MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU . . .1
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Khái niệm về bán phá giá . .3
1.1 Định nghĩa . .3
1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá
( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930, ) . .3
2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá . .5
2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá . .5
2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá . . .6
2.2.1 Quá trình khởi kiện . . . 6
2.2.2 Quá trình điều tra . . .10
2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính . . . .20
2.2.4 Quá trình xem xét lại . . . .34
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ .36
1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001 .37
1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ . . . .43
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ .49
2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ . .49
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ
đến bản thân nền kinh tế Mỹ . . .52
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ . . . .55
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá . . .58
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá .58
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá . .61
2.3 Nhóm giải pháp khác . .76
KẾT LUẬN . . . . .79
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
88 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2223 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quy định và thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát một bên thứ ba và có lý do chứng minh rằng mối quan hệ này có tác động tới hành vi của nhà sản xuất.
G. Hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng
Theo luật chống bán phá giá, hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng là hàng nhập khẩu từ quốc gia có kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đó vào Mỹ nhỏ hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ. Căn cứ để xác định kim ngạch của mặt hàng trên là số liệu trong vòng 12 tháng gần nhất. Khi được coi là hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng, thì các vụ kiện bán phá giá đối với mặt hàng đó sẽ bị bác bỏ.
2.2.4. Quá trình xem xét lại
Theo qui định của luật chống bán phá giá. Trong vòng 5 năm kể từ ngày áp dụng thuế chống bán phá giá. DOC và USITC phải tiến hành xem xét lại để cân nhắc việc bãi bỏ thuế chống bán phá giá. Trên thực tế, một năm sau khi đưa ra phán quyết chính thức, DOC sẽ tiến hành xem xét lại với mục đích cân nhắc và đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức và sẽ hủy bỏ việc áp dụng thuế chống bán phá giá trừ khi kết quả của quá trình xem xét lại cho thấy rằng hành vi bán phá giá vẫn có khả năng tiếp diễn và đe dọa gây thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ.
Trong quá trình đánh giá lại, USITC sẽ phải dự đoán những thay đổi trong kim ngạch, ảnh hưởng của mức giá và ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến ngành sản xuất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ. Cụ thể, USITC sẽ phải xem xét:
(1) Phán quyết ban đầu.
(2) Tiến triển của "ngành sản xuất" Mỹ kể từ khi mức thuế chống bán phá giá được áp dụng.
(3) Khả năng bị đe dọa thiệt hại vật chất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ.
Khi đánh giá khả năng thay đổi về kim ngạch nhập khẩu trong trường hợp thuế chống bán phá giá được bãi bỏ, USITC sẽ phải xem xét các yếu tố:
(1) Khả năng tăng năng suất hoặc sử dụng năng lực sản xuất nhàn rỗi của nước xuất khẩu
(2) Lượng hàng tồn kho của mặt hàng thuộc diện điều tra
(3) Các rào cản đối với việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra vào các nước khác ngoài Mỹ
(4) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu ngừng sản xuất mặt hàng trên
Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của mức giá của hàng nhập khẩu trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc:
(1) Khả năng bán rẻ hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra so với sản phẩm nội địa đồng loại.
(2) Khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến sự sụt giảm giá của sản phẩm nội địa đồng loại.
Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến "ngành sản xuất" của Mỹ trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc các yếu tố kinh tế tác động đến ngành sản xuất của Mỹ như:
(1) Khả năng sụt giảm sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất,…
(2) Khả năng xuất hiện các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, lượng hàng dự trữ, nhân công, lương, khả năng huy động vốn,…
Luật chống bán phá giá qui định: USITC phải xét đến tất cả các yếu tố này trong mối quan hệ với chu kỳ sản xuất và đặc điểm cạnh tranh của ngành.
Trên đây là một vài nét về các qui định xử lý hành vi bán phá giá của Mỹ. Để xem xét xem thực tế áp dụng các qui định này như thế nào, chúng ta sẽ nghiên cứu trong Chương II.
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ
Trong vòng 50 năm qua , Hoa Kỳ đã liên kết các quốc gia trên thế giới lại với nhau thông qua các hiệp định tự do hoá thương mại với mục đích giảm bớt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời với việc nghiêm cấm các hình thức phân biệt đối xử trong thương mại, các hiệp định này cũng thừa nhận luật chống bán phá giá như một công cụ cho phép ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại gây tổn hại cho nền kinh tế của một quốc gia.
Do kết quả của việc giảm dần các hàng rào thương mại, thuế chống bán phá giá đã nhanh chóng trở thành một công cụ đắc lực được các nhà sản xuất Mỹ tận dụng để giảm bớt áp lực từ hàng hoá nhập khẩu. Các vụ kiện bán phá giá đã tăng lên rất nhanh và xuất hiện ở tất cả các mặt hàng từ các sản phẩm nông nghiệp như hoa, hải sản, mật ong tới các sản phẩm vật liệu như thép, và thậm chí là cả các sản phẩm công nghệ cao như máy tính và chip bán dẫn.
Sức mạnh của luật chống bán phá giá nằm ở chỗ : Chính quyền Mỹ có thể áp dụng một mức thuế lên đến trên 400%. Trong nhiều trường hợp, mức thuế có thể đủ cao để đẩy các công ty nước ngoài ra khỏi thị trường Mỹ. Ngoài ra, mức thuế chống bán phá giá còn có thể kéo dài tới 20 năm, tạo thành một hàng rào “bền vững” đối với một sản phẩm được nhập khẩu từ một nước nhất định.
Xét một cách công bằng thì luật chống bán phá giá chỉ có được sức mạnh kể từ khi Luật Thương mại 1979 ra đời. Luật Thương mại 1979 đã tạo ra một số thay đổi trong Luật chống bán phá giá 1921, hay còn gọi là Chương VII Luật Thuế quan 1930. Những thay đổi này có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Một trong số những thay đổi đó là sự chuyển đổi thẩm quyền từ Cục Ngân khố Mỹ sang Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ( USITC). Như vậy, sức mạnh hiện nay của Luật chống bán phá giá chỉ có được từ ngày 1/1/1980. Đây là lý do để chúng ta xem xét và tổng kết các vụ kiện bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001.
Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001
Trong giai đoạn 1980-2001, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã nhận được 988 vụ kiện bán phá giá với tổng trị giá hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra là 58 tỉ USD.
Biểu đồ 1. Thống kê các vụ kiện Bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Trong số 988 vụ kiện này, bên nguyên đơn tức là các nhà sản xuất Mỹ đã giành thắng lợi được 42%( 42% số vụ kiện kết thúc bằng việc DOC đưa ra một mức thuế chống bán phá giá); 38% số vụ kiện nhận được phán quyết của USITC là: không gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ; 20% còn lại là do DOC hoãn điều tra hoặc không tìm thấy hành vi bán phá giá. Nếu tính theo giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra thì các con số tương ứng là 54%; 32.5%; 13.5% (tức là có 54% giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra phải chịu thuế chống bán phá giá). Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 1980 đến 1990, các nhà sản xuất Mỹ đã đệ trình khoảng 500 đơn kiện lên DOC và USITC. Một nửa trong số này đã nhận được một mức thuế chống bán phá giá. Mức thuế trung bình trong giai đoạn này là vào khoảng 30 đến 40%. Theo các số liệu thống kê, sự suy giảm trong khả năng tận dụng năng lực sản xuất đi kèm với việc tăng lượng hàng nhập khẩu là nguyên nhân chính dẫn đến việc ngày càng có nhiều vụ kiện nhận được một mức thuế chống bán phá giá.
Bảng 1. Kết quả của các vụ kiện bán phá giá vào thị trường Mỹ
Giai đoạn 1980-2001
Kết quả của các vụ kiện bán phá giá qua các năm
DOC áp dụng thuế chống bán phá giá
(vụ)
USITC phán quyết : Không gây thiệt hại vật chất
(vụ)
DOC hoãn điều tra hoặc không phát hiện ra hành vi bán phá giá
(vụ)
1980
9
15
10
1981
4
5
6
1982
12
25
28
1983
12
14
8
1984
16
13
29
1985
26
20
36
1986
37
14
12
1987
17
15
4
1988
21
14
3
1989
17
9
3
1990
15
4
2
1991
19
40
6
1992
38
47
4
1993
11
9
16
1994
29
26
4
1995
9
6
3
1996
9
2
2
1997
14
7
2
1998
22
11
0
1999
20
24
6
2000
18
15
2
2001
40
43
9
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Trong thập niên 90 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới, “ chống bán phá giá bằng việc áp dụng thuế” vẫn là một cách bảo hộ được các nhà sản xuất Mỹ ưa thích. Ví dụ như riêng trong năm 1992 đã có 89 vụ kiện bán phá giá. Và tính cho đến năm 2001, đã có đến 550 mức thuế chống bán phá giá được thực thi.
Biểu đồ 2. Kết quả xử lý các vụ kiện trong
Giai đoạn 1980-2001
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Một đặc điểm khác đó là xu hướng ngày càng tăng của tỉ lệ bán phá giá (dumping margins) mà DOC phát hiện ra. Xu hướng tăng này là khá ổn định với tỉ lệ tăng trung bình là 2.5%/năm, đưa tỉ lệ bán phá giá bình quân từ mức 15.5% trong những năm đầu của thập niên 80 lên mức 63% tính đến năm 2001. Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trong 10 năm đầu là cao hơn so với 10 năm tiếp theo, dù vậy xu hướng tăng lên vẫn là xu hướng chính có thể thấy trong giai đoạn này.
Biểu đồ 4 biểu diễn tỉ lệ các vụ kiện nhận được phán quyết “gây thiệt hại vật chất” của USITC. Cũng tương tự như trong biểu đồ 3, ta có thể thấy một xu hướng tăng lên của số lượng phán quyết “gây thiệt hại vật chất”, tức là tỉ lệ các phán quyết “gây thiệt hại vật chất” so với số lượng các vụ kiện ngày càng cao, từ mức 45% vào đầu những năm 80 tăng lên đến mức 62% tính đến năm 2001.
Biểu đồ 3.Xu hướng của “tỉ lệ bán phá giá”(dumping margins)
Giai đoạn 1980-2001
*Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ
Bruce A. Blonigen - 4/2003
Biểu đồ 4. Tỉ lệ các phán quyết “Có thiệt hại vật chất”
Giai đoạn 1980-2001
*Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ
Bruce A. Blonigen - 4/2003
Kết hợp hai xu hướng này lại cho thấy một xu hướng tăng lên của mức thuế chống bán phá giá (tỉ lệ bán phá giá nhân với tỉ lệ phán quyết “gây thiệt hại vật chất”), từ mức 5% lên 30% cho mỗi công ty bị kiện bán phá giá.
Có một số lý do có thể giải thích cho xu hướng này. Thứ nhất, những thay đổi về mặt pháp lý đã làm thay đổi đáng kể những quy định mà Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) phải tuân thủ trong quá trình đưa ra phán quyết của mình. Thứ hai, cơ cấu các công ty và các sản phẩm thuộc diện điều tra thay đổi theo chiều hướng liên quan đến các hành vi bán phá giá nhiều hơn. Cuối cùng, đó là sự tuỳ ý của các cơ quan pháp luật Mỹ trong việc sử dụng các phương pháp có khả năng phát hiện ra hành vi bán phá giá cao hơn.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu phát hành vào tháng 4/2003 của Bruce A. Blonigen thuộc trường Đại học Tổng hợp Oregon và Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER), xu hướng tăng lên của mức bán phá giá cơ bản là do sự linh động ngày càng cao trong cách xác định mức bán phá giá của DOC. Điều này có nghĩa là sự tăng lên của mức bán phá giá chủ yếu là do tác động của nguyên nhân thứ ba, còn tác động của hai nguyên nhân đầu là rất ít hoặc không đáng kể. Cụ thể, việc DOC sử dụng phương pháp “Dữ liệu sẵn có”, thẩm tra chi phí sản xuất và việc sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường bị quy là nguyên nhân chính làm tăng đáng kể mức bán phá giá. Một điểm quan trọng là xu hướng tăng lên của mức bán phá giá không chỉ do việc DOC ngày càng áp dụng biện pháp trên nhiều hơn (phát triển theo chiều rộng), mà còn do sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp này. Điều này có nghĩa là sự thay đổi trên dẫn đến kết quả : ngày càng tìm thấy mức bán phá giá cao hơn (phát triển theo chiều sâu). Trong khi việc thực hiện Hiệp định đạt được tại vòng đàm phán Uruguay 1995 (cụ thể là Hiệp định chống bán phá giá) đã làm mức bán phá giá trung bình mà DOC phát hiện được giảm 20%, thì sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu nói trên đã giúp bù lại những ảnh hưởng của Vòng đàm phán Uruguay tính cho đến năm 2001.
Một khía cạnh khác cũng cần xét đến là các mục tiêu của luật chống bán phá giá Mỹ. Về cơ bản, có bốn đặc điểm để hình thành một mục tiêu của luật chống bán phá giá. Thứ nhất, đó là các công ty xuất khẩu có mức giá quá cạnh tranh bởi đơn giản giá cả chính là nguyên nhân để kiện bán phá giá. Hơn nữa, chính mức giá là yếu tố tạo nên sự cạnh tranh giữa nhà xuất khẩu và nhà sản xuất nội địa Mỹ. Mức giá càng cạnh tranh thì động lực để các nhà sản xuất Mỹ đệ đơn kiện bán phá giá càng cao. Thứ hai, đó là các công ty xuất khẩu chiếm một thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi lẽ, chỉ có các công ty chiếm thị phần lớn mới tạo đủ sự đe doạ đối với khả năng sinh lời của các đối thủ nội địa Mỹ. Thứ ba, thị phần của các công ty xuất khẩu này là khá ổn định bởi nếu không các đối thủ Mỹ sẽ dễ dàng chiếm được thị phần mà không cần viện đến luật chống bán phá giá. Và cuối cùng, thị trường Mỹ là thị trường chủ chốt, nếu không muốn nói là thị trường duy nhất, của các công ty xuất khẩu trên (Tuy nhiên, trên thực tế, không phải chỉ có các công ty có cả bốn đặc điểm trên mới trở thành mục tiêu của các vụ kiện bán phá giá. Nhưng chí ít chúng ta cũng có thể tìm thấy một trong bốn đặc điểm trên trong các bị đơn của các vụ kiện bán phá giá)
Với các đặc điểm trên ta dễ dàng nhận thấy 5 đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ tính theo giá trị nhập khẩu là Canada (16.9% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ) Trung Quốc (10.9% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ), Mexico (10.2% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ), Nhật Bản (8.79% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ), và Đức (5% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ) Các số liệu trên tính đến tháng 9/2003
*Nguồn : Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITA) – www.ita.gov
. Trong số 5 nguồn nhập khẩu lớn nhất này, mức tăng trưởng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong thập niên 90 là lớn nhất, gần gấp 3 lần mức tăng trưởng bình quân kim ngạch nhập khẩu cùng kỳ của Mỹ. Trong số 4 quốc gia còn lại, nổi lên Mexico và Canada bởi 65% kim ngạch xuất khẩu của Mexico và 61% kim ngạch xuất khẩu của Canada là sang thị trường Mỹ. Với Nhật Bản và Đức, con số tương ứng là 24% và 6%.
Tóm lại, đây sẽ là 5 mục tiêu lớn nhất của luật chống bán phá giá Mỹ.
Biểu đồ 5. 10 quốc gia bị kiện bán phá giá nhiều nhất
Giai đoạn 1980-2001
*Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ
Một vấn đề liên quan đến việc số lượng các vụ kiện bán phá giá và mức bán phá giá phát hiện được ngày càng tăng là việc DOC xử lý các vụ kiện như thế nào.
Kể từ năm 1979, chính quyền Mỹ đã rất nỗ lực trong việc sửa đổi luật chống bán phá giá do nhận thức được tầm quan trọng ngày càng lớn của bộ luật này. Phần lớn các thay đổi liên quan đến luật chống bán phá giá (kể cả những thay đổi về mặt quản lý) đều nhằm mục đích tạo điều kiện cho việc đệ đơn kiện và phát hiện hành vi bán phá giá. Có lẽ chính điều này đã khiến cho việc thi hành luật ngày càng xa rời mục tiêu mà chính bản thân bộ luật này đưa ra, đó là ngăn chặn các hành vi gian lận về giá, tạo ra một thị trường cạnh tranh bình đẳng. Thay vào đó, bộ luật chống bán phá giá của Mỹ ngày càng mang tính chất của một công cụ bảo hộ nền công nghiệp Mỹ.
Với 5 phương pháp xác định hành vi bán phá giá, DOC có toàn quyền lựa chọn phương pháp thích hợp nhất cho từng vụ kiện và cũng có thể kết hợp cùng một lúc nhiều phương pháp nếu cần thiết. Tuy nhiên, việc áp dụng các phương pháp này vào thực tế đã không thể hiện được đúng tính chất của từng phương pháp như quy định trong Luật. Cụ thể, Bộ luật chống bán phá giá hiện nay dường như không có đủ khả năng để nhận biết chính xác các hành vi phân biệt về giá (áp dụng một mức giá ở Mỹ thấp hơn ở thị trường nội địa) hoặc việc bán hàng ở mức giá thấp hơn mức chi phí. Trong số 5 phương pháp mà DOC sử dụng, chỉ có phương pháp so sánh giữa giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu là tương đối xác định được sự khác biệt về giá.
Điều này có thể được thể hiện qua các phán quyết mà DOC đưa ra trong giai đoạn từ 1/1/1995 đến 31/12/2001, tức là từ khi các hiệp định của vòng đàm phán Uruguay có hiệu lực cho đến hết năm 2001. Trong giai đoạn này, DOC đã đưa ra 364 phán quyết, trong đó số lượng phán quyết “Có hành vi bán phá giá” là 276 với tỉ lệ bán phá giá trung bình là 58.79%. Vấn đề nổi lên trong các phán quyết này là : có rất ít phán quyết hướng được đến mục tiêu xác định hành vi phân biệt giá. Trong số 364 phán quyết, chỉ có 10 phán quyết được dựa hoàn toàn trên cơ sở so sánh giữa giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu. Hơn thế, 5 trong số 10 phán quyết này là : Không có hành vi bán phá giá. Điều này có nghĩa là DOC, bằng phương pháp so sánh giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu, chỉ phát hiện ra 5 hành vi bán phá giá trong tổng số 364 cuộc điều tra.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, DOC ngày càng thiên về sử dụng các phương pháp giúp phát hiện hành vi bán phá giá như “Dữ liệu sẵn có”, “Giá dự tính”. Cụ thể, trong số 364 phán quyết, 93 phán quyết là dựa trên các thông tin sẵn có (phương pháp 5); 121 phán quyết dựa trên phương pháp: Giá trị thông thường = Giá của nền kinh tế phi thị trường (phương pháp 4). Trong 52 phán quyết, DOC đã sử dụng giá dự tính (phương pháp 3) do không tìm thấy thị trường so sánh tương ứng hoặc sản phẩm tương tự không được bán tại thị trường so sánh. Trong 85 phán quyết, DOC kết hợp giữa giá dự tính với giá của nước xuất khẩu hoặc giá của nước thứ ba do có đến hơn 20% các sản phẩm so sánh được bán ở mức giá thấp hơn mức chi phí.
Trong 80 phán quyết khác, DOC dựa một phần vào việc so sánh giữa giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ với giá của thị trường nước xuất khẩu. Tuy nhiên, trong các phán quyết này, DOC thường nghiêng về hướng chỉ sử dụng giá dự tính thay cho dữ liệu thực tế hoặc loại bỏ các khoản doanh thu phát sinh từ mức giá thấp hơn mức chi phí. Trong các vụ kiện sử dụng kiểu phương pháp hỗn hợp này, DOC phát hiện ra 65 hành vi bán phá giá. Tuy nhiên, khó mà xác định được rằng trong số 65 hành vi bán phá giá trên, có bao nhiêu hành vi là biểu hiện của sự phân biệt về giá; còn có bao nhiêu hành vi chỉ là sự phóng đại của kiểu phương pháp hỗn hợp trên ? Thật dễ hiểu khi có những nghi ngờ này bởi các phương pháp hỗn hợp có xu hướng làm tăng mức bán phá giá lên cao hơn so với kết quả có được từ việc so sánh thông thường. Việc chỉ sử dụng các khoản doanh thu phát sinh từ mức giá cao hơn mức chi phí để so sánh với giá nhập khẩu vào thị trường Mỹ luôn phóng đại mức bán phá giá, do các mức giá thấp nhất thu được tại thị trường nước xuất khẩu đã bị loại ra khỏi quá trình so sánh. Chúng ta có thể nhận biết được sự phóng đại này thông qua một phán quyết sau : Cuộc điều tra được tiến hành đối với sản phẩm bán dẫn SRAM của Đài Loan,sử dụng cho máy vi tính. Công ty thuộc diện điều tra là một công ty của Mỹ Integrated Silicon Solution, Inc (ISSI) Luật chống bán phá giá Mỹ : Đối mặt với thực tế – Brisnk Linsey – 1/2000
. ISSI bị một công ty cũng của Mỹ là Micron, Inc kiện vì nhập khẩu sản phẩm bán dẫn của Đài Loan ở mức giá thấp hơn mức hợp lý (LTFV). Trong quá trình tính toán mức bán phá giá, DOC sử dụng phương pháp 1: xác định giá trị thông thường = giá tại thị trường nước xuất khẩu (Đài Loan) và đã loại bỏ các khoản doanh thu phát sinh từ mức giá thấp hơn mức chi phí ra khỏi giá trị thông thường. Kết quả là DOC phát hiện ra hành vi bán phá giá ở mức 7.56%. Trong khi đó, nếu không loại bỏ các khoản doanh thu nói trên, kết quả sẽ giảm chỉ còn 1/3, tức là 2.74%.
Ngoài ra, trong số 258 cuộc điều tra, DOC đã hoàn toàn hoặc một phần dựa vào phương pháp phân tích theo chi phí, nghĩa là DOC sử dụng các mức chi phí thu thập được để xây dựng nên giá trị thông thường( phương pháp “giá dự tính” và phương pháp “giá của nền kinh tế phi thị trường”). Hiển nhiên là việc sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường sẽ không thể chỉ rõ hành vi phân biệt về giá do mức “giá trị thông thường” xác định được không hề có liên quan đến các dữ liệu về giá. Một vấn đề khác trong phương pháp xây dựng giá trị thông thường dựa trên các mức chi phí là : tỉ lệ lãi suất mà DOC áp dụng thường cao hơn mức bình thường. Chính điều này sẽ làm tăng khả năng phát hiện hành vi bán phá giá (Bảng 1).
Ngay cả khi DOC sử dụng các mức tỉ lệ lợi nhuận hợp lý thì phương pháp so sánh giá của từng sản phẩm cụ thể với tỉ lệ lợi nhuận trung bình của cả ngành cũng có xu hướng tạo ra mức bán phá giá cao hơn. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ : Giả sử DOC xác định tỉ lệ lợi nhuận hợp lý của một ngành sản xuất là 5%. Nhà sản xuất nước ngoài sản xuất 3 mẫu sản phẩm khác nhau A, B, C. Ba sản phẩm A, B, C đều cùng một dòng sản phẩm và nhà sản xuất nước ngoài thu được cùng một mức doanh số đối với 3 sản phẩm trên. Tuy nhiên, mức lợi nhuận mà nhà sản xuất nước ngoài thu được từ 3 sản phẩm là không giống nhau và lần lượt là 1%, 4%, 10%. Như vậy mức lợi nhuận trung bình mà nhà sản xuất nước ngoài thu được là 5%, tương đương với mức mà DOC đưa ra. Tuy nhiên, DOC lại xác định hành vi bán phá giá theo từng mẫu riêng biệt và coi các mức bán phá giá âm bằng 0 (phương pháp làm tròn- zeroing). Kết quả là, Mẫu A và B bị coi là bán phá giá.
Bảng 2. Số lượng các phán quyết theo từng phương pháp
Giai đoạn 1980-2001
Phương pháp tính toán
Phán quyết
(Phán quyết “Có hành vi bán phá giá”)
Tỉ lệ bán phá giá trung bình
(Chỉ tính trên các phán quyết “Có hành vi bán phá giá”)
Giá thị trường nước xuất khẩu
10
(5)
4.00%
(7.36%)
Giá thị trường nước thứ ba
3
(0)
0%
(0%)
Kết hợp giữa giá thị trường nước xuất khẩu với giá dự tính
80
(65)
14.59%
(17.95%)
Kết hợp giữa giá thị trường nước thứ ba với giá dự tính
5
(5)
7.94%
(7.94)
Giá dự tính
52
(36)
25.07%
(35.70%)
Giá của nền kinh tế phi thị trường
121
(72)
40.03%
(67.05%)
“Dữ liệu sẵn có”
93
(93)
95.58%
(95.58%)
Tổng số
364
(276)
44.68%
(58.79%)
*Nguồn : Luật chống bán phá giá của Mỹ: Đối mặt với thực tế
Brink Linsey - 1/2000
Chúng ta có thể thấy rằng việc luật chống bán phá giá của Mỹ không có khả năng phân biệt rõ ràng các hành vi phân biệt về giá không làm cho bộ luật này bất lực trước việc xử lý các hành vi gian lận thương mại, mà ngược lại, còn phát hiện ra nhiều hành vi bán phá giá hơn do đã đánh đồng các hành vi gian lận với các hành vi thương mại bình thường khác.
Bảng 3. So sánh tỉ lệ lợi nhuận
Công ty/Vụ kiện
(Thời gian tiến hành)
Tỉ lệ lợi nhuận do DOC đưa ra (%)
Tỉ lệ lợi nhuận của ngành công nghiệp Mỹ (%)
Chen Hao Đài Loan/Dụng cụ ăn tối của Đài Loan
(31/1/1998)
25.77
5.23
Phanh đĩa và rotor của Trung Quốc
(21/2/1998)
12.5
5.93
Thép tấm của Trung Quốc
(24/10/1998)
10.14
3.43
PT Multi Raya/ Dụng cụ ăn tối của
Indonesia
(21/1/1998)
22.61
5.23
Đinh lợp mái của Trung Quốc
(23/9/1998)
20.5
7.2
*Nguồn : Luật chống bán phá giá Mỹ : Đối mặt với thực tế
Brink Linsey- 1/2000
Như vậy, qua một số nét sơ lược về thực trạng xử lý các vụ bán phá giá của Mỹ, có thể thấy rằng luật chống bán phá giá của Mỹ chưa thực hiện được đúng chức năng mà chính quyền Mỹ thường nói tới, đó là : loại bỏ những nhân tố “bóp méo” thị trường. Kết quả là, các phương pháp xác định hành vi bán phá giá đã không thể phân biệt chính xác giữa mức giá thương mại thông thường với mức giá “bóp méo” thị trường, dẫn đến việc trừng phạt cả những hành vi thương mại cạnh tranh thông thường, những hành vi thương mại có sự tham gia của các công ty Mỹ. Như vậy, không thể nói rằng : Luật chống bán phá giá đảm bảo một “sân chơi” công bằng cho các công ty Mỹ và các đối thủ nước ngoài. Ngược lại, luật chống bán phá giá còn chủ động tạo ra sự phân biệt giữa hàng hoá nước ngoài với hàng hoá của Mỹ bằng cách áp đặt các quy định mà các sản phẩm của Mỹ không phải chịu.
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ
Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ
Với “lối chơi” không công bằng quen thuộc của mình, Mỹ đã vấp phải sự phản đối của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Và luật chống bán phá giá cũng không nằm ngoài những đối tượng đó. Trong những năm gần đây, liên minh Châu Âu, Nhật Bản và một số quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, Mexico đã kịch liệt lên tiếng phản đối bộ luật chống bán phá giá của Mỹ mà cụ thể là đạo luật chống bán phá giá 1916. Các nước này cho rằng đạo luật chống bán phá giá 1916 của Mỹ đã vi phạm một số quy định của WTO. Cụ thể, ngày 1/2/1999, liên minh Châu Âu đã đệ đơn kiện lên WTO rằng đạo luật chống bán phá giá 1916 đã vi phạm:
Khoản XVI: 4 của Hiệp định thành lập WTO tại Marrakesk.
Khoản VI: 1 và khoản VI:2 của GATT 1994 và khoản 1, 2.1, 2.2, 3, 4, và 5 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO
Vào ngày 3/6/1999, Nhật Bản cũng đệ đơn kiện lên WTO rằng đạo luật chống bán phá giá 1916 đã vi phạm :
Khoản III: 4 của GATT 1994
Khoản VI của GATT 1994 và Hiệp định chống bán phá giá của WTO, cụ thể là Khoản VI: 2 của GATT 1994 và khoản 18.1 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO cũng như Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 9, và 11 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO
Khoản XI của GATT 1994
Khoản XVI: 4 của Hiệp định thành lập WTO tại Marrakesh (sau đây gọi là Hiệp định WTO) và Khoản 18.4 của Hiệp định chống bán phá giá của WTO.
Sau khi xem xét đơn kiện, WTO đã thành lập ban điều tra và đã ra bản báo cáo vào ngày 31/3/2000 như sau:
Đạo luật chống bán phá giá của Mỹ đã vi phạm một số điều khoản về chống bán phá giá của WTO, cụ thể :
(1) Các yêu cầu về gây thiệt hại thuộc Khoản VI: 1 GATT:
Khoản VI: 1 GATT quy định rằng : Hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn mức hợp lý LTFV chỉ bị coi là hành vi bán phá giá nếu hành vi đó gây hoặc đe doạ gây thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất nằm trong khu vực hoạt động của bên nguyên đơn, hoặc kìm hãm việc thành lập một ngành sản xuất nội địa. Mặc dù, quy định của Luật chống bán phá giá 1916 khá tương đồng với quy định trên nhưng đạo luật chống bán phá giá 1916 vẫn vi phạm Khoản VI: 1 GATT do đạo luật 1916 không hề đưa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy định và thực tiễn chống bán phá giá của mỹ và giải pháp cho các doanh nghiệp việt nam.doc