MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 5
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ CHỒNG TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN 5
1. Khái niệm chung 5
1.1. Khái niệm giới, giới tính, bình đẳng giới 5
1.1.1. Khái niệm giới 5
1.1.2. Khái niệm giới tính 6
1.1.3. Khái niệm bình đẳng giới 6
1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân 7
1.3. Khái niệm tài sản, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, chia tài sản của vợ chồng 8
1.3.1. Khái niệm tài sản 8
1.3.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 9
1.3.3. Khái niệm chia tài sản của vợ chồng 11
2. Ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản 11
2.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý 11
2.2. Ý nghĩa về xã hội 12
3. Sơ lược sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản 13
3.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật thời kỳ phong kiến 13
3.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật thời kỳ pháp thuộc 15
3.3. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật thời kỳ từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay 16
3.3.1. Giai đoạn 1945 – 1954 16
3.3.2. Giai đoạn 1954 – 1975 17
3.3.3. Giai đoạn 1975 – 2000 19
3.3.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 20
CHƯƠNG II 22
QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ CHỒNG TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 22
1. Nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản 22
1.1. Nguyên tắc hiến định 22
1.1.1. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật 22
1.1.2. Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật 22
1.1.3. Nguyên tắc nam nữ bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội 23
1.2. Nguyên tắc chung của Luật Dân Sự 23
1.2.1. Nguyên tắc bình đẳng 23
1.2.2. Nguyên tắc quyền bình đẳng của vợ chồng 24
1.3. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng theo Luật HN&GĐ năm 2000 24
2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong các trường hợp chia tài sản 25
2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 25
2.1.1. Căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 25
2.1.2. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 27
2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 28
2.1.4. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung 30
2.1.5. Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng 31
2.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong trường hợp chia tài sản khi vợ chồng ly hôn 31
2.2.1. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn 31
2.2.2. Một số trường hợp đặc biệt về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 36
2.3. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong trường hợp chia tài sản khi một trong hai bên vợ chồng chết 41
2.3.1. Phương thức chia tài sản 41
2.3.2. Điều kiện tạm hoãn phân chia di sản thừa kế 41
CHƯƠNG III 45
THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA 45
VỢ CHỒNG TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 45
1. Thực tiễn bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản 45
1.1. Nhận xét chung 45
1.2. Một số vụ việc cụ thể về bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản 46
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản. 51
2.1. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 52
2.2. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết 54
2.3. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 54
2.4. Về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 55
KẾT LUẬN 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6616 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hôn nhân gia đình hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10 Bộ Luật Dân Sự năm 2005). Có nghĩa rằng, quyền bình đẳng luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản luôn được tôn trọng phát huy, luôn hướng tới sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, và trong một chừng mực có thể, bảo vệ lợi ích chung của gia đình và xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc quyền bình đẳng của vợ chồng
Điều 40 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”( Bộ Luật Dân Sự, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2006. Tr.24
). Quy định đó đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình, cũng như phải có sự bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ chồng. Có như vậy thì mới xây dựng được một gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Đồng thời hạn chế được các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống vợ chồng và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên.
1.3. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng theo Luật HN&GĐ năm 2000
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng đã được quy định tại Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2000: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Có nghĩa vợ chồng không chỉ được bình đẳng trong quan hệ nhân thân mà còn được bình đẳng trong quan hệ tài sản: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cũng như phân chia tài sản. Đây là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, đã được Luật HN&GĐ năm 2000 kế thừa và tiếp tục phát triển ngày một hoàn thiện hơn trên cơ sở của Hiến Pháp năm 1992 cũng như của Bộ Luật Dân Sự và các Luật HN&GĐ trước đó. Nghiên cứu về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa vợ chồng.
2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong các trường hợp chia tài sản
2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
2.1.1. Căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Dưới góc độ bình đẳng thì việc chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn cần thiết khi nền kinh tế của đất nước đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Vai trò của người đàn ông trong gia đình cũng không còn chiếm được vị trí gia trưởng như trước nữa, giữa phụ nữ và đàn ông có quyền ngang nhau và được nhà nước thừa nhận, bảo vệ. Khi người vợ hay người chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng mà không muốn ảnh hưởng đến người khác cũng như để tránh những rủi ro tiềm ẩn như phá sản và những hậu quả của phá sản trong kinh doanh thì việc đảm bảo quyền bình đẳng khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn cần thiết. Đồng thời có những trường hợp mâu thuẫn gia đình không thể hòa giải được nhưng do vợ chồng đã tuổi cao mà không muốn ly hôn vì ngại dư luận nên giải pháp chia tài sản chung của vợ chồng là phù hợp nhất. Hoặc trường hợp người vợ, hay người chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng như trả nợ, cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại… mà bản thân người đó lại không đủ tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ này thì việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng là một giải pháp. Chính vì vậy cần thiết phải quy định về các vần đề liên quan đến quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân nhằm đảm bảo được các quyền năng về tài sản của mỗi người và giúp cho cuộc sống gia đình bền vững, hôn nhân đạt được mục đích.
Tại Khoản 1 Điều 29 Luật HN&G§ n¨m 2000 quy định:
“Khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung, việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Như vậy, theo quy định trên thì vợ chồng có quyền chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại khi có các căn cứ sau:
+ Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng:
Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra. Vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp này mà không bên nào được cản trở bên nào, khẳng định sự bình đẳng cũng như phải đảm bảo được sự ngang bằng nhau khi chia tài sản chung giữa vợ chồng.
+ Vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng:
Nếu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc chia tài sản chung trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp để đảm bảo quyền lợi của vợ chồng và người thứ ba có liên quan đến nghĩa vụ tài sản riêng mà một trong hai vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
+ Có lý do chính đáng khác:
Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn thế nào là lý do chính đáng. Nếu như Nghị Quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&G§ năm 1986 quy định tại Mục 3 Khoản b: “trong khi hôn nhân còn tồn tại, điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng)”. Lý do có thể được xem là chính đáng phải không trái pháp luật, phong tục tập quán, hơn nữa còn phải xuất phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc của người thứ ba. Tuy nhiên, vì chưa có một văn bản cụ thể hướng dẫn thế nào là lý do chính đáng nên sẽ không tránh khỏi sai sót khi áp dụng căn cứ này. Mặt khác, luật hiện hành không có quy định về vấn đề cơ quan nào có thẩm quyền xem xét, thẩm định thế nào là một lý do chính đáng để vợ chồng được chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, dễ dẫn đến trên thực tế vợ chồng tự do thoả thuận, đưa ra một lý do bất kỳ để chia tài sản, do đó, tính chất cộng đồng hôn nhân bị đe doạ, chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng bị biến dạng… Có thể thấy rằng, việc quy định chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là thể hiện quyền bình đẳng của vợ chồng nhưng nhất thiết phải có những cơ chế điều chỉnh hợp lý để đảm bảo quyền bỡnh đẳng và các quyền lợi hợp phỏp khỏc của cỏc bờn cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác trong gia đình, các chủ thể khác có liên quan…
Tuy nhiên trong những trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung để nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản thì không được pháp luật công nhận. Ví dụ nhiều trường hợp các quan chức đã tham ô tài sản của nhà nước sau đó vì sợ bị kê khai tài sản trước pháp luật nên đã thỏa thuận chia tài sản chung với vợ nhằm giảm bớt khối tài sản thuộc về mình. Vì vậy việc chia tài sản chung này không được pháp luật công nhận.
2.1.2. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung và thỏa thuận đó phải lập thành văn bản. Như vậy quyền bình đẳng thể hiện ở sự thỏa thuận của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung và việc vợ chồng có thể thỏa thuận chia một phần hay toàn bộ tài sản chung tùy theo nhu cầu và mục đích của mỗi bên. Tuy nhiên Luật HN&GĐ năm 2000 không đưa ra phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân một cách cụ thể nên vợ chồng không thỏa thuận được theo pháp luật. Vì vậy cần phải có những quy định cụ thể hơn về cách chia và nên chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đó là chia đôi tài sản để đảm bảo được sự bình đẳng và các quyền lợi hợp pháp khác cho các bên.
Trường hợp vợ chồng không thể thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Quyền yêu cầu này là quyền độc lập và bình đẳng như nhau giữa vợ và chồng, do vợ, chồng tự quyết định. Tuy nhiên điều luật cũng không quy định rõ tòa án sẽ áp dụng nguyên tắc nào khi giải quyết. Vì vậy, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, tạo cơ sở pháp lý cho các tòa khi giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trước mắt để đáp ứng nhu cầu thực tế, tòa án sẽ giải quyết nh theo tinh thần của Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 là chia theo nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu đến trường hợp vợ chồng lạm quyền của mình trong việc chia tài sản chung có thể gây hậu quả xấu, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”.
2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
+ Quan hệ nhân thân:
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, do đó giữa hai bên vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như nghĩa vụ chăm sóc, nghĩa vụ yêu thương giúp đỡ nhau, nghĩa vụ chung thủy và có quyền chung sống với nhau tại một nơi… Vì vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có nghĩa là gián tiếp quy định về ly thân. Sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có ở riêng hay không là tùy thuộc vào đời sống cụ thể của vợ chồng, do vợ, chồng tự quyết định. Đây cũng là một yếu tố thể hiện quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi vợ chồng tự quyết định việc tiếp tục sống chung hay sống riêng của mình. Tuy nhiên đa số các trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng vẫn chung sống bình thường với nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của bản thân.
+ Quan hệ tài sản:
Theo quy định tại Điều 30 Luật HN&G§ n¨m 2000: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.
Tiếp sau đó Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&G§ n¨m 2000 như sau:
“Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”
Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ dẫn đến tình trạng vợ chồng bị phân chia và tách biệt về tài sản. Phần tài sản chung đã chia sẽ thuộc về mỗi người, nếu họ chia toàn bộ khối tài sản chung và sẽ không còn tài sản chung. Nếu họ chia một phần tài sản chung thì phần còn lại vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Cả hai người vẫn có quyền đối với phần tài sản chung không chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung đã chia này vẫn thuộc quyền sở hữu của hai vợ chồng. Đối với phần tài sản chung đã chia thì hoa lợi, lợi tức phát sinh thuộc quyền sở hữu của mỗi người trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Khoản 1 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001).
Ngoại trừ những tài sản chung được chia đã được luật quy đÞnh thuộc về ai thì luật còn quy định vÒ tài sản riêng của vợ chồng. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000, sau khi đã chia một phần hoặc chia toàn bộ tài sản chung, thì những thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Đây là quy định mới so với Luật HN&G§ n¨m 1986, song việc quy định này có mâu thuẫn với những quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 hay không? và có đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng hay không? Theo Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Khi có sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì những thu nhập về tài sản lại trở thành tài sản riêng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vậy chế độ tài sản chung của vợ chồng có thể dần dần dẫn đến chế độ tự thỏa thuận. Có thể coi hậu quả pháp lý trên của việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp ngoại lệ khi xác định tài sản chung của vợ chồng. Việc quy định hậu quả pháp lý như vậy, ở một góc độ nào đó, cũng đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ chồng, bởi trong một quan hệ, đặc biệt là quan hệ pháp luật HN&GĐ thì quyền thường gằn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm. Khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt là chia tài sản để đầu tư kinh doanh riêng thì việc xác định hậu quả như vậy là tương đối phù hợp. Các bên tự do thực hiện quyền đối với tài sản và phải tự chịu trách nhiệm khi có rủi ro, thiệt hại xảy ra…
Pháp luật nên chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại trong những trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, hoặc lợi ích của người thứ ba, và cần phải xác định một cách kỹ lưỡng lý do chia tài sản. Nếu áp dụng việc chia tài sản chung giữa vợ chồng khi hôn nhân tồn tại một cách rộng rãi dễ phá vỡ thể chế gia đình, ảnh hưởng không tốt tới tính cộng đồng trong quan hệ hôn nhân. Cho dù, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là đòi hỏi khách quan, nhằm đáp ứng những yêu cầu của vợ chồng trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung một cách có hiệu quả.
2.1.4. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung
Theo Điều 7 Nghị Định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính Phủ quy định :
- Nếu văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
- Nếu văn bản thoả thuận đó được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thỏa thuận. Nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
- Trường hợp văn bản thỏa thuận phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
- Trường hợp Tòa án cho chia tài sản chung khi vợ, chồng không tự thỏa thuận được mà cả hai bên hoặc một trong hai bên có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2.1.5. Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Do việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể xuất phát từ những lý do khác nhau nên việc chia tài sản chung trong trường hợp này nhiều khi không phải là vĩnh viễn. Có những cặp vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung rồi nhưng vì một lý do nào đó mà họ muốn được chấm dứt việc chia tài sản chung. Để giải quyết tình trạng đó Nghị Định 70 của Chính Phủ đã quy định chi tiết tại Điều 9 và Điều 10. Về hình thức việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải bằng văn bản như văn bản thỏa thuận chia tài sản chung, phải có chữ ký của cả hai vợ chồng vào văn bản. Và vợ chồng cũng có quyền tự thỏa thuận khi khôi phục chế độ tài sản chung. Điều đó còng thể hiện và đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng.
2.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong trường hợp chia tài sản khi vợ chồng ly hôn
2.2.1. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
Theo Khoản 1 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó”.
Sự thỏa thuận về việc chia tài sản khi ly hôn là việc vợ chồng đưa ra những yêu cầu, cách thức để chia tài sản sao cho phù hợp với nguyện vọng của mỗi bên, đảm bảo sự ngang bằng và bình đẳng. Theo nguyên tắc này, tính tự thỏa thuận của vợ chồng cũng giống như trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại luôn được áp dụng triệt để. Trước đây, theo Luật HN&GĐ năm 1986 thì sự thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn “phải được Tòa án nhân dân công nhận”. Còn theo Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tại Khoản 1 Điều 95 thì luôn đề cao quyền “tự định đoạt” của vợ chồng, đã không quy định “sự thỏa thuận của vợ chồng” phải được Tòa án nhân dân công nhận. Vậy cần phải có hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền để hiểu rõ tinh thần của điều luật, tránh việc áp dụng tùy tiện, ngăn cản việc vợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Những quyết định của Tòa án trong việc chia tài sản khi ly hôn, các bên đều phải tôn trọng và nghiªm chỉnh thực hiện.
- Tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Sau khi ly hôn, vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình (Điều 32). Việc chứng minh có thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu riêng (Các văn tự, di chúc hoặc các chứng cứ khác chứng tỏ tài sản đó là tài sản riêng của vợ, chồng). Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung (Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000). Sự bình đẳng thể hiện ở việc tài sản riêng của mỗi bên vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó sau khi ly hôn. Việc phải đưa ra chứng cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản riêng nhằm tránh những tranh chấp xảy ra sau khi đã chia tài sản và xác định đúng chủ sở hữu hợp pháp, nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu.
- Khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong quá trình sử dụng ở thời kỳ hôn nhân. Trường hợp vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù.
- Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng đã được cha mẹ vợ (hoặc cha mẹ chồng) tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng; nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi đó là tài sản chung.
- Trong trường vợ hay chång đã vay nợ tiền bạc của người khác để chi dùng cho mục đích riêng thì người đó phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (Khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận để thanh toàn bằng tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì trình tự thỏa thuận luôn là yếu tố tạo sự bình đẳng cho cả hai vợ chồng. Họ được bình đẳng trong phân chia cũng như bình đẳng về quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi vợ chồng không thỏa thuận được với nhau. Tòa án sẽ giải quyết theo nguyên tắc quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000.
Khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau:
“a. Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”.
Xuất phát từ đặc điểm tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, trong đó, “kỷ phần” của mỗi bên vợ, chồng đối với khối tài sản chung luôn được xác định là “ngang bằng nhau”. Vì vậy, khi ly hôn tài sản chung sẽ được chia đôi, đây là một quy định thể hiện rõ sự bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản. Mặc dù có xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp… nhưng điều đó cũng chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho mỗi bên mà thôi. Trong nguyên tắc này, việc xem xét đến “công sức đóng góp” của các bên đối với khối tài sản chung cần phải phân biệt với trường hợp chia tài sản trong việc huỷ kết hôn trái pháp luật để thấy rõ sự bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản khi ly hôn. Đối với trường hợp huỷ kết hôn trái pháp luật, khi các bên không thoả thuận được với nhau về chia tài sản chung thì việc chia tài sản phải tính đến công sức đóng góp của mỗi bên (Điều 17 – Luật HN&GĐ năm 2000), có nghĩa là, giữa họ không phải là vợ chồng hợp pháp, tài sản chung giữa họ chỉ thuộc sở hữu chung theo phần, khi chia phải căn cứ vào công sức đóng góp để chia tài sản. Trong việc ly hôn, bản chất là quan hệ hôn nhân, do đó, về nguyên tắc, tài sản chung phải chia đôi, và để đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng thì cần phải hiểu bình đẳng không có nghĩa là cao bằng, do đó, nếu một bên không có công sức đóng góp gì nhiều đối với tài sản chung, có hành vi hoang phí, phá tán tài sản thì khi chia tài sản, toà án có thể chia cho bên kia phần tài sản nhiều hơn phần mà lẽ ra họ được hưởng chứ không phải xác định môt cách rạch ròi công sức của họ để phân chia theo công sức đó. Như vậy mới thực sự đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản khi ly hôn.
Lao động trong gia đình được coi là lao động có thu nhập là một quy định thể hiện rất rõ quyền bình đẳng của vợ chồng trong khi chia tài sản chung. Nếu người vợ hoặc người chồng chỉ ở nhà chăm sóc con cái, thực hiện những công việc gia đình thì quyền và nghĩa vụ của họ cũng luôn ngang bằng với người kia trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Do đó, khi chia tài sản chung khi ly hôn, quyền của họ cũng luôn được đảm bảo.
“b. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thanh niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Việc chia tài sản giữa vợ chồng không chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi của vợ chồng mà còn phải đảm bảo quyền lợi của con đặc biệt là con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật… Đó cũng là một quy định thể hiện sự bình đẳng cho các thành viên trong gia đình. Trong đó, quyền lợi của người vợ cũng được đặc biệt quan tâm, thể hiện sự ưu tiên bởi xuất phát từ chức năng về giới, về phong tục tập quán … Trường hợp con đã thành niên có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong phần tài sản của cha mẹ theo yêu cầu của người con đó.
“c. Bảo vệ lợi ích của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập”.
Khi chia tài sản của vợ chồng mặc dù theo nguyên tắc chia đôi nhưng vẫn phải đảm bảo quyền lợi của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập ổn định cuộc sống. Đó cũng là một sự bình đẳng đối với cả hai vợ chồng.
“d. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; Bên nào nhận tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch”.
Đây là quy định hoàn toàn hợp lý bởi nếu nhận phần tài sản có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì lẽ dĩ nhiên người đó phải thanh toán phần giá trị chênh lệch cho bên còn lại. Như vậy mới đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho cả hai bên khi chia tài sản.
Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GD năm 2000 quy định: “Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vî, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Khi ly hôn mà giữa vợ chồng vẫn còn nghĩa vụ chung về việc thanh toán tài sản thì họ sẽ thỏa thuận để cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ chung ấy bằng những cách phù hợp với luật định, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đôi bên. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án được yêu cầu sẽ tiến hành giải quyết để tạo ra sự công bằng, bình đẳng và tránh những mâu thuẫn, xung đột sau ly hôn giữa vợ chồng.
Nói tóm lại, về nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, Luật HN&GĐ năm 2000 luôn đề cao tính tự thỏa thuận, sau đó mới là quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Để thấy được sự tôn trọng ý chí tự nguyện của đôi bên và tạo ra một môi trường thực sự bình đẳng cho vợ, chồng lựa chọn và quyết định sao cho phù hợp với lợi ích và nhu cầu của mình.
2.2.2. Một số trường hợp đặc biệt về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
+ Chia tài sản chung khi vợ chồng sống chung với gia đình nhà vợ hoặc nhà chồng
Điều 96 Luật HN&G§ n¨m 2000 quy định “trong trường hợp vợ, chồng chung sống với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (101).doc