Mục lục
Phần 1 Lời mở đầu 1
Phân 2 Nội dung 4
CHƯƠNG 1: Sơ lược về protein các quy trình sản xuất protein
1.1- Sơ lược về protein 4 1.1.1- Định nghĩa Protein 4 1.1.3- Các yếu tố tổng hợp protein 6
1.1.4.- Vai trò của protein đối với sự sống 8
1.2- Các quá trình sản xuất prtein 9
1.2.1- Khái quát về lịch sử sản xuất protein 11
1.2.2- Đặc điểm sản xuất proten đơn bào 11
1.2.3- Sản xuất protein sinh vật từ dầu mỏ, khí đốt 12
1.2.3.1- Đặc điểm lịch sử 12
1.2.3.2- Nguyên liệu 13
1.2.4- Công nghệ sản xuất protein trên nguyên liệu polysaccarit chưa thủy phân 15
1.2.5- CHSX protein từ sắn không qua quá trình thủy phân ban đầu 17
1.2.6- Sản xuất protein từ chuối 17
1.2.7- CNSX protein trên dịch gỗ thủy phân 17
CHƯƠNG 2: Giới thiệu về tảo Spirulina
2.1- Tảo spirulina là gi? 19
2.2- Tình hình tảo spirulina ở Việt Nam 23
2.2.1- Trên thế giới 23
2.2.2- Ở Việt Nam 26
2.3- Các sản phẩm tảo Spirulina ở VN 29 2.4- Ứng dụng các sản phẩm tảo spirulina ở VN 31
2.4.1- Spirulina trong bệnh nội tiết, biến dưỡng và tim mạch 31
2.4.2- Spirulina, giải pháp tốt cho người béo phì 31
2.4.3- Spirulina, chìa khóa sinh học chống lao tâm lao lực 31
2.4.4- Spirulina, món ăn nên thuốc trong bệnh mạn tính 32 2.4.5- Spirulina, phương tiện giải độc trong môi trường ô nhiễm 32
CHƯƠNG 3: Quy trình sản xuất protein đơn bào từ tảo spirulina
3.1- Ưu điểm tảo đơn bào 33
3.2- So sánh 2 loại tảo Chlorella và Spirulina 34
3.3- Quy trình sản xuất protein từ tảo spirulina 35
3.3.1-Sơ đồ quy trình sản xuất protein đơn bào từ tảo spirulina 35
3.3.2- Giải thích quy trình 36
Phần 3 Kết luận 45
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10007 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quy trình sản xuất protein đơn bào từ tảo Spirulina, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dầu mỏ khí đốt để nuôi
cấy vi sinh vật thu nhận sinh khối giàu protein cho gia súc đã được công bố tại Hội nghị dầu mỏ quốc tế lần thứ 6. Sau đó nhiều nhà khoa học đã phân lập được 498 chủng nấm men có khả năng phân giải cacbua hidro. Và từ đó có nhiều nhà máy đã sản xuất được sinh khối nấm men mà sản phẩm chứa tới 60 – 70% protein.
1.2.3.2..Nguyên liệu
Dầu mỏ: chỉ những phần dầu mỏ nhất định mới được vi sinh vật đồng hoá như:
- Các alkan (paraphin) với chiều dài chuỗi C10 - C20
- Các alkin, anken, hydrocacbon thơm.
- Các parafin chuỗi ngắn còn lại trong phần dầu mỏ có nhiệt độ nóng chảy thấp.
- Sử dụng n-parafin tinh khiết được tách từ mỏ dựa trên các nguyên tắc sàng
phân tử làm cơ chất có ưu điểm là nguồn C bị tiêu thụ hoàn toàn và không để lại những cacbua hidro độc.
Cơ chế của sự hấp thụ ankal cho đến nay cũng chưa được làm sáng tỏ đầy đủ.
So với các tế bào sinh trưởng trên glucoza thì nấm men nuôi trên cacbua hidro có
màng tế bào dày hơn và có nếp nhăn.. Tuy nhiên các tế bào này không gặp khó khăn gìtrong việc hấp thụ những cơ chất không tan trong nước được bổ sung vào môi trường với nồng độ 2 - 4%.
Khí thiên nhiên
Metan: Metan là thành phần chính của khí thiên nhiên. Tuy nhiên metan
không chỉ là nguyên liệu trong lòng đất mà còn được tạo thành qua con đường vi sinh vật nhờ sự lên men metan và được sinh ra trong các bể chứa bùn mục nát trong cácthiết bị làm sạch. Nguyên tắc sản xuất protein từ khí thiên nhiên là nuôi vi khuẩn trên dịch muối amon và muối khoáng được thường xuyên thổi khí metan và không khí.
Ưu nhược điểm của việc sử dụng metan:
- Khí thiên nhiên rẻ hơn dầu mỏ nhiều lần.
- Phần khí không được vi sinh vật đồng hoá được loại bỏ một cách dễ dàng. Vì vậy sản phẩm rất tinh khiết và không tốn kém dung môi cho việc rửa tế bào như khi sử dụng dầu mỏ làm cơ chất.
Nhược điểm của việc sử dụng khí metan:
- Vi sinh vật đồng hoá khí thiên nhiên đều là các vi sinh vật hiếu khí. Do đó môi trường dinh dưỡng phải thường xuyên thổi hỗn hợp khí metan và oxi hoặc là không khí rất dễ gây nổ. Nếu nồng độ hỗn hợp khí cao rất dễ bắt lửa và nổ, còn nồng độ khí thấp thì vi sinh vật không đủ hô hấp. Cả hai trường hợp không đủ dinh dưỡng và ngạt thở, vi sinh vật đều phát triển kém và hiệu suất nuôi cấy thấp.
- Để thực hiện được quá trình sinh tổng hợp protein thì oxy và metan phải được chuyển từ tướng khí sang tướng lỏng để bọt khí mang nhiên liệu và chất oxy hoá đến các tế bào vi sinh vật đang sinh trưởng một cách nhanh chóng và thực hiện quá trình đồng hoá. Tuy nhiên, độ hoà tan của metan và oxy trong nước thấp. Có thể khắc phục bằng cách là tăng áp suất dư trong thiết bị nhưng việc chế tạo thiết bị chịu áp lực cao sẽ phức tạp và không kinh tế. Hoặc đưa một dung môi hữu cơ nào đó vào môi trường dinh dưỡng để tăng độ hoà tan của metan, nhưng sẽ làm cho vi sinh vật thích dung môi hơn metan và như vậy việc dùng khí thiên nhiên mất hết ý nghĩa.
Metanol: Để khắc phục những nhược điểm của việc sử dụng metan, có thể sử
dụng metanol thu được từ metan nhờ sự oxy hoá hoá học. Đó là nhờ những ưu điểm sau của metanol:
+ Metanol dễ tan trong nước nên có thể dùng ở nồng độ cao hơn (2-3%).
+ Nhu cầu oxy của sự đồng hoá metanol là thấp hơn.
+ Có thể dùng nấm men để đồng hoá metanol. Mà nấm men có kích thước tế
bào lớn hơn vi khuẩn nên năng lượng cần thiết cho quá trình li tâm tách sinh khối ít hơn so với vi khuẩn sử dụng để đồng hoá metan. Tính kinh tế cao hơn.
Tuy nhiên dùng metanol có nhược điểm sau:
+ Metanol đắt hơn nhiều so với metan hoặc khí thiên nhiên.
+ Thu hoạch tế bào từ metanol thấp hơn từ metan.
Etan, propan, butan: Việc sử dụng các alkal dạng khí chuỗi ngắn chứa trong
dầu mỏ như etan, propan, butan diễn ra không qua vi khuẩn đồng hoá metan mà chỉ trong hỗn hợp quần thể chứa các cơ thể có khả năng nói trên (Mycobacterium, Nocardia, Pseudomonas).
1.2.4 Công nghệ sản xuất protein trên nguyên liệu polysacarit chưa thuỷ phân
Các điều kiện kỹ thuật:
Để sản xuất sinh khối nấm men giàu protein các dạng nguyên liệu trên cần đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cơ bản sau:
- Nồng độ đường trong dịch nuôi cấy phải đảm bảo từ 2 -4 %.
- Muối urê 3g/l.
- Suphephotphat 4g/l.
- Không khí vô trùng
- Thời gian nuôi từ 18 – 36 giờ.
- Nhiệt độ nuôi cấy 28 – 30oC.
- pH môi trường 4,5 – 5,5 .
Quá trình sản xuất protein là quá trình hiếu khí. Vì vậy bắt buộc phải thông khí môi trường. Việc cung cấp không khí có một số tác dụng sau:
+ Cung cấp O2 cho vi sinh vật tổng hợp vật chất tế bào.
+ Tách CO2 ra khỏi dung dịch nuôi cấy.
+ Xáo trộn môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi chất tốt hơn.
Không khí cung cấp cho quá trình sinh tổng hợp protein phải được làm sạch trướckhi cho vào thiết bị lên men.
Một yếu tố cần chú ý nữa là nồng độ đường trong quá trình nuôi cấy. Không nên để nồng độ đường quá cao trong môi trường vì sẽ ức chế sự tăng trưởng tế bào sẽ tạo ra nhiều sản phẩm phụ không cần thiết. Do đó nồng độ đường cần khống chế < 4 % là thích hợp.
Bọt và sinh khối tràn ra ngoài trong quá trình lên men được tách trước tiên theo phương pháp tạo thành bọt cùng với sinh khối trào ra ngoài rồi đưa đi li tâm tách. Bọt và sinh khối tràn ra ngoài được thu gom lại đi xử lý bằng phương pháp tuyểnnổi (flotation) rồi đưa đi li tâm qua các máy li tâm tách (Seprator), cô đặc ở chân không. Sinh khối nấm men thu được ở dạng sệt có 75-80 % nước, 20-25% chất khôtrong đó có cacbon 40-50%, nitơ 7-10% tương ứng với 40-60% protein, hydro 5-7%, oxy 25-30%, các nguyên tố vô cơ 5-10% ( photpho và kali chiếm 95-97% tổng lượng tro, số còn lại là canxi, magiê, nhôm, lưu huỳnh, clo, sắt. Ngoài ra còn có một lượng nhỏ nguyên tố Mn, Zn, Mo, Bo, Coban...). Sinh khối được đưa vào sấy ở máy sấy 2 trục hoặc sấy phun.
Trong tế bào nấm men kể cả vi khuẩn, có nhiều vitamin nhóm B (trừ VTM B12): tiamin, riboflavin, axit niconitic, axit folic, đặc biệt rất giàu tiền VTM D2 (ergosterin). Dưới ánh sáng tia tử ngoại (tia cực tím) ergosterin sẽ chuyển thành VTM D2. Vì vậy trước khi đóng gói sản phẩm sinh khối nấm men được chiếu tia tử ngoại để VTM hoá sản phẩm.
1.2.5. Công nghệ sản xuất protein từ sắn không qua quá trình thuỷ phân ban đầu.
Nghiên cứu của Azoulay đã giúp cho hãng Adour Entreprise ( Pháp) phân lập
được một chủng nấm men Candida tropicalis có thể lên men trực tiếp sắn mà không cần quá trình thuỷ phân ban đầu theo qui trình công nghệ như sau:
- Củ sắn được rửa, thái mỏng rồi nghiền nhỏ. Hoà tan tinh bột bằng cách đun nóng > 100oC đồng thời cũng là để thanh trùng tránh nhiễm tạp khuẩn. Cách xử lý này cũnglàm phân huỷ các axit hydroxianic có trong sắn (Manihot esculenta) chuyển thành amon và axit focmic.
- Lên men: quá trình lên men được thực hiện trong một nồi lên men có sục khí. Dịch lên men thu được chứa 10 – 25 kg nấm men/m3 . Sau khi li tâm, dịch trong được thu hồi để quay trở lại lên men mẻ sau, còn sinh khối nấm men chưa tới 15 % chất khô được đưa đi xử lý tiếp để thu hồi sinh khối. Trong một số trường hợp chăn nuôi gia súc (lợn), có thể bổ sung trực tiếp nấm men tươi vào thức ăn mà không cần làm khô (Inchauspe, 1986).
1.2.6. Sản xuất protein từ chuối:
Ở Encuador, nước xuất khẩu chuối hàng đầu thế giới, và nước Colombia – cũng là nước chủ chốt về xuất khẩu chuối, luôn luôn có một tỉ lệ lớn sản lượng chuối (> 25 %) không xuất khẩu được vì kém chất lượng. Vì vậy chuối có thể là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất SCP. Khoảng 15000 tấn chuối có thể chuyển hoá thành 100000 tấn sinh khối mỗi năm.
1.2.7. Công nghệ sản xuất protein trên dịch thuỷ phân gỗ.
Ở Mỹ, nấm men gia súc được sản xuất từ dịch kiềm sunfit của các nhà máy bột giấy.
Một số công ty như công ty Enviroson Ltd đã dùng nước thải bột giấy đem khử trùng (ở 121oC/1giờ) rồi làm nguội đến 37oC để làm cơ chất cho sự phát triển hiếu khí của một loại vi nấm Chactomium cellulolytium. Ngoài ra trong môi trường còn bổ sung các chất dinh dưỡng khác chứa nitơ, photpho và kali. Vi nấm tồn tại như những vật rắn dạng huyền phù, bám vào sợi xelluloza trong cơ chất và tiết ra enzim xenluloza làm chuyển hoá xenluloza thành glucoza. Sau khi đồng hoá được xenluloza, vi nấm tạo sinh khối và thải ra CO2. Đối với dịch kiềm sunfit này, các chủng nấm men sản xuất cần được làm quen với nồng độ axit sunfurơ cao ngay trong các bể tập trung.
Cứ mỗi tấn carbon của cơ chất thì có thể tạo ra 500kg sinh khối. Sản phẩm cuối cùng chứa 40 % protein, 60% lipit, xenluloza và hydrat cacbon (với sản phẩm có độ ẩm 5%) (theo Chemical Engineering News, 6-2-1984).
Một số nhà máy khác sử dụng công nghệ Pekilo của công ty Tampella với chủng nấm thuộc chi Paccilomyces nuôi cấy trên dịch sunfit. Trước khi lên men, hầu hết SO2 được loại bỏ bằng cách sục bằng hơi nước qua dung dịch sunfit. Đưa vào nồi lên men các chất có chất dinh dưỡng khoáng như axit photphoric, KCl, khí NH3 và sục đều bằng không khí nén. Sau khi lên men, sinh khối vi nấm được tách ra và rửa trong các máy ép lọc đến Bx = 35%, sau đó đem sấy bằng không khí nóng rồi ép và tạo hạt.
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TẢO SPIRULINA
2.1 Tảo sprulina là gì?
Tảo Spirulina (Spirulina platensis) là một loài vi tảo có dạng xoắn hình lò so, màu xanh lam với kích thước chỉ khoảng 0,25mm. Chúng sống trong môi trường nước giàu bicarbonat (HCO3) và độ kiềm cao (pH từ 8,5-11).
Năm 1964, Brandily - một nhà nhân chủng học người Pháp là người đầu tiên phát hiện ra loài tảo này trong lần khảo sát sự đa dạng sinh học tại vùng hồ ở Tchad (Châu Phi) sau khi quan sát và nhận thấy những người dân sống quanh vùng hồ này rất khoẻ mạnh vì họ thường vớt loại tảo này về ăn như là một loại thực phẩm chính.
Hai mươi năm sau, vào những năm cuối thập kỷ tám mươi thế kỷ 20 - nhiều giá trị dinh dưỡng và chức năng sinh học của tảo Spirulina đã được khám phá và công bố rộng rãi không chỉ ở Pháp mà ở cả nhiều nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật, Canada, Mehico, Đài Loan…
Hầu hết các nghiên cứu đều đã chỉ ra rằng tảo Spirulina rất giàu protein (tới 60-70% trọng lượng khô của tảo) trong khi thịt bò loại I chỉ có 21%, thịt gà ta 20,3%, thịt lợn nạc 19%, thịt chó sấn 16%... Chỉ số hóa học (chemical score - C.S) của protein của tảo cũng rất cao trong đó các loại acid amin chủ yếu như leucin, isoleucin, valin, lysin, methionin và tryptophan đều có mặt với tỷ lệ vượt trội so với chuẩn của tổ chức lương nông quốc tế (F.A.O) quy định. Hệ số tiêu hóa và hệ số sử dụng protein (net protein utilization - N.P.U) rất cao (80-85% protein của tảo được hấp thu sau 18 giờ).
Hình 2.1 Tảo spirulina
Trong 100g bột tảo chứa tới 1g (1%) acid gama linolenic (tiền thân của chất prostaglandin, có tác dụng cùng với vitamin E chống vữa xơ động mạch, điều hòa huyết áp, bảo vệ gan và các tế bào thần kinh.
Hình 2.2 Bột tảo xoắn spirulina
Spirulina có các loại vitamin nhóm B, hàm lượng vitamin B12 cao gấp 2 lần trong gan bò. Caroten cao gấp 10 lần trong củ cà rốt. Sắc tố tạo cho tảo có mầu xanh lam (phycoyanin), các nguyên tố vi lượng như K, Mg, Fe, Mn, Zn cũng rất cao có lợi cho hoạt động của hệ thần kinh và tim mạch, chống lão hóa ngăn ngừa bệnh ung thư và kích thích sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với các tác nhân có hại từ bên ngoài. Đặc biệt - kẽm (Zn) và các acid amin: tryptophan, arginin có trong tảo giúp tăng cường khả năng hoạt động tình dục, tăng cảm giác hưng phấn tình dục ở nam giới (những người thiếu arginin có thể mắc chứng bất lực hoặc vô sinh).
Chính vì có những giá trị dinh dưỡng và giá trị sinh học đặc biệt như thế tảo Spirulina đã được coi là một loại thực phẩm chức năng (functional food) một thức ăn cho sức khoẻ (health food) và đã được nhiều nước, nhất là những nước công nghiệp phát triển đưa vào nuôi trồng công nghiệp và sử dụng rộng rãi dưới nhiều dạng chế phẩm khác nhau với sản lượng hàng trăm tấn ở mỗi nước một năm, đứng đầu là các nước Mehico, Mỹ, Nhật, Đài Loan v.v…
Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu quy mô đã công nhận tảo Spirulina là thực phẩm bảo vệ sức khỏe tốt nhất của loài người trong thế kỉ 21, là một trong những nguồn protein tốt nhất.
Nếu so sánh với thực phẩm thông dụng như thịt, cá, rau, quả…, Spirulina với lượng chất đạm không dưới 70% là nguồn chất đạm nhiều gấp 3 lần thịt bò (20-25%), hơn xa thịt gia cầm (22-30%), và vượt xa sữa tươi (3-4%). Không chỉ có thế, chất đạm trong Spirulina là tổng hợp của 20 loại acid amin vừa dễ được dung nạp, vừa rất cần thiết cho nhiều chức năng, từ hoạt động của hệ miễn nhiễm bước qua khả năng tư duy cho đến tiến trình tái tạo tế bào.
Spirulina bổ sung các loại sinh tố thuộc nhóm kháng ung thư, như sinh tố A với hàm lượng cao hơn trong gan bò, sinh tố E nhiều hơn trong dầu thực vật, tiền sinh tố A với tỷ lệ cao hơn trong rau quả. Khéo hơn nữa là sự hiện diện của tập thể sinh tố B1, B2, B6, B12, PP… trong Spirulina giúp cho các acid amin trong tảo được biến dưỡng một cách tối ưu.
Nhờ dồi dào về thành phần khoáng tố, như vôi, magnê, phốt-pho, kali, sắt, kẽm, selen, crôm, molybdan… với hàm lượng cao hơn trong sữa tươi, Spirulina là biện pháp sinh học vừa kiện toàn hoạt động của hệ miễn nhiễm, vừa ổn định nhiều quy trình biến dưỡng thông qua ảnh hưởng hài hòa trên trục thần kinh - nội tiết, để từ đó tác động trên nhiều chức năng, từ quy trình chống loãng xương bước qua biến dưỡng chất đường cho đến tiến trình tạo huyết.
Thêm vào đó, thành phần chất béo loại có cấu trúc hữu ích, như chất béo 3-Omega, là cơ sở để Spirulina giữ vai trò tương tranh với chất mỡ trong thực phẩm.
Nói một cách tóm lược, Spirulina không chỉ tốt nhờ thành phần toàn diện mà nổi bật nhờ tỷ lệ lý tưởng giữa đạm, đường, béo, sinh tố, khoáng tố và chất kháng oxy-hóa. Spirulina nhờ đó là món ăn không gây gánh nặng cho đường tiêu hóa. Ngược lại, nhờ sự hiện diện của hoạt chất trong Spirulina mà các cơ quan giải độc như gan, thận, da hoạt động với hiệu năng tối đa.
2.2 Tình hình tảo spirulina ở Việt Nam và thế giới
2.2.1 Trên thế giới
Hiện nay trên thế giới phát triển rất mạnh việc nuôi cấy tảo Spirulina và Chlorella để thu nhận sinh khối cho người và động vật, trong đó Spirulina được sản xuất nhiều hơn. Thực tế cho thấy, 1 ha bề mặt nuôi cấy tảo thu nhận được 10- 15 tấn tảo một năm, cao hơn rất nhiều so với trồng lúa. Một trong những giống được sử dụng nhiều nhất là Spirulina maxima. Tảo lam này phát triển thành sợi, do đó dẽ thu nhận thậm chí bằng các phương pháp thủ công như cào và lọc.
Từ thập niên 70, ở Nhật Bản và Mỹ tảo Spirulina đã được xem là một loại siêu thực phẩm. Đến những năm 1990, vấn đề tiêu thụ Spirulina đã tăng vượt bậc tại Trung Quốc, Ấn Độ, châu Á, Bắc Mỹ làm cho Spirulina ngày càng trở nên phổ biến.
Mexico: vào những năm 70, một công ty của Pháp đã phát hiện tảo trong hồ Texcoco phát triển tốt trong môi trường kiềm có nhiều muối cacbonat. Nhà máy sản xuất công nghiệp lớn đầu tiên trên thế giới được xây dựng ở đây.
Hình 2.3. Hồ Sosa Texcoco –Mexico
Năm 1979, lần đầu tiên Mexico xuất khẩu những loại thức ăn dinh dưỡng từ
Spirulina sang U.S.
Ở Myanmar: Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1988 ở hồ Twin Taung. Năm 1993, 30 tấn tảo được thu hoạch và tiêu thụ trong địa phương. Vào năm 1999, việc sản xuất tăng lên 100 tấn/ năm. Khoảng 60 % tảo được thu hoạch bằng thuyền ở bên ngoài của hồ và khoảng 40 % mọc dọc theo cạnh hồ. trong suốt thời kì tảo phát triển mạnh vào mùa hè, khi Spirulina mọc thành những thảm dày bên trong hồ, người ta dùng thuyền để thu hoạch tảo vào trong những cái thùng. Sau khi thu hoạch xong được đem đi lọc, rửa sạch với nước tinh khiết, tách nước và lặp quá trình đó một lần nữa
Hình 2.4 Hồ Twin Taung- Myanmar
Sat: Những cái ao có tính kiềm xung quanh hồ Sat ở châu Phi là một vùng lý tưởng cho tảo Spirulina phát triển. Phụ nữ bản xứ đã thu hoạch Spirulina và chế biếnthành món ăn gọi là “dihé”, sản lượng thu hoạch khoảng 30 tấn/năm.
Thailand: Tảo được trồng vào năm 1978 gần Bangkok. Với điều kiện khí hậu
nhiệt đới, tảo ở đây phát triển tốt và cho năng suất cao 150 tấn/năm và lúc này là 170 tấn/ năm. Ngoài ra còn một vài cơ sở sản xuất nhỏ ở Thái Lan. Tảo được bán cho Nhật Bản làm thức ăn dinh dưỡng.
Hình 2.5. Hồ trồng Spirulina của công ty Siam- Thái Lan
Hawaii, USA: Cyanotech mở một nông trại sản xuất Spirulina vào năm 1985 trên bờ biển Kon thuộc đảo Big- Hawaii, những năm gần đây, khu vực này đã được mở rộng và sản sinh hơn 400 tấn Spirulina/năm cùng với tảo Dunaliella.
Trung Quốc: Ngày nay Trung Quốc có khoảng 80 loại Spirulina với năng suất thu hoạch khoảng 500 tấn/năm trong đó ở đảo Hainan có sản lượng 300 tấn/năm.
Đài Loan: Vào thập niên 70, Đài Loan chủ yếu trồng Chlorella nhưng có 5 loại Spirulina có khả năng sản sinh vài trăm tấn/năm. Ngày nay Spirulina được nuôi trồng rất nhiều và được thu hoạch khoảng 460 tấn/năm.
Ấn Độ: Việc nghiên cứu bắt đầu vào cuối những năm 70, từ qui mô gia đình họ chuyển sang dạng canh tác lớn hơn. Vào năm 1990, Ấn Độ thành lập nên một tiêu chuẩn quốc tế và các loại thức ăn từ Spirulina. Hiện nay có 2 cơ sở sản xuất lớn ước tính sản lượng khoảng vài trăm tấn/năm.
Cuba: Có hai cơ sở sản xuất khoảng 40 tấn/ năm.
Chilê: Năm 1991, Solarium bắt đầu sản xuất ở vùng Atacama, sản lượng khoảng 3 tấn/năm.
Israel: Viện nghiên cứu Desert đã nghiên cứu Spirulina được hơn 20 năm nhưng sự sản xuất với qui mô lớn ở Israel không thành công.
Các nơi khác: Spirulina còn được trồng ở một số nước như Bangladesh,
Philippiness, Martinique, Peru, Brazil, Spain, Portugal, Australia và một số nước khác. Việc nuôi trồng Spirulina đang phát triển trên khắp thế giới
2.2.2 Ở Việt Nam
Công ty cổ phần nước khoáng Vĩnh Hảo -Tỉnh Bình Thuận có cơ sở nuôi trồng tảo Spirulina Platensis đại trà với qui mô lớn ở Việt Nam. Sản lượng hiện nay từ 8 - 10 tấn/năm. Dự kiến tăng sản lượng lên 15 tấn/năm. Tảo Spirulina Platensis nuôi trồng ở Vĩnh Hảo chứa lượng đạm rất cao và nhiều thành phần sinh hóa có giá trị:
• Protein: 60 - 70 % trọng lượng khô, có đầy đủ các axit amin không thay thế.
• Gluxit: 3 - 6%
• Lipit: 2 - 3 %
• Các vitamin: β−caroten, B1, B2, B3, B6, B12, E
• Các nguyên tố khoáng: Na, K, Ca, Mg, Fe
• Các sắc tố: clorophyll, pycobiliproten và carotenoit.
Thị trường chính để tiêu thụ tảo là các công ty dược , công ty thực phẩm cao cấp.
Một số hình ảnh về việc nuôi trồng tảo ở vùng suối khoáng Vĩnh Hảo:
Hình 2.6 Phòng nhân giống và khu nuôi cấy cao tốc
Hình 2.7. Hồ nuôi tảo và sản phẩm
Ngoài ra, năm 2003 mô hình nuôi tảo bằng nhà kính ở Long An theo qui trình nuôi tảo sạch của Thạc sĩ Lê Văn Lăng đã được sản xuất ổn định và có hiệu quả kinh tế. Hiện nay mô hình nuôi trồng này đã được đưa vào ứng dụng với qui mô sản xuất 2 đến 3 tấn/năm. Giá thành của loại tảo xoắn này khoảng 10 - 16 USD/kg. Đến nay, tảo Spirulina đã được công ty thực phẩm Đồng Tâm dùng làm nguyên liệu chính để sản xuất bột dinh dưỡng cho trẻ em. Tảo Spirulina được một số công ty dược mua để bào chế sản xuất các loại thuốc lợi sữa, thuốc chống suy dinh dưỡng... Ngoài ra, một số công ty dược liệu nước ngoài đã đặt mối quan hệ và đặt hàng tảo Spirulina dạng khô.
Tảo Spirulina được giáo sư Ripley D.Fox - nhà nghiên cứu về tảo và các chế phẩm của nó tại "Hiệp hội chống suy dinh dưỡng bằng các sản phẩm từ tảo" (A.C.M.A) tại Pháp đưa vào Việt Nam từ 1985.
Trong những năm 1985-1995 đã có những nghiên cứu thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học cấp nhà nước như nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Hữu Thước và cộng sự (Viện Công nghệ Sinh học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) với đề tài "Công nghiệp nuôi trồng và sử dụng tảo Spirulina". Hay đề tài cấp thành phố của Bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng (TP Hồ Chí Minh) và cộng sự với đề tài "Nghiên cứu sản xuất và sử dụng thức ăn có tảo Spirulina trong dinh dưỡng điều trị" v.v.
Hình 2.8 Bể nuôi cấy tảo spirulina
Cho đến nay, nhiều cơ sở nuôi trồng, sản xuất và chế biến các sản phẩm từ tảo Spirulina đã được thành lập với công nghệ nuôi tảo trên các bể nông xây bằng xi măng sử dụng khí CO2 của công nghệ tạo nguồn cacbon, nguồn CO2 trực tiếp lấy từ các nhà máy bia, cồn, rượu…nén hóa lỏng vào bình chứa. Đó là các cơ sở như Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Châu Cát, Lòng Sông (Thuận Hải), Suối Nghệ (Đồng Nai), Đắc Min (Đắc Lắc). Nguồn CO2 từ lò nung vôi (sau khi lọc bụi) và các hầm khí bioga cũng đã được nghiên cứu tận dụng để phát triển nuôi trồng tảo và cũng đã thu được một số kết quả.
2.3 Các sản phẩm spirulina có ở Việt Nam hiện nay
Ngoài các sản phẩm Spirulina nhập từ Thái Lan, Trung Quốc… với nhiều tên gọi khác nhau, bán hàng theo phương thức phân phối đa cấp với tỷ lệ chiết khấu cao gây thiệt thòi cho người tiêu dùng.
Các sản phẩm được chế biến từ tảo Spirulina tại Việt Nam cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng. Trước đây đã từng có bột dinh dưỡng Enalac, Sonalac (5% tảo), viên nang Linaforce của Trung tâm Dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh, Lactogyl và Linavina của xí nghiệp Dược 24 thành phố Hồ Chí Minh (Công ty cổ phần Hóa dược phẩm Mekofa), viên Spirulina của Công ty nước suối Vĩnh Hảo. Nay đã có 5 sản phẩm Spir@ của Công ty DETECH (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) được Cục An toàn vệ sinh thực phẩm - Bộ Y tế cấp phép lưu hành trên thị trường.
1 số sản phẩm điển hình:
- Spir@ B (Tảo bồi bổ) tảo xoắn Spirulina dùng cho người suy dinh dưỡng, người mới ốm dậy cần bồi bổ phục hồi sức khoẻ… Hoa Hòe, Hoa Cúc dùng cho người bị tăng huyết áp, giảm stress và tăng cường trí nhớ cho người già….
Hình 2.9 Sản phẩm tảo spirulina dạng viên nén đóng hộp
- Spir@ CĐ (Tảo phòng chống độc) Tảo xoắn Spirulina kết hợp tinh chất Cao hạt nho: dùng để tăng sức đề kháng, chống độc, khử gốc tự do…
- Dia-Spir@ (Tảo phòng chống tiểu đường) Tảo xoắn Spirulina kết hợp Vitamin, khoáng chất dùng cho người bị bệnh đái tháo đường týp 1 và týp2.
- Spir@ Cid (Tảo phòng chống ung thư): Tinh nghệ nguyên chất kết hợp với tảo xoắn Spirulina, Cao hạt nho dùng hỗ trợ cho việc phòng và chữa các bệnh ung thư.
Không nên quá đề cao các loại thực phẩm chức năng, thần dược hóa chúng như những "vị thuốc chữa bách bệnh". Nhưng với xu thế hòa nhập cùng thế giới, nhất là sau khi đã tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) chúng ta cũng không thể phủ nhận những tác dụng của thực phẩm chức năng mà thế giới đã thừa nhận. Do vậy người tiêu dùng, nhất là người bệnh và những người có điều kiện về kinh tế (tài chính) nên tìm hiểu và nên sử dụng ngày càng nhiều hơn các loại thực phẩm chức năng như là tảo Spirulina vì sức khoẻ của chính mình.
2.4 Ứng dụng các chế phẩm từ tảo spirulina
2.4.1 Spirulina trong bệnh nội tiết, biến dưỡng và tim mạch
Có thể phòng tránh nhiều biến chứng nghiêm trọng của bệnh tim mạch (nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...) và bệnh nội tiết như tiểu đường (mù mắt, đoạn chi, suy thận, cao huyết áp...) nếu một mặt ngăn chận được tình trạng rối loạn biến dưỡng chất béo dẫn đến xơ vữa mạch máu và mặt khác cung ứng cho cơ thể hoạt chất cơ bản để làm chậm tiến trình lão hóa. Nhờ cấu trúc hóa học hầu như khó tìm thấy trong hoạt chất thiên nhiên nào khác, Spirulina là phương tiện hổ trợ an toàn cho liệu pháp đặc hiệu trong bệnh tim, tiểu đường, rối loạn chức năng tuyến giáp, hội chứng mãn kinh...
2.4.2 Spirulina, giải pháp tốt cho người béo phì
Nhờ lượng chất xơ dồi dào trong thành phần, lại thêm là dạng thực phẩm hầu như không có chất đường, Spirulina dùng trước mỗi bữa ăn là đòn bẩy để người béo phì có thể giảm cân một cách hòa hoãn nhưng với tác dụng dài lâu. Tương tự như thế, nhờ lượng sinh và khoáng tố đa dạng trong thành phần, Spirulina sẽ là một loại thực phẩm rất tốt trong chương trình điều trị cho người áp dụng phương pháp nhịn ăn để chữa bệnh.
2.4.3 Spirulina, chìa khóa sinh học chống lao tâm lao lực
Thông qua tác dụng chuyển hóa chất đạm trong tảo thành tryptophan và serotonin, hai loại hoạt chất cần thiết cho giấc ngủ yên bình và cảm giác lạc quan, Spirulina dùng trước khi ngủ là biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả để người mỏi mệt, suy nhược thần kinh, thiểu năng sinh dục sớm được phục hồi
2.4.4 Spirulina, món ăn nên thuốc trong bệnh mạn tính
Nhờ tác dụng chống thiếu máu cũng như tăng cường khả năng tổng hợp kháng thể đã được xác minh qua nghiên cứu lâm sàng, Spirulina là món tráng miệng không nên thiếu cho người bị chấn thương xuất huyết, sau cuộc phẫu thuật, sau lần xạ trị, hóa trị, sau giờ tập vật lý trị liệu, cũng như cho đối tượng có vết thương ngoài da (viêm da thần kinh, chàm), vết loét trên niêm mạc lâu lành (viêm loét dạ dày, viêm đại tràng mãn).
2.4.5 Spirulina, phương tiện giải độc trong môi trường ô nhiễm
Không có gì khó hiểu nếu đối tượng liên tục đối đầu với độc chất trong môi trường sinh hoạt như nông dân, công nhân... đang là đối tượng khó tránh của nhiều bệnh chứng thoái hóa hay ác tính, từ nhẹ như dị ứng chuyển sang nặng như viêm gan, phong thấp, hay trầm trọng như ung thư! Với nhiều loại hoạt chất kháng oxy-hóa trong thành phần, Spirulina là phương tiện đơn giản để giải độc cho những cơ thể thường xuyên tiếp xúc với thuốc lá, rượu bia, hóa chất nông nghiệp, chất thải kỹ nghệ, khói xăng dầu...
Paracelsus, y sư nổi tiếng nhờ quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh, ắt hẳn phải có lý do chính đáng khi quả quyết “Không có liệu pháp nào phù hợp với cơ thể con người cho bằng tuân