MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích của khoá luận 1
3. Phạm vi nghiên cứu 1
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu của khoá luận 2
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ 3
CÔNG TY TÀI CHÍNH 3
1. Khái quát chung về công ty tài chính 3
1.1. Khái niệm công ty tài chính 3
1.1.1. Sự ra đời của công ty tài chính 3
1.1.2. Đặc điểm của công ty tài chính 7
1.2. Vai trò của công ty tài chính 10
1.3. Các loại hình công ty tài chính 11
2. Pháp luật về công ty tài chính 12
2.1. Khái niệm pháp luật về công ty tài chính 12
2.2. Nội dung pháp luật về công ty tài chính 14
CHƯƠNG II 17
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 17
1. Quy định về thành lập, giải thể, phá sản và thanh lý công ty tài chính 17
1.1. Quy định về thành lập công ty tài chính 18
1.2. Quy định về phá sản, giải thể và thanh lý công ty tài chính 20
1.2.1. Phá sản CTTC 20
1.2.2. Giải thể CTTC 21
2. Quy định về tổ chức, quản trị, điều hành và kiểm soát của công ty tài chính 23
2.1. Tổ chức của công ty tài chính 23
2.2. Quản trị, điều hành và kiểm soát công ty tài chính 24
3. Quy định về hoạt động của công ty tài chính 26
3.1. Hoạt động huy động vốn 26
3.1.1. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi 27
3.1.2. Huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác 28
3.1.3. Huy động vốn bằng cách vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế 28
3.2. Hoạt động tín dụng 30
3.3. Các hoạt động khác 31
4. Quy định về chế độ tài chính, hạch toán và báo cáo 32
4.1. Chế độ tài chính 32
4.1.1. Vốn pháp định 32
4.1.2. Vốn điều lệ 33
4.1.3. Vốn huy động 34
4.1.4. Các quỹ 35
4.2. Hạch toán và báo cáo 35
CHƯƠNG III 37
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 37
VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 37
1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về công ty tài chính 37
2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty tài chính 38
2.1. Về điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động 38
2.2. Quản trị, điều hành công ty tài chính 39
2.3. Hoạt động huy động vốn 39
2.4. Hoạt động cho vay 40
2.5. Quy định về các trường hợp giám sát, kiểm tra 41
2.6. Tạo hành lang pháp lý đồng bộ và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước 42
KẾT LUẬN 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2398 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về công ty tài chính - Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ngoài phải được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép thực hiện các hoạt động ngân hàng hoặc hoạt động của CTTC và được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép hoạt động tại Việt Nam.
Tổ chức muốn thành lập CTTC sau khi đã đáp ứng đủ các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải nộp hồ sơ xin cấp phép và lệ phí giấy phép tới Ngân hàng Nhà nước (Cụ thể theo hớng dẫn quy định tại Điều 8 Thông tư 06 hướng dẫn thực hiện nghị định 79/2002/NĐ- CP ngày 04/10/2002)
Sau khi CTTC đã được cấp giấy phép, muốn tiến hành khai trương hoạt động phải hoàn tất các thủ tục như: có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y, có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, có đủ vốn pháp định và có trụ sở phù hợp với yêu cầu hoạt động của CTTC, phải đăng các báo thông báo các nội dung chủ yếu về việc thành lập công ty…CTTC có thể bị thu hồi giấy phép hoạt động nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 29 Luật các tổ chức tín dụng, khi:
- Có chứng cứ là hồ sơ xin cấp giấy phép có những thông tin cố ý làm sai sự thật;
- Sau 12 tháng kể từ ngày được cấp phép mà tổ chức đó không hoạt động;
- Tự nguyện hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc giải thể;
- Chia tách, sáp nhập, hợp nhất, phá sản;
- Hoạt động sai mục đích;
- Không có đủ các điều kiện để hoạt động.
Sau khi bị thu hồi Giấy phép, CTTC phải chấm dứt ngay mọi hoạt động đã ghi trong giấy phép.
Như vậy, môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các CTTC ở Việt Nam được xác lập khá cơ bản và đầy đủ. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý tốt cho các công ty khi tiến hành hoạt động. Những điều kiện, tiêu chuẩn pháp luật đa ra khá chi tiết, nhiều quy định đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi đối với loại hình kinh doanh này. Chẳng hạn như các quy định về vốn pháp định, tiêu chuẩn đối với thành viên sáng lập, quản trị, điều hành, biện pháp kiểm soát đặc biệt. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước phát triển loại hình tổ chức tín dụng này, làm phong phú thêm các loại hình tổ chức tín dụng trong thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế các quy định này của pháp luật nhiều lúc còn mang tính hình thức với quá nhiều giấy tờ và các thủ tục phức tạp. Tại điểm a khoản 1 điều 8 Nghị định số 79/2002/NĐ- CP ngày 4/10/2002 quy định về điều kiện được cấp giấy phép thành lập CTTC “phải có nhu cầu về hoạt động của CTTC trên địa bàn xin hoạt động”. Đây là một quy định còn cứng nhắc, vô hình chung hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Đánh giá một địa bàn có nhu cầu hoạt động của CTTC hay không phụ thuộc vào sự phân tích thị trường và chiến lược kinh doanh của mỗi công ty. Riêng đối với các cơ quan quản lý nhà nước (Ngân hàng nhà nước) cũng gặp khó khăn trong việc thẩm định cấp giấy phép, trong việc xác định như thế nào là có nhu cầu hoạt động của CTTC khi không có những chuẩn mực cụ thể. Hay quy định “phải có phương án kinh doanh khả thi” cũng rất mơ hồ, không có chuẩn mực, hướng dẫn cụ thể để có thể xác định như thế nào là khả thi. Từ đó dẫn đến tình trạng thẩm định không đạt kết quả cao, tuỳ tiện trong việc cấp giấy phép.
1.2. Quy định về phá sản, giải thể và thanh lý công ty tài chính
Nếu thành lập CTTC là một thủ tục bắt buộc hình thành nên chủ thể mới thì giải thể, phá sản, thanh lý là nhằm chấm dứt tư cách pháp nhân của CTTC với những điều kiện và hệ quả khác nhau. Theo quy định tại Điều 37 của Nghị định 79/2002/NĐ- CP về tổ chức và hoạt động của CTTC thì việc phá sản, giải thể, thanh lý CTTC được thực hiện theo các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định của Ngân hàng nhà nước.
1.2.1. Phá sản CTTC
Là một doanh nghiệp thành lập theo pháp luật Việt Nam do vậy khi CTTC lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì theo quy định của Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của Tổ chức tín dụng mà tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì có thể bị toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của Luật Phá sản. Các tài sản thanh lý cũng được giải quyết theo quy định của Luật phá sản.
1.2.2. Giải thể CTTC
Giải thể một CTTC cũng giống như giải thể một Tổ chức tín dụng, đó là việc chấm dứt sự tồn tại, xoá tên tổ chức tín dụng đó trong sổ đăng ký kinh doanh. Giải thể Tổ chức tín dụng có bản chất pháp lý khác với phá sảnTổ chức tín dụng về lý do, nguyên nhân, thủ tục tiến hành và hậu quả pháp lý. Đây là một thủ tục hành chính, có thể xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Theo quy định của luật các Tổ chức tín dụng thì việc giải thể của Tổ chức tín dụng được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Tự nguyện xin giải thể nếu có khả năng thanh toán hết nợ và được ngân hàng Nhà nước chấp thuận;
- Khi hết hạn hoạt động mà Tổ chức tín dụng không xin gia hạn hoặc xin gia hạn mà không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
- Bị thu hồi giấy phép hoạt động.
CTTC giải thể phải tiến hành thanh lý ngay dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Mọi chi phí liên quan đến thanh lý do CTTC chịu trách nhiệm.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế vận hành theo các quy luật khách quan, nó tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong đó muốn tồn tại được các doanh nghiệp vừa phải hợp tác vừa phải cạnh tranh nhau một cách mạnh mẽ. Điều này mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho các doanh nghiệp có vốn, sự quản lý, hoạt động kinh doanh hiệu quả. Song lại là sự đào thải vô cùng khắc nghiệp với các doanh nghiệp yếu kém, không có sức cạnh tranh trên thị trường. CTTC cũng không nằm ngoài quy luật đào thải này. Do dặc thù các hoạt động tín dụng ngân hàng có độ rủi ro rất lớn và có ảnh hưởng dây chuyền, để đảm bảo lợi ích của khách hàng và của nền kinh tế, ngoài các biện pháp bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro Nhà nước phải áp dụng cơ chế kiểm soát để hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng phá sản của các tổ chức tín dụng. Khi lâm vào trạng chuẩn bị phá sản, các công ty này sẽ được áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt. Mục đích chủ yếu của chế độ kiểm soát đặc biệt với CTTC là nhằm giúp đỡ cho CTTC đang gặp khó khăn về thanh toán, chi trả vượt qua được khó khăn tài chính đó, bảo vệ sự an toàn cho CTTC và cho cả hệ thống tín dụng. Trong một thời gian cho phép (thường khoảng 2 năm) các CTTC cùng sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước sẽ đề ra các biện pháp cần thiết để khắc phục khó khăn, khôi phục hoạt động bình thường. Trong trường hợp xấu nhất, khi mọi biện pháp khắc phục đều không hiệu quả thì CTTC sẽ bị toà án mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản theo Luật phá sản, chấm dứt sự tồn tại của công ty.
Sau khi pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, CTTC được ban hành ngày 24/5/1990 với quy định hình thức tồn tại của CTTC là công ty quốc doanh hoặc công ty cổ phần, thị trường tài chính Việt Nam đã chứng kiến sự ra đời của hai CTTC đó là CTTC cổ phần Sài Gòn (Saigon joint stock company) và CTTC cổ phần SEAPRODEX. Sau khi thành lập các công ty này hoạt động không hiệu quả, gặp nhiều khó khăn và lúng túng về mục tiêu, phương hướng…cuối cùng tới nay đã phải chuyển đổi sang hình thức hoạt động khác: CTTC cổ phần Sài Gòn sáp nhập với đối tác khác để hình thành Ngân hàng Việt á, còn CTTC Seaprodex đã không còn hoạt động.
Hiện nay, ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép cho 9 CTTC. Ngoài 2 CTTC mới được thành lập dưới dạng CTTC 100% vốn nước ngoài là công ty tài chính Prudential Việt Nam của Tập đoàn Prudential và công ty TNHH tài chính Việt-Sài Gòn của Ngân hàng Société Générale (Pháp) thì các CTTC còn lại đều là thành viên của các tổng công ty với hoạt động chủ yếu là hỗ trợ vốn cho các thành viên trong tổng công ty.
Từ thực tế trên chúng ta có thể thấy, các cơ sở pháp luật để CTTC thành lập và hoạt động đã có từ những năm 1990, được quy định lại cụ thể và rõ ràng trong Nghị định số 79/2002/NĐ- CP ngày 4/10/2002, song cho tới nay số lượng và hiệu quả hoạt động của các CTTC còn mờ nhạt chưa phát huy được hiệu quả vai trò của mình trong nền kinh tế. 7 trên tổng số 9 công ty tài chính được phép hoạt động ở Việt Nam hiện nay là thuộc các Tổng công ty nhà nước, với mục tiêu hoạt động chủ yếu là tối đa hoá lợi ích cho các tổng công ty này và cung ứng vốn cho các dự án đầu tư của các bộ phận, doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty. Trong một thị trường tiềm năng, có tốc độ phát triển kinh tế lớn thứ hai thế giới và tỷ lệ người dân tiếp xúc với các dịch vụ tài chính ngân hàng còn thấp (khoảng dưới 10%) như nước ta, đòi hỏi cần phải có đa dạng hơn nữa các loại hình công ty tài chính. Từ đó mới đáp ứng tốt hơn được các nhu cầu về vốn và nhất là khai thác được lĩnh vực tài chính tiêu dùng hiện còn bị bỏ ngỏ trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
2. Quy định về tổ chức, quản trị, điều hành và kiểm soát của công ty tài chính
2.1. Tổ chức của công ty tài chính
Tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động, loại hình tổ chức hoạt động mà pháp luật quy định cơ cấu tổ chức của các CTTC. Đối với những CTTC có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng thì cơ cấu tổ chức bao gồm hội sở chính và đơn vị trực thuộc. Trong đó hội sở chính là cơ quan quản lý và chỉ đạo hoạt động của toàn hệ thống, đồng thời trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Các đơn vị trực thuộc là các sở giao dịch, các chi nhánh, văn phòng đại diện được lập ở những nơi có nhu cầu hoạt động kể cả ở nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Bộ máy giúp việc tại trụ sở chính, chi nhánh của CTTC bao gồm: Văn phòng, các phòng (ban) chuyên môn, nghiệp vụ và các phòng giao dịch. CTTC được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập để hoạt động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và tư vấn theo quy định của pháp luật.
Trừ các công ty lớn như CTTC Dầu khí có mạng lưới chi nhánh khá lớn ở các thành phố như: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Hải Phòng, Cần Thơ, Nam Định. Cho đến nay các CTTC ở nước ta có mạng lới chi nhánh còn rất ít. Chủ yếu là các công ty mới thành lập và được cấp phép hoạt động trong 5 năm gần đây, do đó các công ty tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định số 24/2003/QĐ- NHNN ngày 7/01/2003 Ban hành quy định về việc mở và chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục mở sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện của CTTC gồm nhiều yếu tố, trong đó có các điều kiện về thời gian hoạt động tối thiểu là 2 năm kể từ ngày đi vào hoạt động và điều kiện về hoạt động kinh doanh có lãi là trong 2 năm gần nhất. Những điều kiện này đối với các công ty mới thành lập và đi vào hoạt động trong thời gian ngắn là rất khó.
2.2. Quản trị, điều hành và kiểm soát công ty tài chính
Song song với bộ máy, cơ cấu tổ chức, việc quản trị, điều hành, kiểm soát của các CTTC cũng được quy định cụ thể và chặt chẽ tại Nghị định số79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002; Thông tư số 06/2002/TT-NHNN ngày 23/12/2002 và chịu sự chi phối của các luật như: luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… Theo đó, CTTC được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc (Giám đốc).
- Trong CTTC, Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất, gồm tối thiểu là 3 thành viên và không quá 11 thành viên có chức năng quản trị công ty theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Các thành viên của Hội đồng quản trị phải là những người có uy tín, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết về hoạt động ngân hàng-tài chính.
- Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính của công ty, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán và hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ của công ty. Ban kiểm soát có số thành viên tối hiểu là 3 người, phải là những người có bằng đại học về tài chính, có đạo đức nghề nghiệp.
- Tổng giám đốc (Giám đốc) chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị điều hành hoạt động hàng ngày theo nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Tổng giám đốc (giám đốc) phải có trình độ đại học trở lên về chuyên nghành kinh tế, ngân hàng- tài chính, ít nhất có 5 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực ngân hàng- tài chính, có năng lực điều hành và phải cư trú ở Việt Nam trong thời gian đương nhiệm.
Hiện nay, vì các CTTC đã được thành lập ở Việt Nam đều có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty, và tuỳ thuộc quy mô hoạt động mà cơ cấu các bộ phận này ở các công ty là khác nhau. Có thể nói, pháp luật quy định về việc phân công các bộ phận lãnh đạo, quản lý CTTC khá cụ thể, rõ ràng. Tương tự các tổ chức tín dụng khác, các công ty này đều nằm dưới sự quản lý điều hành của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (giám đốc), ban kiểm soát. Mỗi bộ phận có các chức năng, nhiệm vụ riêng, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho các phòng, ban thực hiện tốt công việc của mình. Ngoài những quy định cụ thể về các tiêu chuẩn của mỗi thành viên, pháp luật còn có những quy định chung, cấm một số đối tượng không được là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc).
- Thứ nhất :Người điều hành, quản lý CTTC phải là những người có năng lực, trình độ, có khả năng theo dõi hoạt động của công ty, có như thế họ mới có thể đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Chính vì thế pháp luật quy định người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang bị kết án về các tội phạm an ninh quốc gia, các tội nghiêm trọng xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, sở hữu của công dân; các tội nghiêm trọng về kinh tế…không được tham gia quản lý, điều hành CTTC. Đó là vì họ là những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức, uy tín, trình độ, không có khả năng điều hành và quản lý công ty. Nếu họ tham gia quản lý cũng sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động, tới hình ảnh công ty. Thậm chí có thể do không đủ năng lực hành vi, hoặc động cơ đạo đức không tốt họ sẽ có những hành động không thể lường trước gây hậu quả không tốt tới toàn bộ hệ thống tín dụng.
- Thứ hai: pháp luật còn quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị không được đồng thời là Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) CTTC. Chủ tịch Hội đồng quản trị không được phép tham gia Hội đồng quản trị hoặc tham gia điều hành Tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con của CTTC. Các thành viên Ban kiểm soát không được đồng thời là người điều hành, nhân viên tại CTTC; trưởng ban kiểm soát không được đồng thời là thành viên ban kiểm soát, người điều hành tổ chức tín dụng khác. Tổng Giám đốc (Giám đốc) không được đồng thời là người điều hành hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đó là công ty con của CTTC. Những đối tượng này là những người quản lý do vậy hơn bất cứ một nhân viên nào khác trong công ty họ phải là những người trung thành với các quyền lợi của CTTC, không được sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của CTTC, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để thu lợi cá nhân hoặc để phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác làm tổn hại tới lợi ích của CTTC. Chính vì vậy các quy định này là hết sức phù hợp nhằm ngăn chặn các quyết định thiếu khách quan, hạn chế sự thao túng quyền lực vào tay một người, khống chế hoạt động của CTTC.
Trên thực tế các quy định cấm bổ nhiệm đối với các đối tượng này rất hợp lý nên được thực hiện khá triệt để. Tuy nhiên các quy định về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành CTTC còn có điểm thiếu hợp lý như tại khoản 12 điều 3 Quyết định số 516/2003/QĐ- NHNN ngày 26/5/2003 Ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng phi ngân hàng quy định “bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (giám đốc) không được bầu vào Hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc bổ nhiệm làm Tổng giám đốc (giám đốc)”. Quy định này thiếu tính khách quan, mang tính quy chụp. Điều quan trọng của một thành viên ban điều hành, lãnh đạo công ty là khả năng, đạo đức của chính bản thân họ. Nếu vì có người thân đã tham gia quản lý công ty mà những tài năng không được trọng dụng là rất lãng phí chất xám của xã hội.
3. Quy định về hoạt động của công ty tài chính
3.1. Hoạt động huy động vốn
Vốn kinh doanh của các CTTC chủ yếu là từ nguồn huy động. Vì thế nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các nghiệp vụ kinh doanh của các CTTC. Theo Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 thì CTTC đợc huy động vốn dới các hình thức: Nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và tiếp nhận vốn uỷ thác.
3.1.1. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
Nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn dễ dàng, nhanh chóng, đơn giản, tiện lợi, thường xuyên, tốn ít chi phí. Thông qua hoạt động này đem lại cho CTTC một nguồn vốn khổng lồ để cấp tín dụng. Không những thế nhận tiền gửi còn tạo tiền để để CTTC tiến hành các hoạt động kinh doanh khác nh: Cấp tín dụng, đầu tư… Thông qua nhận tiền gửi, các CTTC được nhiều khách hàng biết đến, từ đó mở rộng được các hoạt động kinh doanh, nắm bắt được những thông tin, tư liệu về tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với CTTC, tạo điều kiện cho CTTC có căn cứ xác định mức vốn cho vay đối với khách hàng đó.
Theo khoản 9, Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng “tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tiền tại các TCTD dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác”. Tuy nhiên CTTC chỉ được phép nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên. Điều này đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các CTTC. Do các khoản tiền gửi trung và dài hạn là các khoản vốn nhàn rỗi của các tổ chức và cá nhân nên nó mang tính ổn định cao. Thời gian gửi dài giúp các CTTC có thời gian thu xếp sử dụng vốn huy động đạt hiểu quả, đảm bảo khả năng chi trả. Cũng nhằm đảm bảo lợi ích của người gửi tiền và bảo đảm khả năng chi trả của các CTTC. Luật các tổ chức tín dụng còn có các quy định cụ thể về nghĩa vụ của các CTTC khi nhận tiền gửi.
Thứ nhất: Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi.
Thứ hai: Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu; đảm bảo trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi.
Thứ ba: Bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng; từ chối việc điều tra phong toả, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thứ tư: Thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi, các CTTC phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nớc quy định.
Trên thực tế hiện nay, các CTTC ở Việt Nam phần lớn đều hoạt động để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của chính tổng công ty mình trực thuộc. Do vậy việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi chủ yếu là nhận tiền gửi có kỳ hạn của tổng công ty, các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật mà tổng công ty kinh doanh và công nhân viên trong tổng công ty. Do chỉ đơn thuần hoạt động với nhiệm vụ quản lý và sử dụng nguồn tài chính tiền tệ thuộc “ngành dọc”, việc mở rộng cung cấp dịch vụ tài chính cho các tổ chức cá nhân khác còn rất hạn chế. Đó là lý do các tổ chức kinh tế và dân cư vẫn chỉ nghĩ tới các ngân hàng trong giao dịch tài chính, khiến cho các CTTC khó có khả năng mở rộng việc huy động vốn từ các nguồn này.
3.1.2. Huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác
Theo quy định của Nghị định 79/2002/NĐ_CP ngày 4/10/2002 ngoài huy động vốn bằng nhận tiền gửi CTTC có thể huy động vốn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như phát hành tín phiếu, trái phiếu công trình trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Không phải tổ chức tín dụng nào cũng được phép huy động vốn dưới hình thức này. CTTC muốn được phát hành các giấy tờ có giá phải đáp ứng các điều kiện về tình hình tài chính, tuân thủ các quy định về hạn chế để bảo đảm trong hoạt động và các thủ tục phát hành khác…
Các quy định của pháp luật tuy không cho phép CTTC nhận tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm song lại cho phép phát hành tín phiếu (Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn dới 12 tháng), nên đã giảm bớt những hạn chế trong huy động vốn bằng nhận tiền gửi của CTTC. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp tạo ra lợi thế trong hoạt động huy động vốn của CTTC vì chính tên tuổi các tổng công ty chúng trực thuộc đã tạo ra uy tín cho các trái phiếu này, thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư.
Các giấy tờ có giá hiện nay các CTTC phát hành là các công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn, trong đó CTTC cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
3.1.3. Huy động vốn bằng cách vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế
Khi nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá không đủ đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng, chi trả và các nhu cầu hoạt động khác, CTTC được phép huy động vốn bằng vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Việc vay và cho vay vốn này sẽ giúp các CTTC điều hoà phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, bảo đảm an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng công ty. CTTC không phải là ngân hàng nên không được vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Nhưng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng thì CTTC có thể được Ngân hàng Nhà nước cho vay khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.
Nguồn vốn huy động của CTTC còn được tăng thêm bởi hoạt động tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Do các lợi thế có được vì trực thuộc các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn lớn nên các CTTC có thể khai thác các nguồn vốn uỷ thác giá rẻ để tiến hành cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh khác.
Các CTTC hoạt động chủ yếu từ nguồn vốn huy động, đó là nghiệp vụ cơ bản nhất của CTTC bên cạnh nghiệp vụ cho vay. Do vậy các CTTC luôn cố gắng khai thác tối đa các nguồn vốn được phép huy động. Song để đảm bảo khả năng tài chính của các CTTC đủ để thanh toán, chi trả các khoản vay đến hạn, pháp luật quy định tổng vốn huy động của các CTTC không được vượt quá 20 lần vốn tự có của CTTC.
Hiện nay đa số các công ty tài chính mới chỉ đơn thuần là các CTTC của các tổng công ty với quy mô vốn nhỏ nên kinh nghiệm hoạt động, đối tượng khách hàng rất hạn chế. Tính đến đầu tháng 9/2007 tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức và tiền gửi dân cư của các CTTC chỉ đạt khoảng 3,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 5% tài sản nợ), trong khi đó tổng dư nợ cho vay đạt trên 11.000 tỷ VNĐ. Tỷ lệ dư nợ trên tổng vốn huy động luôn ở trên mức 350%. Số vồn thiếu các CTTC lại chủ yếu đi vay từ Ngân hàng. Vì vậy mục tiêu khai thác, thu xếp tối đa các nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp và thu hút vốn nhàn rỗi từ các tổ chức và dân cư là gần như không thực hiện được.
3.2. Hoạt động tín dụng
Theo quy định tại mục 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 thì các hoạt động tín dụng mà CTTC đợc phép thực hiện gồm: cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh và một số hình thức cấp tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Khi có nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, các tổ chức, cá nhân đến các CTTC đề nghị cấp tín dụng thông qua các hợp đồng tương ứng với các hình thức cấp tín dụng cụ thể như hợp đồng tín dụng, hợp đồng chiết khấu, hợp đồng bảo lãnh ngân hàng… các CTTC thoả thuận để khách hàng sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả trên cơ sở sự tín nhiệm.
Vì hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính phản ứng dây chuyền. Vậy nên chúng được đặt trong hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro.
Trong các hình thức cấp tín dụng kể trên thì cho vay là nghiệp vụ cơ bản và phổ biến nhất. CTTC có thể cho vay dưới hình thức: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, cho vay theo uỷ thác, cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay trả góp.
Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Nghị định số79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 thì để đảm bảo an toàn cho chính CTTC, lợi ích của người gửi tiền và những lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Các CTTC phải thực hiện các hạn chế đối với khách hàng và mức cho vay như: Cấm các CTTC cho vay đối với khách hàng có các mối quan hệ có thể dẫn tới việc lợi dụng vốn vay để hưởng lợi bất chính hoặc có các quan hệ có thể tạo tiền đề cho việc vi phạm pháp luật (Cụ thể quy định tại điều 77 Luật các TCTD). Trong một số trường hợp khác, đối với các khách hàng đang có các mối quan hệ li
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (59).doc