Khóa luận Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 4

1.1 Các quan điểm của các nhà kinh tế học về lạm phát 4

1.3 Các nguyên nhân chính của lạm phát 8

1.4 Các cấp độ của lạm phát 10

1.5 Tác động của lạm phát 13

1.6 Mối quan hệ của một số nhân tố cơ bản tới lạm phát 14

1.7 Các biện pháp kiềm chế lạm phát 28

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 36

2.1 Thực trạng nền kinh tế VN những năm gần đây 36

2.2 Thực trạng lạm phát ở VN trong những năm gần đây 46

CHƯƠNG III ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CHÍNH TỚI LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO 49

3.1 Mô hình hồi quy 50

3.2 Mô hình ARIMA 56

CHƯƠNG IV KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ 61

4.1 Kết luận chung 61

4.2 Kiến nghị 61

TỔNG KẾT 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO 66

PHỤ LỤC 67

 

 

doc80 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5241 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rải qua thời kỳ lạm phát cao tại mỗi mức thất nghiệp trong những năm 1970 và 1980: đường Phillips ngắn hạn đã dịch chuyển lên trên. chính phủ đã in tiền nhanh hơn trước kia. Tỷ lệ lạm phát cân bằng dài hạn cao và được kỳ vọng là sẽ cao. Chúng ta rút ra hai kết luận quan trọng: Thứ nhất, sẽ là sai lầm nếu chúng ta giải thích đường Phillips ban đầu thể hiện mối quan hệ đánh đổi thường xuyên giữa lạm phát và thất nghiệp. Đó chỉ là mối quan hê đánh đổi ngắn hạn, nó tương ứng với đường tổng cung ngắn hạn, khi nền kinh tế phải điều chỉnh trước một cú sốc cầu. Thứ hai, tốc độ điều chỉnh nền kinh tế dọc theo đường Phillips phụ thuộc vào hai yếu tố: mức độ linh hoạt của tiền lương danh nghĩa, và do vậy là giá cả, và mức độ chính sách tiền tệ điều chỉnh lãi suất để phục hồi mức tổng cầu nhanh hơn. Tiền lương hoàn toàn linh hoạt sẽ xác lập lại đường Phillips thẳng đứng và đường tổng cung thẳng đứng, tốc độ điều chỉnh nhanh của lãi suất sẽ bù đắp cho cú sốc cầu, sẽ phục hồi lại mức sản lượng, mức thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát và đưa chúng về trạng thái cân bằng dài hạn. Kết luận Đường Philips đã chỉ ra mối quan hệ đánh đổi dài hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Nó cũng cho rằng cả lạm phát và thất nghiệp có thể ở mức thấp. Đường Philips dài hạn thẳng đứng tại mức thất nghiệp cân bằng, tăng hoặc giảm mức thất nghiệp cân bằng là lý do vì sao mức thất nghiệp thực tế tăng hoặc giảm mạnh. Đường Philips ngắn hạn thể hiện mối quan hệ đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp khi nền kinh tế điều chỉnh trước các cú sốc cầu và đưa nền kinh tế trở lại mức cân bằng dài hạn của nó. Chiều cao của đường Philips ngắn hạn phản ánh mức lạm phát dự kiến. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia. Ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa Đồng VN và Dollar Mỹ là 16045 VND/USD hay giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ là 116,729 JPY/USD hay giữa Dollar Mỹ và Euro là 1,28262 USD/Euro. Đồng tiền để ở số lượng một đơn vị trong các tỷ lệ như những ví dụ trên gọi là đồng tiền định danh hay đồng tiền cơ sở. Vì thế, khi cần thể hiện một cách nghiêm ngặt và chính xác, người ta thường nói: "Tỷ giá hối đoái giữa Đồng VN và Dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối định danh bằng Dollar Mỹ là 16015 Đồng bằng 1 Dollar" hoặc "Tỷ giá hối đoái giữa Đồng VN và Dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối định danh bằng Đồng VN là 0,0000624 Dollar bằng 1 Đồng". Một số loại tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái song song Tỷ giá hối đoái có thể được quy định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, và được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng có thể được quy định bởi các cơ quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái khi đổi tại NHTM và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách hàng lẻ thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có hai tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức (có thể do cơ quan hữu trách qui định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách quy đinh) và một tỷ giá không chính thức (còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định. Ở VN, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch của NHTM, và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của NHTM có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá đổi tiền tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song song. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước. Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nội địa / Giá nước ngoài = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa * Tỷ lệ lạm phát trong nước / Tỷ lệ lạm phát nước ngoài. Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế. Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá cố định Giả sử thâm hụt cán cân thanh toán làm giảm cung nội tệ. Chấp nhận thực tế này tức là lãi suất sẽ tăng và suy thoái sẽ xảy ra. Một cuộc suy thoái sẽ giúp đẩy giá xuống thấp và nâng cao sức cạnh tranh. NHTW in tiền và mua trái phiếu trong nước, cung nội tệ tăng trở lại và lãi suất không thay đổi nữa. chính phủ sẽ tránh được một cuộc suy thoái ít nhất là trong ngắn hạn. Giả sử vốn tư nhân vận động tự do, nếu các nhà đầu tư quốc tế có nhiều tiền trong tài khoản của họ hơn so với NHTW thì NHTW sẽ không thể duy trì tỷ giá bằng cách mua hay bán dự trữ ngoại hối. Thay vào đó họ sẽ ấn định lãi suất trong nước để các nhà đầu cơ có được những động cơ đúng đắn. Thay đổi lãi suất sẽ điều chỉnh các luồng vốn và do vậy sẽ điều chỉnh tài khoản tài chính trong cán cân thanh toán. Cố định tỷ giá là một lời cam kết xác lập một mức lãi suất phù hợp để loại bỏ hiện tượng chu chuyển vốn một chiều. Mức lãi suất này cộng với mức thu nhập trong nước sẽ quyết định cầu tiền, nó sẽ phải bằng cung tiền thực tế. Với mức giá đã cho trước thì nó sẽ quyết định cung tiền danh nghĩa. Do vậy trong ngắn hạn chỉ một mức duy nhất một mức cung tiền danh nghĩa có thể thoả mãn điều kiện cân bằng. Giả sử NHTW vẫn muốn tiếp tục thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua bán trái phiếu. Nếu nó tăng cung tiền, lãi suất sẽ giảm và luồng vốn chảy ra ngoài tới khi nào cung tiền quay trở lại mức ban đầu và lãi suất sẽ trở lại mức tương thích duy nhất với mức tỷ giá đã neo trước đó. Khi vốn vận động mạnh thì chính phủ không thể điều chỉnh nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng dài hạn bằng việc thay đổi cung tiền và lãi suất nữa. Đối với nền kinh tế mở khi tỷ giá danh nghĩa đựơc cố định và vốn vận động mạnh: Sau khi có cú sốc cầu, nền kinh tế trong nước sẽ rơi vào suy thoái. Tuy nhiên việc lãi suất giảm sẽ dẫn một luồng vốn lớn chảy ra ngoài, vì thế lãi suất không thể giảm đựơc. Vì vậy cầu tiền giảm do sản lượng giảm nên NHTW phải giảm cung nội tệ tương ứng với mức cầu tiền thấp hơn để tránh không cho lãi suất thay đổi. Do vậy việc sử dụng tỷ giá cố định đã ngăn không cho chính phủ thay đổi mục tiêu cung tiền hay lạm phát. Giả sử có cú sốc cầu ở nước ngoài, nó làm tăng cầu về xuẩt khẩu ròng. Tài khoản vãng lai sẽ chuyển sang trạng thái thặng dư. Nền kinh tế sẽ bùng nổ và có thặng dư tài khoản vãng lai. Nó sẽ tăng dự trữ ngoại hối. Trong nền kinh tế mở có tỷ giá cố định, lãi suất không đổi. Bùng nổ kinh tế sẽ đẩy lạm phát lên cao và làm giảm sức cạnh tranh, làm giảm xuẩt khẩu ròng. Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá thả nổi Khi tỷ giá thả nổi tự do thì sẽ không có một can thiệp chính thức nào của NHTW trên thị trường ngoại hối và không có chuyển giao tiền tệ ròng giữa các quốc gia bởi vì cán cân thanh toán luôn luôn bằng không. Quy tắc tiền tệ và neo danh nghĩa dựa vào tiền tệ khi đó sẽ quyết định tỷ lệ lạm phát trong nước. Nếu các chính sách tiền tệ trong nước và nước ngoài mang lại một tỷ lệ lạm phát chung cho cả hai nước thì tỷ giá thực tế không đổi trong dài hạn sẽ tương ứng với tỷ giá danh nghĩa không đổi trong dài hạn. Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát trong và ngoài nước không bằng nhau trong một thời gian dài thì tỷ giá danh nghĩa sẽ phải thay đổi dần để giữ cho tỷ giá thực tế ở tại vị trí cân bằng của nó. Do vậy trong dài hạn, tỷ giá thả nổi sẽ điều chỉnh để đạt được mức tỷ giá thực tế duy nhất nhằm đảm bảo cân bằng đối nội và đối ngoại, nếu không điều chỉnh kịp thì sự chênh lệch quá lớn trong tỷ giá sẽ đẩy giá cả của các mặt hàng nhập khẩu lên cao, do đó có thể sẽ gây nên những biến động về giá cả trong nước và gây ra lạm phát. Mối quan hệ giữa lạm phát và chi tiêu chính phủ Các chuyên gia kinh tế cho rằng việc chính phủ chi tiêu quá mức là một yếu tố gây lạm phát và cần được cắt giảm. Nguyên nhân của lạm phát cao có một phần quan trọng của chính sách tài khóa lỏng lẻo thể hiện ở bội chi ngân sách tăng liên tục qua các năm. Bội chi ngân sách xảy ra khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách huy động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội thu ngân sách (hay thặng dư ngân sách). Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với VN, chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về giáo dục, y tế, đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước... Chính những yếu kém trong ngân sách (thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát... Về mặt thu ngân sách, thất thu ngân sách hằng năm dẫn đến những hậu quả về nhiều mặt. Một lượng tiền không nhỏ chưa được thu vào ngân sách nhà nước để đáp ứng chi ngân sách, làm mất cân đối thu, chi ngân sách, tức là bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách làm tăng số nợ của chính phủ (nếu chính phủ phải vay trong nước và vay nước ngoài để bù đắp) hoặc phải phát hành tiền. Lượng tiền không nhỏ còn thất thu ở trên cộng với lượng tiền mới đưa ra lưu thông sẽ tạo sức ép đối với lạm phát Về góc độ chi ngân sách, đầu tư, chi tiêu kém hiệu quả góp phần làm bội chi ngân sách, làm tăng nợ của chính phủ. Chính phủ phải phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, lượng tiền trong lưu thông tăng góp phần tạo sức ép lạm phát. Bội chi ngân sách làm tăng số nợ của chính phủ (nếu chính phủ phải vay trong nước và vay nước ngoài để bù đắp) hoặc phải phát hành tiền. Lượng tiền không nhỏ còn thất thu ở trên cộng với lượng tiền mới đưa ra lưu thông sẽ tạo sức ép đối với lạm phát. 1.7 Các biện pháp kiềm chế lạm phát Trong dài hạn, lạm phát sẽ thấp nếu tốc độ tăng trưởng tiền tệ thấp. Điều này đòi hỏi chính sách tài khoá phải tương đối thắt chặt để có mức thâm hụt thấp. Tuy nhiên, nếu xuất phát điểm là mức lạm phát cao thì có được mức lạm phát thấp, nền kinh tế cần phải trải qua một thời kỳ thất nghiệp cao. Chính sách thu nhập Chính sách thu nhập là trực tiếp kiểm soát tiền lương và các khoản thu khác. Một chính sách hạn chế tăng lương nhất định sẽ giúp lạm phát xuống nhanh. Trong lịch sử, chính sách này không thể giảm mức lạm phát xuống thấp. Tại sao các chính sách thu nhập trước đây lại không thành công? Nếu chính phủ can thiệp vào thị trường lao động, chính phủ không thể không theo đuổi các mục tiêu khác cùng lúc đó. Ví dụ, họ cố gắng gìm tiền lương tương đối giữa các loại lao động có kỹ năng khác nhau nhằm hướng tới sự công bằng. Các chính sách này sẽ làm thay đổi tiền lương thực tế của một số loại lao động, và như vậy nó sẽ gây ra tình trạng dư cung đối với một số loại lao động và tình trạng dư cầu đối với một số loại lao động khác. Các lực lượng thị trường cuối cùng sẽ làm cho chính sách này thất bại. Chính sách thu nhập tốt nhất là một phương tiện điều chỉnh tạm thời. Trong dài hạn, tốc độ tăng trưởng tiền tệ danh nghĩa thấp là yếu tố chủ chốt để duy trì mức lạm phát thấp. Một số chính sách thu nhập khác cũng thất bại bởi vì chính phủ mặc dù đã hạn chế việc tăng lương nhưng l¹i liên tục in tiền, một chính sách sẽ gây ra dư cầu lao động và cuối cùng sẽ làm chính sách thu nhập thất bại Chính sách kinh tế vĩ mô trong chế độ tỷ giá cố định Chính sách tiền tệ Lãi suất là cốt để duy trì tỷ giá khi vốn vận động mạnh hoàn hảo. Mức độ vận động của vốn càng cao thì mức độ độc lập của chính sách tiền tệ trong nước càng giảm. Những luồng vốn trái với qui định của pháp luật sẽ không được hoạt động. Các ngân hàng cố gắng tìm ra những cách khác để tiến hành giao dịch mà không trái với qui định của pháp luật. Những luồng vốn cơ động nhất là những luồng vốn rót vào và rút ra có khả năng thanh khoản cao, bằng cách đưa ra mức thuế thấp nên những khoản đầu tư dài hạn không bị ảnh hưởng đáng kể Ở một nền kinh tế áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ sẽ bị hạn chế sử dụng, bởi bất cứ sự thay đổi nào của cung tiền cũng làm thay đổi tỷ giá hối đoái Chính sách tài khoá Tỷ giá cố định cộng với việc vốn vận động hoàn hảo sẽ làm giảm vai trò của chính sách tiền tệ nhưng lại nâng cao hiệu quả của chính sách tài khoá. Trong nền kinh tế mở, chính sách tiền tệ phải điều chỉnh một cách thụ động để giữ cho lãi suất cố định và duy trì tỷ giá neo. Chính vì vậy, khi tổng cầu giảm, chính phủ có thể thực hiện chính sách tài khoá mở rộng để phục hồi lại trạng thái cân bằng bên trong nhanh chóng hơn. Nếu thay đổi tổng cầu là nguyên nhân duy nhất khiến cho tài khoản vãng lai chệch khỏi trạng thái cân bằng đối ngoại thì việc mở rộng tài khoá cũng có thể giúp phục hồi lại trạng thái cân bằng đối ngoại. Chính sách tài khoá là một công cụ chính sách quan trọng trong chế độ tỷ giá cố định. Nó trở lên hữu hiệu hơn khi chính sách tiền tệ không còn được sử dụng nữa. Cơ chế ổn định tài khoá tự động cũng đóng vai trò này. Chỉ khi nào chính sách tài khoá có thể phản ứng nhanh trước những cú sốc tạm thời thì việc thay đổi tuỳ ý trong chi tiêu của chính phủ và thuế suất mới được thực hiện Chính sách kinh tế vĩ mô trong chế độ tỷ giá thả nổi Chính sách tiền tệ Trong nền kinh tế mở với chế độ tỷ giá thả nổi, chính sách tiền tệ tác động tới tổng cầu không chỉ thông qua tác động của lãi suất tới cầu tiêu dùng và đầu tư. Thay đổi lộ trình dự kiến về lãi suất có thể có ảnh hưởng mạnh tới tỷ giá và sức cạnh tranh. Ảnh hưởng tới tổng cầu có thể lớn. Bởi vì, ảnh hưởng của lãi suất tới sức cạnh tranh tác động cùng chiều với ảnh hưởng trong nước, lãi suất thấp thúc đẩy tiêu dùng trong nứơc nhưng cũng làm giảm tỷ giá và tăng sức cạnh tranh và do vậy làm tăng xuẩt khẩu ròng , vì vậy chính sách tiền tệ trở lên hiệu quả hơn trong chế độ tỷ giá thả nổi Chính sách tài khoá Trong chế độ tỷ giá thả nổi, ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tới sức cạnh tranh, củng cố thêm sức mạnh của chính sách tiền tệ nhưng làm suy yếu đi sức mạnh của chính sách tài khoá. Giả sử chính phủ thực hiện chính sách tài khoá mở rộng, tăng chi tiêu của chính phủ. Điều này làm tăng tổng cầu. Dù chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu lạm phát hay mục tiêu cung tiền danh nghĩa thì việc bùng nổ tổng cầu cũng khiến NHTW tăng lãi suất. Lãi suất cao hơn sẽ gây ra sự tăng giá tức thời của tỷ giá danh nghĩa để ngăn không cho vốn chảy vào. Nếu tỷ giá tăng lên khá cao, mọi người tin rằng nó sẽ giảm từ thời điểm đó trở đi. Trong nền kinh tế mở, tăng tỷ giá cũng làm giảm sức cạnh tranh và giảm xuẩt khẩu ròng, tiếp tục làm suy yếu ảnh hưởng của chính sách tài khoá mở rộng với mục tiêu tăng tổng cầu trong ngắn hạn Chính sách lưu thông tiền tệ Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay NHTW để đạt được những mục đích đặc biệt: như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Các công cụ của chính sách tiền tệ Gồm có 6 công cụ sau: Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho NHTM tạo ngoại tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các NHTM. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động NHTW mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh tế vĩ mô: cơ quan hữu trách về tiền tệ (NHTW hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở. Thay đổi lãi suất chiết khấu Cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng cung tiền cũng thay đổi theo. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các ngân hàng phải gửi một phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Nếu mức gửi tăng lên như khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các ngân hàng còn nắm giữ sẽ giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi. Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh được lượng cung tiền. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua và bán trái phiếu chính phủ của FED. Khi FED mua trái phiếu của công chúng, số đô-la mà nó trả cho trái phiếu làm tăng tiền cơ sở và qua đó làm tăng cung tiền. Khi FED bán trái phiếu cho công chúng, số đô-la mà nó nhận làm giảm tiền cơ sở và bởi vậy làm giảm cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách được Fed sử dụng thường xuyên nhất. Những tranh luận về hiệu quả của chính sách tiền tệ Bẫy thanh khoản Khi ở tình trạng bẫy thanh khoản, chính sách tiền tệ sẽ không phát huy hiệu lực. Khi đầu tư không thay đổi theo lãi suất Chính sách tiền tệ làm thay đổi lãi suất, qua đó thay đổi đầu tư của xí nghiệp và điều chỉnh được tổng cầu. Đấy là giả thiết rằng đầu tư của xí nghiệp có phản ứng trước các thay đổi của lãi suất. Tuy nhiên, nếu đầu tư không phản ứng trước thay đổi của lãi suất, thì chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa. Sử dụng phép phân tích IS-LM cũng có thể thấy điều này. Khi đầu tư không phản ứng với lãi suất, đường IS trở nên thẳng đứng. Dù chính sách tiền tệ có làm dịch chuyển đường LM thế nào đi nữa, tổng cầu vẫn không thay đổi. Ngoài ba loại hạn chế nói trên, nếu cơ quan hữu trách tiền tệ không được hoạt động độc lập, thì chính phủ có thể can thiệp vào việc phát hành tiền tệ (chẳng hạn khi cần bù đắp thâm hụt ngân sách), khiến cho hiệu quả của chính sách tiền tệ trở nên hạn chế. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHTW tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Tác động của nghiệp vụ thị trường mở Trong bảng tổng kết tài sản của NHTW, tài sản có chủ yếu là giấy tờ có giá của chính phủ, tài sản nợ chủ yếu là tiền giấy và tiền gửi dự trữ của các NHTM. Khi NHTW bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường như trái phiếu chính phủ, NHTW sẽ "thu tiền" về theo cơ chế sau: tài khoản vãng lai của người mua trái phiếu chính phủ bị NHTM ghi nợ và NHTW sẽ ghi giảm tài khoản tiền gửi dự trữ của các NHTM tại đó. Vì tỷ lệ tiền mặt dự trữ của NHTM bằng tiền gửi dự trữ tại NHTW cộng với tiền mặt tại két dự trữ của họ nên khi tài khoản tiền gửi dự trữ của các NHTM tại NHTW giảm xuống, cơ sở tiền tệ đã giảm đi làm giảm cung tiền một lượng bằng giá trị của trái phiếu chính phủ bán ra nhân với số nhân tiền tệ. Ngược lại, khi NHTW mua vào giấy tờ có giá của chính phủ, nó sẽ ghi tăng tài khoản dự trữ của các NHTM và làm tăng cơ sở tiền tệ dẫn đến cung tiền tăng. Việc ghi tăng tài khoản dự trữ của các NHTM có thể dẫn đến kết cục NHTW phải in thêm tiền giấy nếu các NHTM có nhu cầu lớn về tiền giấy trong khi tiền giấy của NHTW không đủ đáp ứng. Các loại nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở của các NHTW chủ yếu có hai loại: mua bán giấy tờ có giá dài hạn và mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Ở Mỹ, nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu được thực hiện đối với trái phiếu chính phủ dài hạn. Ở VN, theo Luật Ngân hàng Nhà nước VN, nghiệp vụ thị trường mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2.1 Thực trạng nền kinh tế VN những năm gần đây Giá cả hàng hoá gia tăng Nhóm thứ nhất: là hàng lương thực thực phẩm chiếm trọng số trong CPI là 47% đã tăng vọt do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, giá gạo tăng đột biến do sốc mùa vụ. Nhóm thứ hai: là các mặt hàng vật liệu, xây dựng chiếm 8,2% trong tỷ trọng CPI đã tăng giá do giá thép trên thị trường thế giới tăng. Chi phí sản xuất tăng vì giá nguyên liệu và thuế tăng. Nhóm thứ ba: là vận tải, bưu điện và viễn thông chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong CPI đã tăng giá do ảnh hưởng của sự tăng giá dầu thế giới. Kể từ đầu năm 2004, việc thu chính thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế trị giá gia tăng đã tăng giá xe hơi và bia hộp lần lược là 20% và 10%. Cũng bắt đầu từ đầu năm 2004, chính phủ VN bãi bỏ bao cấp đối với dầu hỏa và các biến chế phẩm và đồng thời cho phép các công ty dầu tự ấn định giá bán, nhưng không được cao hơn giá căn bản của nhà nước 10% và đối với dầu Kerosene là 5%. Hơn nữa, trong năm 2007, giá tiêu dùng năm 2007 diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng cao ở các tháng cuối năm. Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng 2,91% so với tháng trước. So với tháng 12 năm 2006, giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng từ 1,69% đến 7,27%. Giá tiêu dùng bình quân năm 2007 so với năm 2006 tăng 8,3%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 11,16%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,01%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng 3,18-6,15%. Riêng trong 4 tháng đầu năm 2008, giá cả hàng hoá đã có nhiều biến động: Giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp hơn mức tăng của các tháng trước nhưng vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao. So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSử dụng mô hình Kinh tế lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan