lựa chọn trong thanh toán các giao dịch về các mặt hàng này. Bên cạnh đó, Mỹ là nước xuất – nhập khẩu hàng đầu thế giới, và với sức mạnh kinh tế của mình, phần lớn giá trị giao dịch hàng hóa xuất – nhập khẩu của Mỹ đều được tính giá và thanh toán bằng USD. - Là đồng tiền đầu tư quan trọng trong đầu tư quốc tế (main investment currency): Các nước nhận đầu tư muốn nhận các khoản tiền vốn đầu tư bằng các đồng tiền mạnh nhằm bảo tồn giá trị đồng vốn và gia tăng lợi nhuận. - Là đồng tiền dự trữ quốc tế chủ yếu: Quốc gia nào cũng cần có dự trữ ngoại hối để mua bán, thanh toán với các quốc gia khác và để can thiệp vào thị trường ngoại hối của nước minh. Vàng được xem là tiền tệ duy nhất có giá trị thực, là đồng tiền cất trữ vững vàng và an toàn nhất. Tuy nhiên vàng ngày càng trở nên khan hiếm, lượng cung vàng có hạn nên vàng trong dự trữ ngoại hối của các quốc gia chỉ chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Đôla trở thành đồng tiền chủ chốt trong quỹ dự trữ ngoại hối của các nước. Đôla giữ vai trò là tiền tệ dự trữ chính trong quỹ dự trữ của toàn thế giới. Như vậy cho đến nay, Đôla Mỹ vẫn là đồng tiền đóng vai trò quyết định nhất đối với nền kinh tế thế giới. b. Vấn đề lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức và khủng hoảng tài chính Sự hiện diện của các chi phí giao dịch trong các thị trường tài chính giải thích một phần tại sao những trung gian tài chính và tài chính gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong các thị trường tài chính. Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thương không biết tất cả những gì mình cần biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin bất đối xứng. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở 2 mặt : trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn – tức là rủi ro không trả được nợ. Trong trường hợp này người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả nợ được. Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không đối xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra khi người cho vay phải chịu rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt – xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động đó khiến ít có khả năng để món vay này được hoàn trả. Sự phân tích kinh tế về tác dụng của lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức có thể giúp hiểu được những khủng hoảng tài chính, một sự đỗ vỡ trầm trọng trong các thị trường tài chính được đặc trưng bởi những sụt giảm mạnh mẽ về giá tài sản và sự vỡ nợ của nhiều hãng tài chính và phi tài chính. c. Những yếu tố gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính Có 5 yếu tố trong môi trường kinh tế có thể dẫn đến việc gây tồi tệ hơn một cách căn bản cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính, và đưa đến một cuộc khủng hoảng tài chính: (1) Tăng lãi suất; (2) Sự sụt giảm của thị trường chứng khoán; (3) Sự sụt giảm bất ngờ về mức giá tổng hợp; (4) Tình trạng không chắc chắn tăng lên; (5) Sự hoảng loạn ngân hàng. Tăng lãi suất Sự sụt giảm thị trường CK Tăng tính không chắc chắn Sụt giảm hoạt động kinh tế Hoảng loạn ngân hàng Sự sụt giảm bất ngờ về giá Các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức xấu đi Các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức xấu đi Các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức xấu đi Sụt giảm hoạt động kinh tế Sụt giảm hoạt động kinh tế Khủng hoảng tài chính điển hình Nợ tăng Giá giảm Phân tích một cuộc khủng hoảng tài chính - Sự tăng lãi suất: Những cá nhân và tổ chức với những dự án đầu tư rủi ro nhất chắc chắn là những người sẵn lòng chịu vay với lãi suất cao nhất. Nếu lãi suất trên thị trường được nâng lên một cách đẩy đủ vì nhu cầu tín dụng tăng lên hoặc vị sự sụt giảm lượng tiền cung ứng, những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt bớt có khả năng xảy ra, trong khi đó những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu vẫn nhiều khả năng xảy ra. Do hậu quả việc này làm tăng lựa chọn đối nghịch khiến người cho vãye không còn muốn thực hiện các món cho vay. Sự sụt giảm quan trọng trong việc cho vay dẫn đến sự sụt giảm quan trọng trong đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp. - Sự sụt giảm của thị trường chứng khoán: Một sự sụt giảm mạnh trong thị trường cổ phiếu có thể làm tăng vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính và tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính. Một sự sụt giảm trong thị trường chứng khoán có nghĩa là giá trị tài sản ròng của các công ty đã giảm, do chỗ giá cổ phiếu là sự phản ánh giá trị tài sản ròng của một công ty. Do những người cho vay nay có nhiều nguy cơ rủi ro của lựa chọn đối nghịch, họ giảm bớt việc cho vay của mình. Điều này khiến cho việc đầu tư và tổng sản phẩm cuối cùng giảm. - Những sự sụt giảm bất ngờ về giá: Sự sụt giảm bất ngờ về mức giá cũng làm giảm giá trị tài sản ròng của các công ty. Do việc thanh toán nợ đã được cố định theo hợp đồng thành những khoản danh nghĩa, một sự sụt giảm bất ngờ về mức giá làm tăng giá trị các món nợ của công ty theo hiện vật, nhưng không tăng giá trị thực của những tài sản của các công ty. - Sự tăng tính không chắc chắn: Một sự tăng không bình thường tính không chắc chắn trong các thị trường tài chính, có thể do sự thất bại của một tổ chức tài chính hoặc phi tài chính nổi tiếng, một sự suy thoái, hoặc một sự đổ vỡ thị trường chứng khoán gây ra, khiến cho những người cho vay khó phan biệt những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt với những vụ mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu. Kết quả là người cho vay không có khả năng giải quyết vấn đề lựa chọn đối nghịch, khiến cho họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp. - Những vụ hoảng loạn ngân hàng: Các ngân hàng đóng một vai trò trung gian tài chính quan trọng bằng việc tiến hành những hoạt động tạo thông tin. Một vụ hoảng loạn ngân hàng làm giảm tổng số những hoạt động trung gian tài chính mà ngân hàng thực hiện, dẫn đến việc giảm đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp. Năm yếu tố này cũng được xem như là dấu hiệu để nhận biết sự khủng hoảng của thị trường tài chính. d. Nền kinh tế Mỹ trong thời gian qua Nền kinh tế toàn cầu năm 2007 đạt tốc độ tăng trưởng 5,2% giảm 0,2% so với năm trước với các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nước đang phát triển vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nợ xấu tăng mạnh, đặc biệt đối với hoạt động cho vay mua nhà trả chậm, một loạt ngân hàng lớn ở Mỹ bị thua lỗ và gặp khó khăn về thanh khoản, tỉ lệ thấp nghiệp tăng cao nhất trong vòng 4 năm qua, lòng tin của người tiêu dùng giảm manh, ảnh hưởng xấu đến doanh thu bán lẻ. Những diễn biến bên trong nền kinh tế Mỹ đã đẩy đồng USD xuống thấp kỷ lục so với nhiều ngoại tệ mạnh khác, thậm chí so với một số đồng tiền của các nước đang hát triển châu Á, thồi phồng bong bóng tăng giá dầu, ảnh hưởng xấu tới hầu hết các nền kinh tế trên thế giới do các mối liên hệ thương mại, tài chính, rõ rệt nhất là nền kinh tế châu Âu. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng 1,9% năm 2007, giảm rất nhiều so với 2,9% năm 2006. Nền kinh tế Mỹ chịu những tác động tiêu cực của thị trường địa ốc đóng băng và những đòn tấn công của cuộc khủng hoảng nợ “dưới chuẩn”. Trong năm, nền kinh tế Mỹ phải đối mặt với 3 lần cắt giảm lãi suất từ 5,25% xuống còn 4,25%. Mô hình cho vay cầm cố thế chấp dưới chuẩn Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ mà giá nhà tăng trong thời gian dài và đến mức cao như thời gian vừa qua. Trong thời gian dài, giá nhà tăng mạnh cũng vì các thủ thuật tài chính của toàn bộ khu vực tài chính nhằm khuyếch tán ảo tưởng giá nhà lên không có chỗ ngừng, vượt cả khả năng chi trả của rất nhiều người đầu tư vào địa ốc. Nhưng nếu giá cứ lên thì có gì phải lo, đó là tâm lý đại chúng cho đến thời gian vừa qua. Thủ thuật tài chính này là sự ra đời của CDO và phát tán rộng rãi trong thị trường địa ốc. CDO (collaterized debt obligation) có thể dịch tạm là trái phiếu hay nghĩa vụ nợ có thế chấp. Thế chấp có thể là trái phiếu (bonds) hay các khoản nợ cho vay mua nhà (mortgage). CMO (collaterized mortgage obligation hay security) có thể tạm dịch là trái phiếu hay chứng khoán thế chấp bằng nợ cho vay mua nhà, nói chung là địa ốc. Cách làm khá đơn giản. Thí dụ ngân hàng A cho nhiều người vay mua địa ốc với tổng số tiền là 100 tỷ. Để có số tiền này, ngân hàng phải thu hút tiền ký gửi ít nhất 100 tỷ. Đây là cách làm rất thông thường. Ngân hàng thu hút tiền gửi ngắn hoặc trung hạn và cho vay dài hạn. Ngân hàng có thể chịu rủi ro nếu như người ký gửi rút tiền ra mà ngân hàng không có để trả. Do đó để giảm rủi ro, họ cần đa dạng hoá người vay và đa dạng hoá vùng hoạt động của người vay. Tất nhiên nếu cho vay nhiều người, không chỉ để mua nhà mà để tài trợ nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, thì độ rủi ro giảm. Khách hàng có người gặp khó khăn, nhưng hầu hết là không. Một vài hoạt động kinh tế có thể có rủi ro cao nhưng hầu hết các hoạt động kinh tế khác thì không. Người Mỹ luôn luôn tìm tòi cách làm mới để sinh lợi. Một cách làm khác, được coi là khám phá thần kỳ, là ngân hàng có thể tập hợp nhiều giấy nợ đó lại thành một gói, thí dụ ở đây là 100 tỷ, rồi dùng chúng làm thế chấp, chia ra nhiều giấy nợ nhỏ tức là chứng khoán (cổ phiếu cũng là một loại chứng khoán, security) đem bán đại trà cho người đầu tư nhỏ. Làm như vậy ngân hàng thu lại 100 tỷ và biến người mua chứng khoán thành người cho vay. Ngân hàng ăn phí nhiều chặng (phí tính trên người đi vay mua nhà, phí tính vào việc tổ chức đóng gói nợ tức là tính vào người đầu tư nhỏ, và phí tính vào việc thu nợ từ người đi vay và chia lại số thu này cho người đầu tư chứng khoán. Ngân hàng đẩy toàn bộ rủi ro sang cho người đầu tư chứng khoán. Người ta mua chứng khoán vì lãi suất cao hơn, có thể dễ dàng bán ra và tin là nó có độ rủi ro thấp. Các chứng khoán này thường có thời gian chuộc lại từ 5 đến 30 năm, ngân hàng hoặc công ty dịch vụ tài chính nào đó sẽ làm việc thu tiền trả nợ của người vay gồm cả khoản vay gốc và lãi đem chia đều cho các chứng khoán và nân hàng sẽ thu phí dịch vụ. Nợ thế chấp mua nhà Người mua nhà Thanh toán nợ Ngân hàng Định giá nhà Thẩm định, đánh giá thu nhập (1) (2) (1) NH cho vay mua nhà (2) Người mua nhà trả nợ NH Mô hình truyền thống Nợ thế chấp mua nhà Người mua nhà Thanh toán nợ Ngân hàng Trái phiếu mua nhà Thanh toán trái phiếu Thị trường trái phiếu bất động sản (1) (4) (3) (2) Thẩm định giá nhà Đại lý cho vay Định mức tín nhiệm (1) NH bán trái phiếu (2) NH cho vay mua nhà (3) Người mua nhà trả nợ cho NH (4) NH thanh toán cho người sở hữu Mô hình dưới chuẩn Mô hình cho vay cầm cố mua nhà truyền thống và mô hình dưới chuẩn Cách làm này được coi là một sáng kiến diệu kỳ của Michael Milken, một ông trùm tài chính, trở nên giàu sụ vì chuyện này, nhưng rồi sau đó bị bắt tù về tội về tội gian lận trong buôn bán trái phiếu vì dùng thông tin nội gián. Ông ta mua những trái phiếu công ty dưới chuẩn, được mệnh danh là rác (junk bonds), đóng thành gói, dùng chúng làm thế chấp, tạo ra các chứng khoán mới. Ngân hàng thương mại (cho vay tiền) chỉ mới bắt tay vào hoạt động này trong vài năm gần đây, còn chủ yếu việc làm này là của công ty tài chính thường được gọi là ngân hàng đầu tư (chỉ làm chuyện đóng gói, buôn bán chứng khoán). Ngân hàng thương mại nhảy vào vùng cấm trước đây vì luật Mỹ thay đổi cho phép đa dạng hoá họat động tài chính. Cũng vì thế mà thị trường tài chính thế giới trở nên bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước. Hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ đang lỗ to vì theo chân sang kiến của Michael Miken. Hiện nay số tiền đầu tư vào trái phiếu ở Mỹ lên tới 25,9 ngàn tỷ tính tới tháng 5 năm 2006 trong đó CMO liên quan tới địa ốc chiếm tới 6,1 ngàn tỷ (theo Research Quarterly của Hội buôn trái phiếu). Tiền làm nhanh, rủi ro tưởng ít vì các công ty đánh giá chúng cao ở mức cao AAA (cần biết là họ đánh giá Việt Nam ở mức BB, thấp hơn A). Nói chung, CMO có thể lành mạnh nếu chúng không phát triển ồ ạt vào khu vực dân cư ít khả năng trả nợ chỉ vì mục đích làm tiền. Các nhà đầu tư địa ốc đã mở rộng thị trường bất kể quyền lợi của người tiêu dùng, gây vốn cho vay cả những người thu nhập thấp ít khả năng trả nợ, bằng cách khuyến khích vay với lãi suất lúc đầu thật thấp, và sau đó ít lâu tăng lên theo lãi suất thị trường. Những người đi vay này tưởng rằng giá nhà sẽ lên mãi mãi, lãi suất sẽ thấp mãi, nên họ đâm đầu thi nhau mua nhà. Đây là thị trường được gọi là thị trường dưới chuẩn. Không những dân chúng mua, mà các ngân hàng, công ty tài chính, quĩ tín dụng, nhà đầu tư nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng vào tương lai của thị trường nhà cửa. Ngân hàng thay vì hoạt động môi giới giữa người ký gửi tiền và người đi vay thì họ cũng xông vào đầu tư, mua giữ các CMO rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8 ngân hàng lớn và công ty tài chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group, Morgan Chase, Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn. Tác động của sự đình trệ thị trường bất động sản ở Mỹ Bất động sản ở Mỹ trì trệ Triển vọng trì trệ kinh tế thế giới Khủng hoảng tín dụng Cổ phiếu bất động sản mất giá Các thị trường vốn mất điểm kỷ lục Giá vàng tăng kỷ lục Fed hạ lãi suất Đồng Đôla mất giá kỷ lục Giá dầu lửa tăng kỷ lục Chính trị bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu lửa lớn Tăng trưởng kinh tế cao ở Trung Quốc, Ấn Độ và thế giới Cầu dầu lửa tăng cao trong khi cung tới hạn Sự đình trệ của thị trường bất động sản ở Mỹ và những tác động đến kinh tế - tài chính thế giới. Cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Mỹ bắt nguồn từ sự đình trệ của thị trường bất động sản. Sau một thời kỳ sốt dài, thị trường địa ốc Mỹ rơi vào tình trạng đóng băng khiến người vay tiền không thể bán nhà để trả nợ. Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào cảnh thua lỗ đáng sợ. Hàng loạt các ngân hàng lớn ở Phố Wall như Bear Steams, Merrill Lynch, Citigroup, Morgan Stanley liên tiếp công bố những khoản thâm hụt tài sản nhiều tỉ USD. Bóng đen khủng hoảng không chỉ dừng lại ở Mỹ mà còn lan sang cả khu vực châu Âu, tấn công vào các ngân hàng tại châu lục này như Northern Rock của Anh hay UBS của Thụy Sỹ. Hệ quả là cố phiếu tài chính Mỹ liên tục tụt dốc và vài giám đố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10693.doc
Tài liệu liên quan