Khóa luận Pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.1

PHẦN NỘI DUNG .3

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM .3

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM .3

1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại . .3

1.1.2. Khái niệm quản lý chất thải nguy hại .5

1.1.3. Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại . .7

1.2. HIỆN TRẠNG CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM .9

1.3. ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT THẢI NGUY HẠI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG .14

1.3.1. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại đối với môi trường .14

1.3.2. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại đối với sức khỏe con người .16

1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .17

CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM . .21

2.1. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI . .21

2.1.1. Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý chất thải nguy hại . 21

2.1.2. Cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải và giấy phép

quản lý chất thải nguy hại 23

2.1.3. Quy hoạch quản lý chất thải nguy hại .29

2.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà Nước về chất thải nguy hại . 29

2.2. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI .31

2.2.1. Trách nhiệm của chủ nguồn thải chất thải nguy hại .31

2.2.2. Trách nhiệm của chủ vận chuyển chất thải nguy hại 34

2.2.3. Trách nhiệm của chủ xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại .36

2.3. XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ

QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI .37

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐÌNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN . .41

3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM . . .41

3.1.1. Những kết quả đã đạt được .41

3.1.2. Những vấn đề tồn tại .44

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM .50

3.2.1. Cơ sở đề xuất giải pháp 50

3.2.2. Một số giải pháp cụ thể 51

PHẦN KẾT LUẬN . 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12079 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương trình như: quy trình vận hành an toàn công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng; kế hoạch kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường; kế hoạch xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường khi chấm dứt hoạt động… Ngoài ra, cơ sở xử lý, tiêu hủy CTNH phải lập kế hoạch đào tạo định kỳ hàng năm cho cán bộ, nhân viên về: vận hành an toàn công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng; bảo vệ môi trường; phòng ngừa và ứng phó sự cố… Trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan cấp phép phải xem xét sự đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ và thông báo để yêu cầu tổ chức, cá nhân đăng ký hành nghề sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu chưa đầy đủ hoặc không hợp lệ. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ sửa đổi, bổ sung, cơ quan cấp phép phải xem xét sự đầy đủ, hợp lệ và yêu cầu tiếp tục sửa đổi, bổ sung nếu cần thiết. Sau khi kết thúc việc xem xét tính hợp lệ của hồ sơ, cơ quan cấp phép phải hướng dẫn các chủ thể đăng ký hành nghề quản lý CTNH vận hành thử nghiệm, phối hợp với các cơ quan liên quan và Hội đồng tư vấn (nếu có) để giám sát và đánh giá kết quả vận hành thử nghiệm. Nếu vận hành thử nghiệm đạt các tiêu chuẩn môi trường, tuân thủ đúng báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án xử lý, tiêu hủy CTNH, cơ quan cấp phép xác nhận bằng văn bản trong thời hạn 12 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả vận hành thử nghiệm. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có văn bản xác nhận kết quả vận hành thử nghiệm hoặc kể từ ngày có ý kiến bằng văn bản của Sở Tài nguyên và Môi trường, cơ quan cấp phép phải cấp giấy phép quản lý CTNH cho tổ chức, cá nhân đăng ký hành nghề xử lý, tiêu hủy CTNH. Nếu phát hiện các tổ chức, cá nhân nói trên không đáp ứng đủ điều kiện hành nghề do luật định thì cơ quan cấp phép phải gửi thông báo bằng văn bản yêu cầu những chủ thể này thực hiện các biện pháp cần thiết để tuân thủ các điều kiện đó. 2.1.3. Quy hoạch quản lý CTNH Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường (2005) có quy định: Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với BTNMT và UBND cấp tỉnh lập quy hoạc tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn lấp CTNH trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bản quy hoạch này bao gồm những nội dung chính: Điều tra, đánh giá, dự báo nguồn phát sinh CTNH, loại và khối lượng CTNH; Xác định địa điểm,cơ sở xử lý, khu chôn lấp CTNH; Xác lập phương thức thu gom, tuyến đường vận chuyển CTNH, vị trí, quy mô, loại hình, phương thức lưu giữ; xác định công nghệ xử lý, tái chế, tiêu hủy, chôn lấp CTNH; Xác định kế hoạch và nguồn lực thực hiện bảo đảm tất cả các loại CTNH phải được thống kê đầy đủ và được xử lý triệt để. Pháp luật còn quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí mặt bằng xây dựng khu chôn lấp CTNH theo quy hoạch đã được phê duyệt. Theo đó, UBND cấp tỉnh phải tiến hành các điều kiện cần thiết cho quản lý CTNH trên địa bàn phù hợp với quy hoạch thu gom, xử lý, chôn lấp CTNH. 2.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về quản lý CTNH Bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của quốc gia cũng không thể thiếu vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam nên môi trường rất cần đến sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước. Hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và quản lý CTNH nói riêng ở Việt Nam được tiến hành bởi hệ thống cơ quan Nhà nước có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương. Có thể phân chia các cơ quan bảo vệ môi trường theo chiều dọc như sau: Một là: Các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền chung về bảo vệ môi trường. Hệ thống cơ quan này bao gồm Chính phủ và UBND các cấp. Trong đó, Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của cả nước. Điều 110 Hiến pháp 1992 quy định: Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, Phó Phủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của đất nước và chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, UBND là cơ quan do Hội đồng nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. UBND các cấp có quyền thành lập các cơ quan chuyên môn khác nhau như: Sở, Phòng, Ban tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của địa phương mình. Hai là: Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn về bảo vệ môi trường. Đây là hệ thống cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề chuyên ngành về môi trường. Hệ thống cơ quan này được tổ chức khá chặt chẽ ở hai cấp: - Cấp Trung ương: Cơ quan đầu mối chuyên môn cao nhất về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước là BTNMT. Quản lý CTNH là một lĩnh vực rất đa dạng và phức tạp nên ngoài việc quy định BTNMT là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nước về môi trường, pháp luật còn quy định về nhiệm vụ của các Bộ chuyên ngành khác như: Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính… Theo đó, các cơ quan này trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với BTNMT để hoạt động quản lý CTNH đạt được kết quả tốt nhất. Ví dụ, Bộ Tài chính có trách nhiệm tổng thể về ngân sách Nhà nước, do đó quan tâm đến vấn đề đầu tư vào quản lý CTNH và việc áp dụng các công cụ kinh tế vào lĩnh vực này; Bộ Công thương chịu trách nhiệm chính về việc kiểm tra và giám sát chất thải công nghiệp; Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm về việc thu gom và thải bỏ các chất thải rắn, chất thải xây dựng và chủ trì, phối hợp với BTNMT và UBND cấp tỉnh lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn lấp CTNH trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm về việc giám sát và kiểm tra ô nhiễm từ các phương tiện vận tải, sự lan truyền của các chất có hại về mặt môi trường và ứng phó với những sự cố do phương tiện giao thông vận tải gây ra… - Cấp địa phương: Các cơ quan quản lý chuyên môn về môi trường ở địa phương bao gồm: Sở Tài nguyên và Môi trường ở cấp tỉnh, Phòng Bảo vệ môi trường ở cấp Huyện và cán bộ tài nguyên môi trường ở cấp xã. Đây là hệ thống cơ quan được hình thành trên cơ sở các cơ quan quản lý đất đai trước đây. Hiện nay, các cơ quan này sẽ thực hiện thống nhất quản lý môi trường ở địa phương, bao gồm các vấn đề quản lý về đất đai, về khoáng sản, về tài nguyên nước… 2.2. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động quản lý CTNH 2.2.1. Trách nhiệm của chủ nguồn thải CTNH Theo Thông tư số 12/2006/TT–BTNMT, chủ nguồn thải CTNH là tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc điều hành cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát sinh CTNH. Là người được hưởng lợi từ quá trình sản xuất, kinh doanh, chủ nguồn thải cũng chính là người phải chịu trách nhiệm đối với những vấn đề môi trường phát sinh từ quá trình đó. So với quy chế quản lý CTNH thì Thông tư 12 đã quy định cụ thể và chi tiết hơn rất nhiều về trách nhiệm của chủ nguồn thải CTNH. Ngoài việc phải làm thủ tục để được cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH, chủ nguồn thải còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Một là: Thực hiện đúng các nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường hay Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được xác nhận (nếu có). Hai là: Áp dụng các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu phát sinh CTNH, chịu trách nhiệm đối với CTNH cho đến khi chúng được xử lý, tiêu hủy an toàn. Phòng ngừa là hoạt động được tiến hành từ khi chưa có CTNH phát sinh trên thực tế. Các chủ thải phải có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế đến mức tối thiểu CTNH có thể phát sinh. Đây được coi là hoạt động đầu tiên trong quy trình quản lý CTNH. Giảm thiểu được xác định là hoạt động làm giảm tới mức tối thiểu lượng CTNH sinh ra. Các chủ thải có thể thực hiện việc giảm thiểu thông qua các các hoạt động: thay đổi công nghệ sản xuất, áp dụng khoa học – kỹ thuật hiện đại, tái chế chất thải sinh ra, phân tích vòng đời sản phẩm… Ba là: Phân loại CTNH, không để lẫn CTNH khác loại với nhau hoặc với chất thải khác; bố trí nơi lưu giữ tạm thời CTNH an toàn; đóng gói, bảo quản CTNH theo chủng loại trong các bồn, thùng chứa, bao bì chuyên dụng đáp ứng các yêu cầu về an toàn kỹ thuật, bảo đảm không rò rỉ, rơi vãi hoặc phát tán ra môi trường, có dán nhãn bao gồm các thông tin sau: Tên CTNH, mã CTNH theo danh mục CTNH; mô tả về các nguy cơ do CTNH có thể gây ra… Việc dán nhãn có chứa đựng các thông tin trên lên dụng cụ chứa CTNH nhằm mục đích tránh nhầm lẫn các loại, nhóm chất thải trong quá trình xử lý, tiêu hủy. Bởi, mỗi loại CTNH có đặc tính độc hại riêng và tương ứng với nó, phải có cách xử lý riêng. Ngoài ra, việc quy định dán mác trên còn có tác dụng cảnh báo những chủ thể xung quanh về nguy cơ gây hại của loại chất thải này và việc ghi tên, địa chỉ của chủ nguồn thải còn có ý nghĩa xác định nguồn gốc sản sinh ra CTNH, chủ thể có trách nhiệm đối với những thiệt hại do chúng gây ra. Bốn là: Xây dựng và thực hiện kế hoạch hoặc các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố do CTNH gây ra. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình quản lý CTNH. Bởi, khi sự cố đó chưa hoặc không xảy ra thì nó đã được trù liệu từ trước kèm theo những phương án xử lý thích hợp. Vì vậy, khi có sự cố xảy ra trên thực tế thì việc khắc phục sẽ được triển khai nhanh chóng. Năm là: Khi không có đủ khả năng tự vận chuyển, xử lý, tiêu hủy CTNH của mình thì chủ nguồn thải phải ký hợp đồng với chủ vận chuyển và chủ xử lý, tiêu hủy CTNH đã được cấp Giấy phép quản lý CTNH có địa bàn hoạt động phù hợp. Chủ nguồn thải phải thống nhất với chủ vận chuyển, xử lý, tiêu hủy để khai đầy đủ vào chứng từ CTNH theo đúng nội dung hợp đồng vận chuyển, xử lý, tiêu hủy đã ký và các quy định trong giấy phép quản lý CTNH của chủ vận chuyển, xử lý, tiêu hủy. Sáu là: Chỉ chuyển giao cho chủ vận chuyển số lượng, chủng loại CTNH theo đúng nội dung Sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xử lý, tiêu hủy và chứng từ đã khai. Quản lý CTNH là một hoạt động phức tạp, cần có những người có chuyên môn về lĩnh vực này đảm nhận để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động. Do đó, pháp luật đã quy định chủ nguồn thải có trách nhiệm phân công ít nhất một cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm, đã được đào tạo, tập huấn về quản lý CTNH để thực hiện việc phân loại, quản lý, phòng ngừa và ứng phó sự cố tại cơ sở. Nếu không đủ năng lực phân loại và quản lý CTNH thì phải hợp đồng với đơn vị tư vấn về môi trường để được hỗ trợ kỹ thuật. Một điểm khác biệt nữa giữa quy chế quản lý CTNH và Thông tư 12 mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là những quy định về trách nhiệm của chủ nguồn thải khi có nhu cầu xuất khẩu CTNH để xử lý, tiêu hủy ở nước ngoài . Vấn đề này chưa được đề cập đến trong quy chế, nhưng lại được quy định rất cụ thể ở Thông tư 12. Theo quy định tại mục 1.12 phần IV của Thông tư, chủ nguồn thải phải phối hợp với chủ vận chuyển, chủ xử lý và tiêu hủy (ở nước ngoài) để tuân thủ các quy định của công ước Basel về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các CTNH và việc tiêu hủy chúng trong việc đăng ký xuất khẩu CTNH để xử lý, tiêu hủy bằng cách gửi đầy đủ thông tin về chuyến hàng dự kiến đến Cục Bảo vệ môi trường. Ngoài ra, chủ nguồn thải chỉ được phép xuất khẩu CTNH khi đã có sự đồng ý bằng văn bản của Cục Bảo vệ môi trường và quá trình đó luôn chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan hữu quan theo đúng pháp luật Việt Nam; yêu cầu chủ vận chuyển xuyên biên giới lập hồ sơ vận chuyển xuyên biên giới theo hướng dẫn của Thông tư. Nếu không tuân thủ những quy định trên, chủ nguồn thải phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước hành vi của mình. Như vậy, quy định trên một mặt bảo đảm việc tuân thủ Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, mặt khác giúp chủ nguồn thải ý thức hơn được trách nhiệm của mình. Để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này, pháp luật quy định chủ nguồn thải chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước về bảo vệ môi trường cấp Trung ương và địa phương. Định kỳ 06 tháng 1 lần, chủ nguồn thải có nghĩa vụ lập báo cáo về tình hình phát sinh và quản lý CTNH gửi Sở Tài nguyên và Môi trường. Toàn bộ chứng từ CTNH đã sử dụng, các hồ sơ, tài liệu liên quan đều được chủ nguồn thải lưu trữ với thời hạn 05 năm để sẵn sàng giải trình và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu. Như vậy, bằng những quy định cụ thể và nghiêm ngặt, pháp luật đã buộc chủ nguồn thải CTNH phải có trách nhiệm đối với phần chất thải phát sinh tại cơ sở của mình. Những quy định này vừa tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý CTNH, vừa góp phần làm tăng độ tin cậy cho những đối tác ký hợp đồng liên quan đến quản lý CTNH với chủ nguồn thải. 2.2.2. Trách nhiệm của chủ vận chuyển CTNH Vận chuyển CTNH được hiểu là quá trình chuyên chở CTNH từ nơi phát sinh đến nơi xử lý, tiêu hủy. Theo quy định của Thông tư số 12, chủ vận chuyển là tổ chức, các nhân sở hữu hoặc điều hành cơ sở được cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH để thực hiện việc thu gom, vận chuyển và lưu giữ tạm thời CTNH. Khác với các loại hình vận chuyển khác như: vận chuyển hành khách, vận chuyển hàng hóa… vận chuyển CTNH là loại hình vận chuyển với đối tượng là chất thải có khả năng gây hại rất lớn, nên quá trình vận chuyển này phải tuân thủ những quy định riêng. Thông tư đã có hẳn một mục riêng quy định về điều kiện hành nghề vận chuyển CTNH. Theo đó, các chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định thì mới được phép tiến hành vận chuyển CTNH. Ngoài việc làm thủ tục để được cấp giấy phép hành nghề vận chuyển CTNH và thông báo nội dung của Giấy phép quản lý CTNH cho UBND cấp huyện và cấp xã nơi có cơ sở vận chuyển, chủ vận chuyển phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Thứ nhất: Thực hiện đúng các nội dung của Bản cam kết bảo vệ môi trường đã được xác nhận hoặc các hồ sơ giấy tờ tương đương theo luật định; thực hiện đúng quy trình kê khai và sử dụng chứng từ CTNH. Thứ hai: Chỉ thu gom, vận chuyển số lượng, chủng loại CTNH từ chủ nguồn thải hoặc chủ vận chuyển thứ nhất (nếu là chủ vận chuyển thứ 2) và chuyển giao cho chủ vận chuyển thứ 2 (nếu là chủ vận chuyển thứ nhất) hoặc chủ xử lý, tiêu hủy theo đúng nội dung đã khai trong chứng từ bằng các phương tiện, thiết bị chuyên dụng và trên địa bàn hoạt động được quy định trong giấy phép quản lý CTNH. Ngoài ra, chỉ được phép chuyển giao CTNH tối đa giữa 02 chủ vận chuyển, nghiêm cấm chuyển giao cho chủ vận chuyển thứ ba. Nếu vi phạm những quy định trên, chủ vận chuyển sẽ bị xử lý theo pháp luật. Thứ ba: Chỉ vận chuyển theo lộ trình tối ưu về tuyến đường, quãng đường, thời gian, bảo đảm an toàn giao thông và phòng ngừa sự cố, phù hợp với quy định của cơ quan có thẩm quyền về phân luồng giao thông. Như vậy, nhận thức được mối nguy hiểm có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển CTNH nên pháp luật đặc biệt quan tâm đến các biện pháp phòng ngừa sự cố, bảo đảm an toàn ở mọi lúc, mọi nơi, tránh trường hợp rủi ro do CTNH phát tán ra ngoài trong quá trình vận chuyển. Ngoài những trách nhiệm cơ bản trên, trong trường hợp vận chuyển xuyên biên giới CTNH, chủ vận chuyển phải: Phối hợp với chủ nguồn thải và chủ xử lý, tiêu hủy (ở nước ngoài) để tuân thủ quy định của công ước Basel, hỗ trợ cho chủ nguồn thải trong việc đăng ký xuất khẩu CTNH để xử lý, tiêu hủy ở nước ngoài; Chỉ được phép xuất khẩu CTNH khi đã có sự đồng ý bằng văn bản của Cục Bảo vệ môi trường và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan hữu quan theo pháp luật Việt Nam; Lập hồ sơ vận chuyển xuyên biên giới và phải gửi 02 bộ hồ sơ vận chuyển cho chủ nguồn thải hoặc nhà xuất khẩu đại diện cho chủ nguồn thải và Cục Bảo vệ môi trường sau khi có xác nhận việc tiếp nhận CTNH của chủ xử lý, tiêu hủy (ở nước ngoài). Nếu nhận vận chuyển bất hợp pháp khi chưa có sự đồng ý của Cục Bảo vệ môi trường thì chủ vận chuyển phải chịu trách nhiệm liên đới và bị xử lý theo pháp luật. 2.2.3. Trách nhiệm của chủ xử lý, tiêu hủy CTNH Theo quy định của Thông tư 12, chủ xử lý, tiêu hủy CTNH là tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc điều hành cơ sở được cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH để thực hiện việc lưu giữ tạm thời, xử lý (kể cả tái chế, thu hồi), tiêu hủy CTNH. Ngoài việc phải làm thủ tục để được cấp giấy phép quản lý CTNH, chủ xử lý, tiêu hủy CTNH còn phải thực hiện những nghĩa vụ sau: Một là: Thực hiện đúng nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt và thực hiện đúng quy trình kê khai và sử dụng chứng từ CTNH. Hai là: Chỉ được phép ký hợp đồng xử lý, tiêu hủy CTNH với các chủ nguồn thải trên địa bàn hoạt động được phép theo quy định trong giấy phép quản lý CTNH và chỉ tiếp nhận xử lý, tiêu hủy số lượng, chủng loại CTNH bằng các công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng được phép theo đúng nội dung hợp đồng, chứng từ đã thống nhất khai và các quy định trong giấy phép quản lý CTNH. Ba là: Trường hợp chủ xử lý, tiêu hủy đồng thời là chủ nguồn thải và/hoặc có nhu cầu hành nghề vận chuyển thì phải có đủ điều kiện hành nghề vận chuyển theo quy định pháp luật và phải làm thủ tục đăng ký chủ nguồn thải và/hoặc giấy phép hành nghề vận chuyển. Để thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý CTNH, pháp luật còn quy định chủ xử lý và tiêu hủy chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước về bảo vệ môi trường Trung ương, địa phương. Ngoài ra, chủ thể này có nghĩa vụ: lưu trữ toàn bộ chứng từ, tài liệu, hồ sơ trong thời hạn 05 năm; định kỳ hàng năm tổ chức đào tạo cho cán bộ, nhân viên theo đúng kế hoạch dào tạo; triển khai thực hiện các kế hoạch kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường và khi chấm dứt hoạt động phải thông báo bằng văn bản và nộp lại giấy phép cho CQCP. Một yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể trên nữa, đó là họ phải thực hiện kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố và các kế hoạch về an toàn lao động và bảo vệ sức khỏe; hoàn thành những công việc còn tồn đọng, bảo đảm thực hiện kế hoạch về xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường khi chấm dứt hoạt động. Đối với các loại CTNH đặc thù như chất thải rắn nguy hại, chất thải y tế nguy hại, ngoài việc tuân thủ những quy định chung ở trên, các chủ thể có liên quan phải tuân thủ sự hướng dẫn của những văn bản pháp luật chuyên ngành về vấn đề đó. Ví dụ: Nghị định số 59/2007/NĐ–CP ngày 09/04/2007 về quản lý chất thải rắn và Quy chế quản lý chất thải y tế ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ–BYT ngày 30/11/2007. Các quy định pháp luật về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến quản lý CTNH nêu trên cho thấy, so với quy chế quản lý CTNH ban hành kèm theo Quyết định số 155/1999/QĐ–TTg, nội dung của Thông tư 12 quy định về vấn đề này rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trách nhiệm của các chủ thể trong từng công đoạn quản lý CTNH rất cao. Song song với quá trình đó luôn có sự xuất hiện của các cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Bằng việc định ra các chuẩn mực xử sự, pháp luật buộc các chủ thể có trách nhiệm với hoạt động của mình cao hơn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những quy định này đã gây khó khăn cho các chủ thể trên. Bởi, khi thực hiện đúng những quy định đó thì bản thân các chủ thể này cũng được lợi, họ không phải chịu những chế tài do hành vi trái pháp luật gây ra. Hơn nữa, Nhà nước luôn có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân liên quan đến quá trình quản lý CTNH như: họ có thể sử dụng hệ thống thông tin hoặc thư điện tử để thông báo, trao đổi thông tin về việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký và hoàn thiện các điều kiện hành nghề… Ngoài ra, còn rất nhiều những quy định khác của pháp luật với tính chất mở đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tiến hành các hoạt động quản lý CTNH. 2.3. Xử lý vi phạm pháp luật về quản lý CTNH Để các quy định pháp luật về quản lý CTNH được đưa vào áp dụng triệt để trên thực tế và thực hiện toàn diện trên phạm vi cả nước, rất cần đến những yếu tố: Sự quản lý Nhà nước, ý thức trách nhiệm của các chủ thể liên quan trực tiếp đến quản lý CTNH và những yếu tố khác. Trong đó, sự nhận thức về vai trò trách nhiệm và ý thức tự giác thực hiện của các chủ thể liên quan trực tiếp đến quản lý CTNH là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất. Do đó, chúng ta đã không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức tự giác, phổ biến kiến thức về quản lý CTNH cho mọi chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn xảy ra quá nhiều hành vi vi phạm pháp luật quản lý CTNH bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh các công tác xã hội như tuyên truyền, vận động…, Nhà nước còn đặt ra một hệ thống các chế tài xử lý những hành vi vi phạm trên nhằm mục đích đưa hoạt động quản lý CTNH vào khuôn khổ nhất định, bao gồm các chế tài dân sự, hình sự, hành chính. Theo đó, bất cứ chủ thể nào vi phạm quy định pháp luật về quản lý CTNH sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng. * Trách nhiệm hành chính Hiện nay, những quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã được quy định tại Nghị định số 81/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/08/2006. Theo đó, trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật quản lý CTNH được quy định trong nhiều điều luật khác nhau như: i) Hành vi xả nước thải có chứa CTNH vượt tiêu chuẩn nằm rải rác từ Khoản 14 đến Khoản 25 Điều 10 của Nghị định với mức tiền phạt từ 19.000.000 đồng đến 55.000.000 đồng. ii) Hành vi vi phạm quy định về thải khí, bụi (Điều 11); Vi phạm các quy định về thải chất thải rắn (Điều 14); Vi phạm các quy định về quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải (Điều 15) với mức tiền phạt được quy định từ 5.000.000 đồng đến 37.000.000 đồng. iii) Hành vi vi phạm quy định về ô nhiễm đất (Điều 21); Vi phạm quy định về ô nhiễm môi trường nước (Điều 22); Vi phạm quy định về ô nhiễm không khí (Điều 23); Vi phạm về khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên (Đ24) với mức tiền xử phạt được áp dụng là từ 20.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng. Ngoài chế tài phạt tiền, trong các điều luật trên còn kèm theo hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: tước giấy phép môi trường, tạm thời đình chỉ hoạt động, buộc khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra… Có thể nói, vi phạm hành chính là dạng vi phạm khá phổ biến trong lĩnh vực môi trường nói chung và quản lý CTNH nói riêng. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã phát hiện và xử lý khá nhiều hành vi vi phạm thuộc dạng này. Chẳng hạn như: Ngày 15/08/2007, Cục Cảnh sát môi trường phát hiện hơn 70 bao tải chất thải y tế nguy hại chưa được khử trùng của bệnh viện Việt Đức được bán ra ngoài. Khi điều tra, Thanh tra Cục Bảo vệ môi trường còn phát hiện bệnh viện này chưa đăng ký chủ nguồn sở hữu CTNH với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường [30]. Như vậy, bệnh viện Việt Đức đã có 2 hành vi vi phạm: Hành vi không lập hồ sơ đăng ký có phát sinh CTNH; Hành vi vận chuyển, xử lý CTNH không đúng quy định. Căn cứ vào các quy định pháp luật về lĩnh vực này, Thanh tra Cục Bảo vệ môi trường quyết định xử phạt hành chính bệnh viện Việt Đức 20 triệu đồng, trong đó: - Hành vi không lập hồ sơ đăng ký có phát sinh CTNH vi phạm Khoản 4 Điều 15 (phạt tiền từ 10 triệu đến 15 triệu đồng đối với hành vi không lập hồ sơ, đăng ký có phát sinh CTNH đối với trường hợp phải lập hồ sơ, đăng ký với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh), bị xử phạt 12,5 triệu đồng. - Hành vi vận chuyển và xử lý CTNH không đúng quy định vi phạm Khoản 3 Điều 15 (phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và xử lý CTNH hoặc có chứa chất phóng xạ không đúng quy định về bảo vệ môi trường), bị xử phạt 7,5 triệu đồng. Quản lý CTNH là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, bao gồm nhiều công đoạn. Theo đó, các hành vi vi phạm pháp luật quản lý CTNH cũng rất đa dạng và có nhiều mức độ khác nhau. Trong khi đó, các chế tài xử phạt hành chính thường chỉ mang tính chất răn đe, cảnh cáo nhằm mục đích định hướng xử sự đúng đắn cho các chủ thể và áp dụng đối với những vi phạm chưa thật sự nghiêm trọng. Vì vậy, bên cạnh việc ban hành chế tài xử phạt hành chính, nhà nước ta còn ban hành một loạt các quy định về trách nhiệm hình sự, dân sự đối với các hành vi vi phạm lĩnh vực này. * Trách nhiệm hình sự Bộ Luật Hình sự năm 1999 tuy không có những quy định riêng biệt về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật quản lý CTNH, nhưng đã dành hẳn chương XVII để quy định trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Với 10 điều luật quy định từ Điều 182 đến Điều 191, Bộ Luật Hình sự đã liệt kê ra hàng loạt tội danh có liên quan đến quản lý CTNH như: Tội gây ô nhiễm nguồn nước, gây ô nhiễm đất, tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người, tội gây ô nhiễm không khí… trong đó quy định nhiều khung hình phạt khác nhau tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm. Ví dụ: Một chủ dự án đầu tư của nước ngoài xây dựng nhà máy lớn bên bờ sông Thị Vải. Họ cam kết sẽ có biện pháp để không gây ra ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, nhà máy đã đi vào hoạt động từ nhiều năm nay, nhưng nước thải không được xử lý đã đổ thẳng xuống sông Thị Vải làm ô nhiễm con sông này [30]. Dù đã bị xử phạt hành chính nhưng chủ dự án vẫn cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục của cơ quan có thẩm quyền, gây hậu quả nghiêm trọng. Căn cứ Khoản 1 Điều 183 (Tội gây ô nhiễm nguồn nước), chủ dự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan