Khóa luận Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 4

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIÊN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 4

1. Khái quát chung về thuế nhập khẩu 4

1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế nhập khẩu 4

1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 7

2. Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu 9

2.1. Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu 9

2.2. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 10

3. Những nguyên tắc và quy định của WTO về thuế quan và những vấn đề có liên quan đến thuế quan 15

3.1. Các nguyên tắc chung về thuế quan và thương mại 16

3.2. Các quy định về xác định trị giá hải quan 20

3.3. Các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng 23

3.4.Các quy định về phá giá và thuế chống bán phá giá 25

3.5. Quy định về các biện pháp tự vệ 26

3.6. Các quy định về quy chế xuất xứ 28

CHƯƠNG II 31

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31

1. Quá trình hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam thời gian qua 31

2. Những cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế 35

2.1. Về cam kết chung 36

2.2. Về thuế suất thuế nhập khẩu qua kết quả đàm phán 37

2.3. Về biểu thuế 38

2.4. Trị giá hải quan 39

2.5. Hạn ngạch thuế quan, miễn giảm thuế 40

2.6. Các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu 41

2.7. Hạn chế định lượng nhập khẩu bao gồm cấm, hạn ngạch và chế độ cấp phép nhập khẩu 42

2.8. Các cam kết về trợ cấp 43

2.9. Chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ 43

2.10. Quy tắc xuất xứ 44

2.11. Các thủ tục hải quan khác 44

3. Những điểm tương thích của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam với các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 44

4. Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam còn chưa tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 48

5. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam thời gian qua 52

CHƯƠNG III 56

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐÁP ỨNG 56

YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 56

1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 56

2. Những giải pháp cụ thể 57

2.1. Ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế 57

2.2. Hoàn thiện các biện pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu 59

KẾT LUẬN 61

BẢNG GIẢI THÍCH CHỮ VIẾT TẮT 63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64

 

 

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3793 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương đối. - Giá của mặt hàng nhập khẩu thấp hơn mặt hàng tương tự sản xuất trong nước, kéo giá xuống hoặc làm cho giá mặt hàng tương tự không thể tăng lên. - Và do đó gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến ngành sản xuất tương ứng của nước nhập khẩu. Chủ thể đứng ra khiếu nại về tình trạng hàng nhập khẩu phá giá hoặc có trợ cấp là Bộ quản lý ngành hàng, hoặc đại diện một nhóm các nhà sản xuất có sản lượng đáng kể của mặt hàng đó. Khi doanh nghiệp đứng ra khiếu nại thì phải tập hợp được hơn 50% số đơn vị sản xuất trong ngành ủng hộ và sản lượng của các đơn vị này phải chiếm ít nhất 25% sản lượng toàn ngành. Trước khi nhận được đủ đơn khiếu nại để có thể quyết định tiến hành điều tra thì Chính phủ nước nhập khẩu không được công bố về việc sẽ tiến hành điều tra để tránh xáo trộn trên thị trường. Nhưng nước nhập khẩu cần phải thông báo cho nước xuất khẩu biết về việc nhận được đơn khiếu nại. Sau khi quyết định tiến hành điều tra, chính phủ nước nhập khẩu phải công bố về việc điều tra và cho nước xuất khẩu được biết chi tiết về các đơn khiếu nại. 3.5. Quy định về các biện pháp tự vệ Trong thương mại, tự vệ có nghĩa là một nước có thể hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp khẩn cấp, khi lượng hàng nhập khẩu tăng đột biến do việc giảm thuế quan và đe doạ hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước. Vấn đề tự vệ được nêu tại điều XIX của GATT 1994 và chi tiết hoá trong hiệp định tự vệ. Khi nhận thấy lượng hàng nhập khẩu tăng lên thì biện pháp tự vệ không áp dụng ngay mà chỉ có thể áp dụng sau khi đã tiến hành các bước sau: - Có khiếu nại về việc tăng nhập khẩu gây ra tổn hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước. - Trên cơ sở khiếu nại, một cơ quan do chính phủ chỉ định sẽ tiến hành điều tra. - Kết quả điều tra phải cho thấy mối liên hệ nhân quả giữa tăng nhập khẩu với sự tổn hại nghiêm trọng gây ra cho ngành sản xuất tương ứng. Nếu ngành sản xuất trong nước bị tổn hại không gắn với việc tăng nhập khẩu ví dụ như do sức mua giảm hoặc nếu việc tăng nhập khẩu không phải vì lý do giảm thuế quan mà do hàng nhập khẩu áp dụng công nghệ sản xuất mới nên giá thành giảm đi thì không được áp dụng các biện pháp tự vệ . Bởi vì những trường hợp trên không gắn với việc thực hiện những nghĩa vụ của GATT nên không được áp dụng những điều khoản của hiệp định tự vệ. Có hai loại biện pháp tự vệ có thể được áp dụng: đó là tăng thuế quan và các biện pháp hạn chế định lượng. Việc tăng thuế quan có thể tăng quá mức thuế suất đã ràng buộc. Sự khác nhau giữa biện pháp tự vệ tạm thời và chính thức  Tiêu chí Biện pháp tự vệ tạm thời Biện pháp tự vệ chính thức Thời điểm áp dụng Có thể được áp dụng trước khi tiến hành điều tra Chỉ được áp dụng sau khi đã hoàn tất tiến hành điều tra. Khả năng áp dụng chỉ được áp dụng dưới hình thức tăng thuế quan có thể áp dụng dưới hình thức tăng thuế quan, hạn chế định lượng hoặc cả hai Thời hạn thực hiện chỉ áp dụng không quá 200 ngày có thể áp dụng đến mức tối đa là 4 năm Biện pháp tự vệ tạm thời áp dụng trước khi điều tra, nếu sau điều tra cho thấy tình hình chưa thực sự nghiêm trọng đến mức phải áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời thì khoản chênh lệch thuế quan do tăng thuế hoặc mức tăng thuế quan cao quá mức cần thiết thì khoản thuế quan chênh lệch đã thu sẽ được hoàn trả cho doanh nghiệp Nếu biện pháp tự vệ chính thức được áp dụng và trước đó có áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời thì thời hạn của biện pháp tự vệ chính thức được tính từ ngày áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời. Khi hết thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ chính thức thì có thể đượ gia hạn nhưng phải kèm theo một số điều kiện: - Phải có yêu cầu của ngành sản xuất trong nước. - Ngành sản xuất trong nước phải chứng minh đã thực hiện việc điều chỉnh để tăng cường năng lực cạnh tranh nhưng vẫn bị tổn hại do nhập khẩu gia tăng. - Không áp dụng mức độ tự vệ cao hơn mức độ của biên pháp tự vệ chính thức. - Thời hạn gia hạn tối đa không quá 4 năm (đối với nước đang phát triển thì thời hạn gia hạn tối đa không quá 6 năm) Sau khi hết thời hạn gia hạn thì có thể tiến hành điều tra để áp dụng tiếp biện pháp tự vệ hay không? Việc áp dụng biện pháp tự vệ đối với cùng một loại hàng hoá có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của nước xuất khẩu vì vậy hiệp định tự vệ quy định chỉ có thể tái áp dụng biện pháp tự vệ sau một khoảng thời gian bằng với thời gian biện pháp tự vệ đã được áp dụng trước kia và thời gian sau khichấm dứt biện pháp tự vệ lần trước phải được ít nhất hai năm. Đối với nước đang phát triển chỉ cần sau một khoảng thời gian bằng ½ thời gian đã áp dụng biện pháp tự vệ trước đó là có thể áp dụng lại. Hiệp định tự vệ chỉ cho phép sử dụng biện pháp tự vệ ở mức độ vừa đủ khắc phục thiệt hại, chuyển đổi cơ cấu nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản xuất trong nước. Do vậy nếu sử dụng biện pháp hạn chế định lượng thì biện pháp này không được làm giảm mức nhập khẩu xuống dưới mức trung bình của 3 năm gần nhất trước khi áp dụng biện pháp tự vệ. Biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó chiếm không quá 3%; và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. 3.6. Các quy định về quy chế xuất xứ Nếu thương mại quốc tế diễn ra trong một hoàn cảnh lý tưởng không có phân biệt đối xử không có hạn chế định lượng, không có trợ cấp, phá giá…thì vấn đề xác định xuất xứ hàng hoá sẽ không phải đặt ra. Sở dĩ phải xác định xuất xứ tức là xác định nước được coi là nơi sản xuất ra hàng hoá là vì: - Để xem hàng hoá đó có được hưởng ưu đãi thương mại hay không ? một số nhóm nước hoặc tổ chức khu vực ký với nhau các thoả thuận về ưu đãi thuế quan chẳng hạn. Để tránh các nước ngoài nhóm lợi dụng ưu đãi này thì cần phải xác định để chắn chắn là hàng hoá xuất xứ từ nước được hưởng ưu đãi. - Để hạn chế định lượng nhập khẩu từ một số nước nhất định ví dụ các nước được áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may và để biết được một nước đã xuất khẩu vào thị trường nước khác hết lượng hạn ngạch đã cho chưa thì phải xác định xuất xứ. - Để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Để có thể áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp thì cần phải xác định được đâu là hàng hoá xuất xứ từ nước có hành vi cạnh tranh không lành mạnh; - Để phục vụ cho mục đích thống kê. Quy tắc xuất xứ là tập hợp các quy tắc được một nước áp dụng để xác định xuất xứ của hàng xuất- nhập khẩu. Nếu toàn bộ quá trình sản xuất ra một loại hàng hoá từ khai thác nguyên liệu, gia công, chế biến thành phẩm đều diễn ra tại một nước thì nước xuất xứ chính là nước sản xuất ra hàng hoá (Xuất xứ thuần tuý). Nền kinh tế hiện đại với đặc trưng là phân công lao động rõ rệt và dịch chuyển đầu tư từ nước này sang nước khác đã làm cho hàng hoá ngày càng mang tính quốc tế hoá. Một mặt hàng có thể trải nhiều công đoạn chế biến hoặc bao gồm cấu kiện sản xuất tại nhiều nước khác nhau, nhưng việc xác định xuất xứ chỉ cho phép ta chọn một nước để coi là nơi xuất xứ. Do vậy nước được chọn không hoàn toàn là nước sản xuất ra mặt hàng đó, nên chỉ được coi là nơi sản xuất ra mặt hàng đó. Có hai phương pháp chính để xác định xuất xứ hàng hoá: Một là, theo tỷ lệ %. Nếu giá trị gia công, chế biến tại một trong các nước tham gia sản xuất nên mặt hàng đạt một tỷ lệ nhất định thì hàng hoá được coi là xuất xứ từ nước đó. ASEAN lấy 40% làm tỷ lệ xác định xuất xứ để được hưởng ưu đãi của hiệp định CEPT. Hai là, theo chuyển dịch dòng thuế. Nếu sau khi gia công chế biến tại một nước mà tính chất hàng hoá thay đổi đến mức có thể phân loại thành một dòng thuế khác so với trước khi gia công, chế biến thì hàng hoá đó có thể coi là xuất xứ tại nước đó. Với hiệp định về quy chế xuất xứ hàng hoá ( hiệp định ROO), WTO chính thức đưa ra vấn đề xuất xứ hàng hoá vào phạm vi điều chỉnh của mình. Hiệp định ROO yêu cầu các nước hài hoà hoá các quy tắc xác định hàng hoá dựa trên những quy tắc mẫu do một uỷ ban ký thuật đưa ra. Do việc soạn thảo các quy tắc mẫu đòi hỏi phải có thời gian nên hiệp định ROO cũng đề những nguyên tắc các nước phải tuân thủ trong thời gian quá độ và sau khi kết thúc thời kỳ quá độ. Những yêu cầu của thời kỳ quá độ: Trong thời gian trước khi các quy tắc mẫu được soạn thảo xong, các nước phải đảm bảo: - Các quy tắc để xác định xuất xứ phải rõ ràng rành mạch; - Quy chế xuất xứ không được dùng làm công cụ để theo đuổi các mục đích thương mại, không được làm ảnh hưởng tới thương mại quốc tế. - Tuân thủ nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia khi xác định xuất xứ; Các yêu cầu đặt ra cho quy chế xuất xứ sau khi hài hoà: Sau khi hài hoà , quy chế xuất xứ của mỗi nước phải đảm bảo: - Được áp dụng trong tất cả các trường hợp cần thiết phải xác định xuất xứ trên cơ sở không phân biệt đối xử; - Tuân thủ nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia khi xác định xuất xứ; - Mang tính khách quan, dễ hiểu và dễ dự đoán; - Được thực hiện một cách nhất quán thống nhất. - Dựa trên các tiêu chuẩn thuận; - Chỉ công nhận xuất xứ thuần tuý hoặc xuất xứ tại nước cuối cùng có sự thay đổi cơ bản tính chất hàng hoá. Phương pháp xác định xuất xứ theo tỷ lệ % vẫn có thể được áp dụng như một phương pháp bổ sung khi không xác định được khi nào hàng hoá có sự thay đổi cơ bản về tính chất. Hiệp định ROO không áp dụng để xác định xuất xứ hàng hàng được hưởng ưu đãi thương mại mà nó chỉ áp dụng để xác định xuất xứ của hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử; hàng hoá nhập khẩu chịu thuế suất tối huệ quốc, hàng hoá bị đánh thuế chống phá giá hoặc thuế đối kháng, hàng hoá bị áp dụng các biện pháp tự vệ. Như vậy hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi trong các khuôn khổ AFTA không bắt buộc phải tuân thủ hiệp định ROO. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Quá trình hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam thời gian qua Đối với một nhà nước, thuế đóng vai trò rất quan trọng. Thuế, trong đó có thuế nhập khẩu là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Nhận thức được điều này, Nhà nước ta đã thành lập các cơ quan Hải quan ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung ở nước ta, do Nhà nước độc quyền ngoại thương nên chỉ có các tổ chức kinh tế nhà nước mới được phép trao đổi hàng hóa với nước ngoài thông qua các tổ chức xuất, nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, Nhà nước thực hiện chế độ thu, bù chênh lệch ngoại thương. Nhiệm vụ chủ yếu của chế độ này là đảm bảo về mặt tài chính cho các tổ chức xuất, nhập khẩu, chưa đặt vấn đề quản lý các hoạt động ngoại thương và mục tiêu thu Ngân sách nhà nước. Chuyển sang cơ chế thị trường, cùng với chủ trương mở cửa nền kinh tế, hoạt động ngoại thương trở nên đa dạng, phong phú, mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, song nó cũng phát sinh ra những vấn đề tiêu cực, đòi hỏi có sự quản lý của Nhà nước thông qua các chính sách pháp luật, trong đó có pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chính vì vậy, ngày 29/12/1987 Quốc hội đã ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch để thay thế cho chế độ thu, bù chênh lệch ngoại thương. Đây là một công cụ quản lý hữu hiệu cho hoạt động thương mại quốc tế nước ta lúc bấy giờ. Qua 4 năm thực thi, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch đã bộc lộ những nhược điểm và tỏ ra không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Ngày 26/12/1991 Quốc hội đã ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hạng mậu dịch năm 1987. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào những năm 1993. Nhìn chung Luật thuế xúât nhập khẩu ban hành trong thời kỳ này trong điều kiện nước ta chưa tham gia vào một tổ chức thương mại nào. Do đó Luật thuế xuất nhập khẩu không bị chi phối bởi yêu cầu hội nhập. Năm 1995 Việt nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã ký kết hiệp định thương mại với EU và chuẩn bị những bước cần thiết để gia nhập WTO. So với những quy định của tổ chức này thì Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn thiếu những quy định để có thể thực hiện được những cam kết của Việt Nam với những tổ chức này cũng như thiếu những quy định để tạo những công cụ pháp lý hỗ trợ có hiệu quả, giúp bảo vệ lợi ích quốc gia trong điều kiện mở rộng quan hệ thương mại với các nước. Những thiếu sót cụ thể là: - Trong Luật thuế Xuất, Nhập khẩu 1991 và 1993 chỉ quy định thuế suất đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi. Thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký các điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam với điều kiện phải ghi rõ từng mặt hàng với số lượng cụ thể và mức thuế suất ưu đãi được xác định theo từng nước cụ thể. Việc quy định về thuế suất ưu đãi mang tính song phương như vậy không phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế suất và ưu đãi tối huệ quốc. Việc Nước ta gia nhập ASEAN đã đòi hỏi phải có những quy định để tạo thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng như được hưởng những ưu đãi từ những cam kết này. Việc Ký hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) với ASEAN Luật thuế XNK nước ta phải phải bổ sung thêm một mức thuế suất thuế nhập khẩu nữa ngoài hai mức thuế nhập khẩu nêu trên là mức thuế suất ưu đãi đặc biệt. - Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này cho thấy có tình trạng hàng hoá của nước khác bán phá giá vào Việt Nam do bán phá giá hoặc do được sự trợ cấp của nước xuất khẩu hoặc trường hợp hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước khác áp dụng chính sách phân biệt đối xử khi nhập khẩu vào nước họ, nhưng ta chưa có được các biện pháp đối phó phù hợp, thoả đáng. Bởi vì Luật Thuế XNK chưa có quy định này. Biện pháp chủ yếu mà ta thường áp dụng là nâng mức thuế nhập khẩu của hàng hoá đó lên. Nhưng vì là mức thuế của biểu thuế chung nên mức thuế này cũng được áp dụng chung cho các nước khác. Điều này vừa không thể hiện được thái độ của Nhà nước ta đối với những hành vi chơi xấu trong quan hệ thương mại của một số quốc gia với Việt Nam. Đồng thời làm ảnh hưởng xấu quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác. Để phù hợp với các cam kết quốc tế về ưu đãi thuế nhập khẩu gồm ưu đãi tối huệ quốc trong các hiệp định thương mại giữa Việt nam với các nước, ưu đãi đặc biệt với các nước ASEAN và yêu cầu hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đúng cam kết quốc tế và cũng để thể hiện rõ chính thuế nhập khẩu được phân biệt theo mức độ quan hệ giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế với các nước trên thế giới. Hơn nữa cũng là để tăng cường các công cụ pháp lý nền sản xuất trong nước theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập trong điều kiện tự do hoá thương mại mà Việt Nam đã cam kết khi hội nhập với khu vực và thế giới. Trên tinh thần đó, ngày 20/05/1998 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu . Trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1998 có quy định: thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu gồm có: - Thuế suất phổ thông áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. - Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. - Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt Nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do hoặc thương mại biên giới. Đồng thời Luật thuế XNK sửa đổi, bổ sung năm 1998 còn quy định sẽ đánh thuế nhập khẩu bổ sung đối với trường hợp : - Hàng nhập khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu thấp hơn giá bán thông thường và việc đó gây tổn thất hoặc cản trở sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự của Việt Nam. - Hàng hoá có sự trợ cấp của nước xuất khẩu và việc nhập khẩu những hàng hoá này gây tổn thất hoặc cản trở sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự. - Hàng hoá nhập khẩu từ nước mà nước đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hoá của Việt Nam. Uỷ ban thường vụ quốc hội sẽ quy định việc áp dụng đánh thuế bổ sung cho các trường hợp này. Để phù hợp với các yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết dựa trên nguyên tắc và chuẩn mực của WTO và do sức ép của tiến trình đàm phán của Việt Nam với các nước để gia nhập WTO, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu đó cụ thể: - Ngày 06/06/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2002/NĐ-CP quy định về việc xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của hiệp định thực hiện điều 7 hiệp định chung về thuế quan và thương mại. Bộ Tài chính ban hành Thông tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP nêu trên. - Ngày 25/05/2002 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam; Chính phủ ban hành Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 08/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. - Ngày 25/5/2002 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Ngày 29/04/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam Ngày 20/08/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Ngày 31/8/2004 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 87/2004/TT-BTC Hướng dẫn thi hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 11/07/2005 Chính phủ ban hành hai nghị định là:Nghị định 89/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Nghị định số 90/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Ngày 14/06/2005 Quốc hội đã thông qua hai Luật là Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 và Luật số 42/2005/QH11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 ; Ngày 06 tháng 12 năm 2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 149/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Bộ Tài chính ban hành Thông tư 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005.Hướng dẫn thi hành nghị định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 15 tháng 12 năm 2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2005/NĐ-CP Quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thay thế cho Nghị định số 60/2002/NĐ-CP. Trong thời gian gần đây pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thường xuyên sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn mới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và có nhiều nội dung mới đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO vào cuối năm 2006. Những nội dung sửa đổi cơ bản trên của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và các văn bản pháp luật về thuế nhập khẩu khác đã thể hiện được mục tiêu, yêu cầu cải cách hệ thống chính sách thuế theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 2. Những cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam cũng như các quốc gia khác khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế đều phải ràng buộc mình với các cam kết thương mại quốc tế. Nội dung của các cam kết đó thường là dỡ bỏ các rào cản thương mại trong đó có các rào cản về thuế nhập khẩu để thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại thế giới. Để hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã ký kết một số cam kết song phương hoặc đa phương có liên quan đến thuế nhập khẩu như Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) hay Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Các cam kết này đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc cắt giảm thuế quan và đòi hỏi các nước tham gia ký kết phải từng bước tiến tới xóa bỏ các rào cản phi thuế quan đối với các hoạt động thương mại quốc tế giữa hai quốc gia, trong khu vực hay liên khu vực. Với quyết tâm và nỗ lực của mình, Việt Nam đã và đang thực hiện đúng các cam kết đó. Tuy nhiên, WTO với tư cách là Tổ chức thương mại thế giới mới là “sân chơi” thương mại lớn với số nước thành viên đông nhất và có phạm vi hoạt động rộng nhất thế giới. Tiền thân của WTO là GATT (Hiệp đinh chung về thuế quan và thương mại). Kết thúc vòng đàm phán Urugoay (năm 1994) các nước thành viên GATT đã thống nhất thông qua một quyết định quan trọng là thành lập Tổ chức thương mại thế giới WTO. WTO là tổ chức thương mại quốc tế có những luật lệ và quy tắc buôn bán giữa các nước trên thế giới. WTO cũng đặt ra những quy định về thuế quan đối với từng thành viên. Ngày 07/11/2006, sau một quá trình nỗ lực đàm phán với hơn 100 thành viên của WTO, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. Để đạt được điều này, Việt Nam phải ký kết những cam kết về thuế nhập khẩu theo quy định của WTO. Cụ thể như sau: 2.1. Về cam kết chung Việt Nam cam kết với các thành viên gồm: - Ràng buộc mức thuế suất trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu của mình. - Chỉ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ; - Tại cửa khẩu ngoài thuế nhập khẩu không sử dụng các loại phí, lệ phí và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân sách. 2.2. Về thuế suất thuế nhập khẩu qua kết quả đàm phán Mức thuế suất trong đàm phán 10.600 dòng thuế thì có tỷ lệ: 35% mức thuế suất giảm, 35% mức giữ nguyên và 30% mức cao hơn hiện hành. Mức bình quân đơn giản giảm 23% so với hiện hành, cụ thể: các nhóm mặt hàng nhập khẩu chính như nông sản mức giảm là 21,4%; phương tiện vận tải giảm 38,4%; dệt may là 37,3%; khoáng sản là 13,5%; máy móc thiết bị điện là 18,46%.... Mức thuế suất bình quân đơn giản hiện hành la 17,4%. Thuế suất bắt đầu là 17,2% năm 2007, thuế suất kết thúc là 13,4% và thực hiện trong vòng 5-7 năm. Thuế nhập khẩu đối với hàng phi nông nghiệp giảm 23,9%. Cụ thể: thuế suất hiện hành là 16,6%, thuế suất bắt đầu là 16,1%, thuế suất kết thúc là 12,6% thực hiện dân trong vòng 5-7 năm. Trong đó nhóm hàng giảm thuế mạnh là dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ, giấy, máy móc thiết bị điện, điện tử Thuế nhập khẩu đối với hàng nông nghiệp: thuế suất hiện hành là 23,5%, thuế suất tại thời điểm gia nhập là 25,2%, thuế suất cuối cùng là 21% và thực hiện trong vòng 5 năm. Trong đó nhóm hàng giảm mạnh là cà phê, thịt và sản phẩm thịt đã chế biến, rau quả tươi, bánh kẹo, bia rượu và đồ uống khác. Nhóm hàng giảm không đáng kể hoặc giữ nguyên là thuốc lá, đường, thịt gà. Nhóm hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan bao gồm trứng gia cầm, đường, muối, thuốc lá lá. Việt Nam cam kết tham gia một số hiệp định tự do hóa theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng và thời gian giảm thuế là từ 3-5 năm. Các mức thuế suất dao động từ 0-60%, trong đó khoảng 52% dong thuế có mức thuế suất khoảng từ 0-5%. Về nguyên tắc, thuế suất áp dụng đối với hàng nhập khẩu không vượt quá 60% giá CIF tại địa điểm thông quan hàng hóa. Cùng với việc loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan và gộp các loại phụ thu nhập khẩu vào thuế nhập khẩu để tăng cường tính minh bạch. Do vậy biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số mức thuế suất MFN cao hơn 60% Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Đối với bốn mặt hàng này, mức thuế suất trong hạn ngạch là tương đương mức thuế suất MFN hiện hành là: trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30% và muối ăn 30% [Văn kiện và biểu thuế gia nhập WTO của Việt Nam-Bộ Tài chính] 2.3. Về biểu thuế Một số thành viên WTO cho rằng hệ thống thuế nhập khẩu Việt Nam hiện tại còn thiếu minh bạch, cần làm rõ mức thuế suất trần của khung thuế suất và mối quan hệ giữa mức trần của khung thuế suất với mức thuế nhập khẩu áp dụng thực tế. Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ấn định mức thuế suất trần của khung thuế suất áp dụng thực tế ở cấp độ 8 số ( được quy định tại Quyết định số 110/ 2003/QĐ- BTC ngày 25/07/2003). Việc thay đổi thuế suất được quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến của giới doanh nghiệp và các bộ, ngành hữu quan. Khi có quyết định thay đổi đều được đăng trên công báo trước khi áp dụng cũng phù hợp với điều X.2 của hiệp định GATT 1994. Việt Nam không có ý định điều chỉnh mức trần của khung thuế suất nhập khẩu ưu đãi bằng với mức thuế suất ràng buộc trong biểu cam kết hàng hóa. Mức khung thuế suất của Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục được áp dụng để xác định mức thuế suất thuế nhập khẩu. Việt Nam xác nhận những mức thuế suất này sẽ không trái với cam kết và nghĩa v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (82).DOC
Tài liệu liên quan