MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU . 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUỐC TỊCH, SỰ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM . 3
1.1 Khái niệm, vai trò của quốc tịch . 3
1.2 Sơ lược sự hình thành của quan hệ quốc tịch trên thế giới . 4
1.3 Vài nét về quá trình hình thành pháp luật quốc tịch Việt Nam . . 6
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1988 . 6
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1988 tới năm 1998 . 8
1.3.3 Giai đoạn từ năm 1998 tới năm 2008 . 9
1.3.4 Giai đoạn từ năm 2008 đến nay . 11
1.4. Các nguyên tắc của pháp luật quốc tịch Việt Nam . 12
1.4.1 Quyền bình đẳng về quốc tịch . 13
1.4.2 Nguyên tắc một quốc tịch . 14
1.4.3 Nguyên tắc về chính sách bảo hộ người Việt Nam ở nước ngoài 16
Chương 2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ . 18
2.1 Xác lập quốc tịch Việt Nam . . 19
2.1.1. Có quốc tịch Việt Nam do sinh ra . 19
2.1.2. Nhập quốc tịch Việt Nam . . 23
2.1.3. Trở lại quốc tịch . 33
2.1.4. Giữ quốc tịch . . 39
2.1.5 Có quốc tịch theo Điều ước quốc tế . 40
2.2 Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên, con nuôi 41
2.3 Mất quốc tịch . . . 44
2.3.1 Thôi quốc tịch Việt Nam . . 45
2.3.2 Tước quốc tịch . . 46
2.3.3 Mất quốc tịch theo một số trường hợp khác 47
2.4 Thời hạn giải quyết các việc về quốc tịch . 49
2.5 Đánh giá về luật quốc tịch Việt Nam qua từng thời kì 50
2.6 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của nước ta hiện nay . . 53
KẾT LUẬN . 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể được nhập quốc tịch. Tuy nhiên, việc quy định như thế này rất dễ nảy sinh những trường hợp mà cá nhân mặc dù có thể đáp ứng những điều kiện nhất định về độ tuổi nhưng thiểu năng trí tuệ nên sẽ tạo thành gánh nặng đối với cộng đồng.
Đủ năng lực hành vi dân sự: Một người được coi là có đầy đủ năng lực hành vi dân sự khi và chỉ khi họ đủ tuổi thành niên và không bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, pháp luật đã có thể hoàn toàn loại trừ những hệ quả pháp lý do trường hợp trên mang lại.
Thứ hai, phải có một thời gian cư trú nhất định trên lãnh thổ nước ta.
Pháp luật quốc tịch nước ta qua các thời kì phát triển đều quy định thời gian cư trú nhất định đối với người xin nhập quốc tịch. Tuy nhiên, tùy theo từng giai đoạn mà có sự hướng dẫn, giải thích khác nhau về thuật ngữ “cư trú”. Thời gian cư trú có thể được hiểu là thời gian thường trú hoặc bằng các khoảng thời gian tạm trú trên lãnh thổ Việt Nam cộng lại. Chính vì có sự khác nhau như vậy mà đã dẫn tới những khó khăn khi giải thích và áp dụng điều luật này trong thực tế. Trong lịch sử pháp luật quốc tịch đã có thời kì vấp phải sai lầm này và dẫn đến những hậu quả pháp lý trong thực tiễn cuộc sống (giai đoạn năm 1988 - 1998).
Trên thế giới, hầu hết pháp luật của các nước đều sử dụng thuật ngữ “thường trú”, điều này có thể được hiểu là một người có thể được nhập quốc tịch của một quốc gia chỉ khi họ cư trú liên tục trên lãnh thổ của nước đó trong một thời gian nhất định.
Thứ ba, yêu cầu về khả năng ngôn ngữ hay khả năng hòa nhập cộng đồng.
Một cá nhân chỉ có thể thỏa mãn điều kiện này khi người đó biết tiếng Việt ở một mức độ nhất định đủ để họ có thể hiểu biết lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước ta và hòa nhập được vào cộng đồng dân cư mới ở mức độ tối thiểu. Tuy nhiên, thông thường, người xin nhập quốc tịch phải có giấy chứng nhận biết tiếng Việt. Đây cũng là một quy định còn có nhiều tranh cãi trong pháp luật quốc tịch Việt Nam nhất là trước Luật quốc tịch năm 2008 và đã gây ra nhiều vướng mắc và bất cập trong thực tiễn áp dụng.
Thứ tư, điều kiện về tư tưởng chính trị.
Bên cạnh các điều kiện về nhân thân, những yêu cầu về tư tưởng chính trị cũng là một nội dung đặc biệt quan trọng. Để hạn chế khả năng người nhập quốc tịch có thể làm phương hại tới nền chủ quyền, an ninh, trật tự xã hội của nước mà cá nhân đó xin nhập quốc tịch, pháp luật quốc tịch thế giới qua các thời kì đều quy định điều kiện này dưới các hình thức khác nhau như quy định không cho phép người có xu hướng chính trị đối lập nhập quốc tịch hay được thể hiện bằng các ngôn từ khác như: “hạnh kiểm tốt”, “đạo đức tốt”, “tuân thủ Hiến pháp và pháp luật” ... [19, tr 51]. Nhưng do đây là một quy định khá chung chung và không rõ ràng về mặt ngữ nghĩa nên pháp luật quốc tịch nước ta cần có một sự giải thích pháp lý tương ứng.
Cá nhân xin nhập quốc tịch chỉ có thể được nhập quốc tịch khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện trên. Tuy nhiên trong một số trường hợp, đương sự có thể được miễn giảm các điều kiện. Xuyên suốt lịch sử phát triển, bên cạnh các quy định về điều kiện nhập quốc tịch, nhà nước ta còn quy định các trường hợp được miễn giảm những điều kiện trên. Đây thường là những đối tượng đặc biệt như: đóng góp vào cuộc cách mạng của Việt Nam (pháp luật những năm 1945) hay có mối quan hệ thân thích, huyết thống với công dân Việt Nam (những thời kì sau năm 1945) .v.v.
Quốc tịch liên quan trực tiếp đến chủ quyền quốc gia nên bên cạnh các quy định trên, luật quốc tịch còn quy định những trường hợp không được nhập quốc tịch. Trong lịch sử pháp luật quốc tịch Việt Nam, nội dung này chỉ bắt đầu được quy định từ luật quốc tịch năm 1998 và được giữ nguyên tại luật năm 2008, mà cụ thể là người xin nhập quốc tịch không được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay vẫn chưa có một sự giải thích pháp lý rõ ràng thế nào là “phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam” nên quy định này một phần nào đã gặp khó khăn trong việc áp dụng, thực hiện trên thực tế.
Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1988
Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta, pháp luật còn bảo đảm cho cả những người nước ngoài đã sinh sống lâu năm và tỏ lòng trung thành với nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được nhập quốc tịch nước ta để có thể hưởng quyền bầu cử. Vì vậy ngày 7/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 73/SL quy định điều kiện, thủ tục để người nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam để họ trở thành công dân Việt Nam và được hưởng quyền bầu cử.
Tuy nhiên trong khi đó, các thế lực thù địch luôn đe dọa phá hoại chính quyền non trẻ của ta bằng mọi thủ đoạn. Do vậy các điều kiện nhập quốc tịch thời kì này được đánh giá là khá chặt chẽ trong lịch sử pháp luật quốc tịch Việt Nam. Ngoài các nội dung cơ bản như biết tiếng nói Việt Nam, đủ 18 tuổi trở lên, sắc lệnh số 73/SL còn quy định thời gian cư trú phải từ 10 năm, có nơi cư trú nhất định trên lãnh thổ nước ta ... Những quy định này đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử lúc bấy giờ. Tuy nhiên, nó vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Người muốn nhập quốc tịch phải đủ 18 tuổi. Với việc quy định như vậy, các nhà làm luật đã không thể bao quát được trong thực tế những trường hợp người nhập quốc tịch sẽ trở thành gánh nặng cho đất nước nếu họ bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Điều kiện chính trị: Người xin nhập quốc tịch phải “có hạnh kiểm tốt”. Trong các văn bản về quốc tịch giai đoạn này chưa có một quy định giải thích, hướng dẫn cụ thể. Điều đó đã tạo nên những khó khăn khi thực hiện, áp dụng điều luật trong thực tiễn cuộc sống hoặc chỉ có thể tạo ra được một quy định trên giấy do sự chung chung, không rõ ràng của điều luật.
Sắc lệnh số 73/SL là văn bản đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa quy định về việc “nhập quốc tịch”. Nhìn chung, các điều kiện để nhập quốc tịch thời kì này đã đáp ứng được các yêu cầu, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, do đây là sự ghi nhận đầu tiên trong lịch sử pháp luật quốc tịch nước ta nên những quy định này vẫn tồn tại nhiều thiếu sót, hạn chế.
Giai đoạn từ năm 1988 tới năm 1998:
Như trên đã phân tích, các điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam trong Sắc lệnh số 73/SL rất chặt chẽ. Những quy định này chỉ nhằm tạo điều kiện cho những người không có quốc tịch Việt Nam đã làm ăn, sinh sống, định cư lâu dài trên nước ta được nhập quốc tịch trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài. Tới khi đất nước thống nhất, nhà nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu đối ngoại với nhiều nước trên thế giới, sự có mặt của người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng thì điều luật này đã trở thành một rào cản trong quá trình mở cửa. Chính vì vậy mà so với sắc lệnh số 73/SL, luật năm 1988 chỉ còn ghi nhận ba điều kiện cần và đủ để bảo đảm cho một người nhập quốc tịch Việt Nam có thể thực sự hòa nhập vào cộng đồng. Đó là :
Từ 18 tuổi trở lên.
Biết tiếng Việt.
Đã cư trú ở Việt Nam ít nhất 5 năm.
Ngoài ra, người xin nhập quốc tịch còn phải đảm bảo “tự nguyện tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Đây là nội dung thuộc nhóm điều kiện về tư tưởng chính trị của người xin nhập quốc tịch. Trong những giấy tờ phải nộp khi đương sự xin nhập quốc tịch thì phải có bản khai lý lịch (theo quy định tại khoản 1 điều 8 Nghị định số 37-HĐBT). Theo đó, để xem xét một người có đủ điều kiện về chính trị hay nhân thân hay không, các cơ quan chức năng thường thẩm tra rất chặt chẽ lý lịch của người xin nhập quốc tịch. Nếu một người có biểu hiện gian dối để nhập quốc tịch thì sẽ bị những chế tài của Nhà nước. Nếu người đó đã nhập quốc tịch thì có thể bị hủy quyết định nhập quốc tịch. Nội dung này đã theo kịp xu hướng phát triển chung của pháp luật quốc tịch trên thế giới và là một quy định tiến bộ so với pháp luật thời kì trước.
Bên cạnh những ưu điểm trên, nhóm quy định về nhập quốc tịch giai đoạn này còn nhiều hạn chế, gây ra những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện trên thực tế, thể hiện qua những điều kiện như “a) Đủ 18 tuổi ... c) Đã cư trú ở Việt Nam ít nhất 5 năm”. Nếu như yêu cầu về năng lực hành vi dân sự không có gì thay đổi so với sắc lệnh số 73/SL thì điều kiện về khoảng thời gian cư trú đã được rút ngắn đi. Quy định này đáp ứng những yêu cầu của thời kì đầu công cuộc đổi mới của đất nước ta.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, pháp luật quốc tịch thời kì này được xây dựng trong bối cảnh Việt Nam đang dần mở cửa, các quy định bớt chặt chẽ hơn, tạo điều kiện cho người nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam. Thế nhưng, trong khoảng thời gian luật quốc tịch năm 1988 có hiệu lực, chỉ có hai trường hợp được cho phép nhập quốc tịch [22]. Sở dĩ có điều đó là do sự mâu thuẫn trong cách hiểu thuật ngữ “cư trú”. Chính vì không có cách hiểu thống nhất nên đã tạo ra những giải thích khác nhau trong thực tế, dẫn tới hệ quả rất ít trường hợp có thể thỏa mãn điểm c khoản 1 điều 7 luật quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Tới giai đoạn này, chế định “nhập quốc tịch” đã phát triển thêm một bước, được quy định một cách có hệ thống hơn và đang dần hoàn thiện. Các quy phạm đã khắc phục được phần nào những hạn chế của pháp luật thời kì trước, tuy nhiên, bên cạnh đó một số điểm bất cập trong Sắc lệnh số 73/SL vẫn còn được giữ nguyên đồng thời phát sinh những quy định chưa hợp lý, gây ra những khó khăn trong việc giải thích và áp dụng trong thực tiễn cuộc sống.
Giai đoạn từ năm 1998 tới năm 2008:
Trong luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, vấn đề nhập quốc tịch được quy định tại điều 20 với năm điều kiện nhập quốc tịch trong đó có bốn nội dung sửa đổi và hai điều kiện được quy định mới so với điều 7 luật quốc tịch Việt Nam năm 1988. Nhóm quy phạm này đã phát triển hơn và từng bước giải quyết được những bất cập mà luật quốc tịch Việt nam năm 1988 để lại, cụ thể là:
Với việc hoàn chỉnh nội dung điều kiện về năng lực hành vi dân sự, các nhà làm luật đã bao quát được phần lớn các trường hợp có thể xảy ra trong thực tế. Điều kiện này đã được xây dựng dựa trên những quy định pháp luật tại Mục 1 Chương 2 Luật dân sự năm 1995. Như vậy, điều kiện về năng lực hành vi dân sự thời kì này đã thể hiện được nội dung chủ yếu, giải quyết được những tồn tại trong việc giải thích các điều kiện nhập quốc tịch giai đoạn trước đó.
Riêng với điều kiện về tư tưởng chính trị, ý thức luật pháp của người xin nhập quốc tịch, điểm b khoản 1 điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 đã bổ sung thêm việc cá nhân đó phải tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam. Đây là một quy định hợp lý và tiến bộ, bởi lẽ Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, với những phong tục tập quán cần được trân trọng, bảo vệ và gìn giữ qua các thế hệ.
Còn với điều kiện về thời gian cư trú đã có sự thay đổi từ thuật ngữ “cư trú” thành “thường trú”. Theo đó, đã có sự thống nhất trong cách giải thích điều kiện này mà cụ thể là, một người chỉ có thể nhập quốc tịch Việt Nam chỉ khi họ đã cư trú liên tục trong một khoảng thời gian nhất định trên lãnh thổ nước ta. Với việc quy định như vậy, pháp luật quốc tịch đã giải quyết được những hạn chế, bất cập của giai đoạn trước đồng thời góp phần đầy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Bên cạnh việc kế thừa luật quốc tịch năm 1988, pháp luật quốc tịch thời kì này cũng quy định hai điều kiện mới góp phần phát triển nhóm quy phạm về điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam. Đó là:
Điều kiện về “khả năng bảo đảm cuộc sống” đã loại trừ được tình trạng người nhập quốc tịch sẽ trở thành gánh nặng về tài chính cho quốc gia mà cá nhân đó xin nhập quốc tịch và có thể đảm bảo cho đương sự sẽ hòa nhập được với công đồng dân cư mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó pháp luật quốc tịch Việt Nam cũng mở rộng quy định này bằng việc miễn giảm điều kiện khi người nhập quốc tịch là vợ, chồng, con, cha hoặc mẹ của công dân Việt Nam.
Quy định đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch được ghi nhận tại khoản 3 điều 20 luật quốc tịch Việt Nam năm 1998. Với việc lần đầu tiên quy định nội dung này như là một điều kiện tiên quyết khi một người muốn nhập quốc tịch Việt Nam, pháp luật quốc tịch của nước ta giai đoạn này đã xây dựng cơ sở đảm bảo, thực thi chính sách một quốc tịch mềm dẻo trong thực tế, tạo ra sự chặt chẽ, gắn kết giữa các quy định pháp luật. Tuy nhiên, điều luật này còn nhiều cứng nhắc về ngôn từ, mà theo đó ta có thể hiểu như sau: Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận người nhập quốc tịch có quốc tịch Việt Nam mà không công nhận quốc tịch nước ngoài của người đó. Nhưng việc người đó không thôi quốc tịch nước ngoài không phụ thuộc vào pháp luật quốc tịch Việt Nam. Bởi vì, mỗi quốc gia chỉ có thể quy định về quốc tịch nước mình chứ không được quy định vấn đề liên quan đến quốc tịch của nước khác.
Tới thời kì này, các quy định về điều kiện nhập quốc tịch ngày càng hoàn thiện cả nội dung và hình thức. Nhìn chung, nhóm quy phạm này không thay đổi nhiều so với pháp luật thời điểm trước nhưng kỹ thuật lập pháp đã có sự phát triển hơn. Tuy nhiên, các điều luật triển khai cụ thể cũng như trình tự, thủ tục thực hiện các quy định này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Pháp luật quốc tịch từ năm 2008 đến nay:
Trong lịch sử pháp luật quốc tịch, lần đầu tiên luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 ghi nhận những trường hợp có hai quốc tịch bên cạnh quốc tịch gốc, điều đó được thể hiện rõ ràng qua chính sách của nhà nước ta với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên, đây không phải là chính sách hai quốc tịch mà thực chất đó là chính sách một quốc tịch mềm dẻo hơn, cụ thể là luật quốc tịch năm 2008 vẫn có những quy định đảm bảo thực hiện nguyên tắc một quốc tịch như điều kiện: “người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài”. Đây không phải là lần đầu tiên điều kiện này được luật định mà nó đã được ghi nhận tại luật năm 1998 và cho tới nay được kế thừa, phát triển tại khoản 4 điều 19 luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Hiện nay, điều luật này đã được thể hiện bằng ngôn từ chặt chẽ hơn: “Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép”. Với quy định như vậy, luật năm 2008 đã kế thừa đồng thời khắc phục được những bất cập của luật quốc tịch Việt Nam năm 1998.
Ngoài ra, người xin nhập quốc tịch còn phải lựa chọn một tên gọi Việt Nam và tên gọi này sẽ được ghi rõ trong quyết định cho nhập quốc tịch. Thực ra, đây không phải là một quy định mới. Trong giai đoạn trước, khi nộp hồ sơ xin nhập quốc tịch, cá nhân đó đã phải lựa chọn tên gọi Việt Nam và tên gọi này sẽ được ghi rõ trong quyết định cho nhập quốc tịch (theo khoản 2 điều 8 Nghị định 104/1998/NĐ-CP).
Đây là một quy định phù hợp và tiến bộ. Trong những trường hợp người nhập quốc tịch tới từ các quốc gia theo hệ chữ vuông như Nhật Bản hoặc theo hệ chữ như của Ấn Độ hay Ả Rập thì nếu giữ nguyên tên gọi sẽ gây khó khăn trong việc hòa nhập cộng đồng dân cư Việt Nam, cũng như gây rắc rối trong các giấy tờ tùy thân ... Với việc quy định nội dung này như là một nghĩa vụ bắt buộc, người xin nhập quốc tịch sẽ có thể dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống ở quốc gia mới, và hơn nữa, cũng sẽ không có khó khăn nào phát sinh xung quanh vấn đề tên gọi của người đó trong các giấy tờ tùy thân ...
Về các trường hợp được miễn giảm điều kiện nhập quốc tịch. Đi kèm với điều kiện nhập quốc tịch, ngay từ những ngày đầu phát triển của mình, pháp luật Việt Nam cũng đã quy định một số trường hợp được miễn giảm các điều kiện này. Nhìn chung, nội dung này không có sự giống nhau giữa các thời kì. Đặc biệt là giữa giai đoạn những năm 1945 với pháp luật các thời kì sau đó. Sau đây, khóa luận sẽ đi phân tích nội dung chính cũng như sự phát triển của quy định này qua các thời kì phát triển của lịch sử pháp luật quốc tịch Việt Nam.
Ngày 20/08/1945, sắc lệnh số 215/SL đã được ban hành ấn định các quyền lợi đặc biệt cho những người ngoại quốc giúp cho cuộc kháng chiến của Việt Nam. Theo điều thứ 2, bên cạnh các quyền lợi khác mà các ngoại kiều được hưởng thì những người ngoại quốc có công với cách mạng Việt Nam còn được hưởng những ưu đãi khác khi tòng quân .v.v. và đặc biệt là được ưu đãi khi họ xin nhập quốc tịch Việt Nam mà cụ thể là được miễn điều kiện thời hạn ở trên đất nước Việt Nam (theo khoản 2 điều 1 sắc lệnh 73/SL là mười năm).
Đây là một quy định xuyên suốt trong thời kì đầu của pháp luật quốc tịch Việt Nam (được kế thừa trong Luật năm 1988). Đối tượng được hưởng các ưu đãi này cũng khá đặc biệt, đó là những người ngoại quốc đã giúp cho cuộc cách mạng tại Việt Nam. Cũng theo quy định tại sắc lệnh này, quyền được ưu đãi về điều kiện nhập quốc tịch chỉ là một trong số những ưu đãi mà người đó được hưởng. Bên cạnh việc được miễn thời hạn nhập quốc tịch Việt Nam, đối tượng được ưu đãi còn phải thỏa mãn các điều kiện khác như: có nơi thường trú trên lãnh thổ Việt Nam, có hạnh kiểm tốt .v.v. khi xin nhập quốc tịch.
Tới giai đoạn pháp luật tiếp theo, một lần nữa nội dung này được khẳng định tại khoản 1 điều 4 nghị định 37/1990/HĐBT. Ngoài việc được miễn điều kiện thời hạn cư trú ở Việt Nam, người nước ngoài “có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” còn được miễn các điều kiện về năng lực hành vi dân sự (đủ 18 tuổi) và điều kiện về khả năng ngôn ngữ (biết tiếng Việt).
Bên cạnh nội dung này, các nhà lập pháp cũng bổ sung thêm trường hợp được miễn các điều kiện nhập quốc tịch, đó là “vợ, chồng, con, bố, mẹ của công dân Việt Nam”. Trong các đối tượng này bao gồm cả con nuôi, bố mẹ nuôi của công dân Việt Nam. Quy định này được giữ nguyên trong luật quốc tịch năm 1998, được giải thích, hướng dẫn áp dụng tại khoản a điều 9 “miễn giảm điều kiện xin nhập quốc tịch Việt Nam” trong Nghị định số 104/1998/NĐ-CP và được hoàn thiện tại Luật quốc tịch mới nhất của Việt Nam. Theo đó, nhóm đối tượng này được thu hẹp lại trong phạm vi những người có mối quan hệ huyết thống (cha, mẹ đẻ, con đẻ) và quan hệ hôn nhân (vợ, chồng), còn với những cá nhân ngoài nhóm đối tượng trên thì được hưởng một quy chế pháp lý khác khi xin nhập quốc tịch.
Ngoài hai nhóm đối tượng trên, luật năm 1998 đã bổ sung thêm trường hợp được miễn, giảm điều kiện nhập quốc tịch, đó là những người “có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và tại luật quốc tịch năm 2008, quy định này một lần nữa được khẳng định và kế thừa. Đây là nội dung đặc trưng của thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chính vì ý nghĩa quan trọng như vậy, mà ngoài hai điều kiện cơ bản (về năng lực hành vi dân sự và ý thức chính trị, pháp luật), người nhập quốc tịch trong trường hợp này sẽ được miễn hoàn toàn ba điều kiện nhập quốc tịch còn lại. Đây là một sự ưu đãi hơn hẳn so với hai nhóm đối tượng trên. Điều đó đã thể hiện rõ chính sách hội nhập, phát triển kinh tế, quốc tế của Nhà nước ta trong những giai đoạn gần đây
Nhìn chung, các trường hợp được miễn, giảm điều kiện nhập quốc tịch qua các thời kì không có sự khác nhau nhiều. Tuy nhiên, các điều kiện được miễn giảm lại thay đổi theo từng quá trình phát triển của pháp luật quốc tịch tùy thuộc vào quan điểm, chính sách của nhà nước ta cũng như xuất phát những yêu cầu trong thực tiễn cuộc sống.
Trở lại quốc tịch
Trở lại quốc tịch là sự kiện pháp lý được xác lập trên cơ sở ý chí tự nguyện, thể hiện bằng đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam của một người trước đây đã mất quốc tịch và được nhà nước ta cho phép có lại quốc tịch Việt Nam. Kể từ thời điểm trở lại quốc tịch, đương sự lại trở thành công dân nước ta, được hưởng các quyền cũng như phải thực hiện các nghĩa vụ công dân được Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định.
Trở lại quốc tịch (một vài tài liệu gọi là phục hồi quốc tịch) là cách thức hưởng quốc tịch tương đối đặc biệt. Trở lại quốc tịch không giống hai trường hợp trên mặc dù có cùng hậu quả pháp lý là có quốc tịch của một nước nào đó. Bởi vì do cách thức hưởng quốc tịch này chỉ áp dụng với một loại đối tượng nhất định, đó là những người đã mất quốc tịch nay muốn trở lại quốc tịch cũ.
Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1988
Vấn đề trở lại quốc tịch được quy định tại điều thứ 4 sắc lệnh số 53/SL, theo đó, “những người Việt Nam đã vào dân Pháp sẽ coi là công dân Việt Nam” và họ sẽ phải khai bỏ quốc tịch Pháp để có thể trở lại quốc tịch Việt Nam. Quy định này xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của thời kì 1930, khi mà thực dân Pháp đã đồng hóa nhân dân nước ta bằng việc cho nhập quốc tịch Pháp một cách rộng rãi, kết quả là có không ít trí thức Việt Nam lúc bấy giờ nhập quốc tịch Pháp [30]. Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập, để có thể khắc phục bất cập này, sắc lệnh số 53/SL đã quy định vấn đề trở lại quốc tịch một cách dễ dàng và nhanh chóng nhằm có thể chuẩn bị kịp thời cho cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên lúc bấy giờ.
Thủ tục để có thể trở lại quốc tịch thời kì này cũng rất đơn giản: Khi muốn trở lại quốc tịch, người đó bắt buộc phải khai bỏ quốc tịch Pháp tại các cơ quan chức năng, nếu không, họ sẽ bị mất quyền bầu cử và ứng cử. Điều này đã thể hiện chính sách một quốc tịch của nước ta lúc bấy giờ và là thể hiện sự tiến bộ khi không chấp nhận quốc tịch Pháp một cách trực tiếp và đương nhiên mà bắt buộc phải khai bỏ quốc tịch Pháp để có thể trở lại quốc tịch Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1988 tới năm 1998
Tới thời kì này, vấn đề trở lại quốc tịch tiếp tục được ghi nhận tại điều 11 luật quốc tịch năm 1988 và điều 6 nghị định 37 năm 1990. Theo đó, một người đã mất quốc tịch Việt Nam có thể được trở lại quốc tịch khi thuộc một trong những trường hợp sau đây :
Có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Là vợ, chồng, con, bố, mẹ (kể cả con nuôi và bố mẹ nuôi) của công dân Việt Nam.
Được phép hồi hương về Việt Nam sinh sống.
Đương sự ở nước ngoài đã già yếu, cô đơn không nơi nương tựa, xin trở lại quốc tịch Việt Nam để được về Việt Nam sống với người thân.
Trong các trường hợp trên, điều kiện “được phép hồi hương về Việt Nam sinh sống” chưa có sự giải thích cụ thể thế nào là được phép hồi hương trong pháp luật quốc tịch lúc bấy giờ. Chỉ tới năm 1994, trong quyết định 59/TTg ngày 04-2-1994 của thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài hồi hương về Việt Nam mới quy định những trường hợp thuộc diện được xét hồi hương [31]. Thế nhưng, cũng theo văn bản này, những người Việt Nam định cư ở nước ngoài nếu có quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch lại không được xét hồi hương (điều 3 quyết định 59/TTg). Quy định này còn khá cứng nhắc đồng thời gây tâm lý hoang mang trong đời sống người Việt Nam ở nước ngoài.
Để khắc phục hạn chế này, ngày 21-11-1996 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 875/TTg sửa đổi Quyết định 59/TTg, trong đó quy định một trong những điều kiện hồi hương đối với công dân Việt Nam đồng thời mang hộ chiếu nước ngoài là phải có “xác nhận đã đăng ký công dân tại một cơ quan đại diện của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài” [34]. Việc quy định như vậy đã đáp ứng được phần nào tâm tư nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đồng thời góp phần làm bền chặt hơn mối dây liên kết giữa Nhà nước ta với cộng đồng người Việt Kiều ở nước ngoài.
Trong giai đoạn này, chế định trở lại quốc tịch đã thể hiện rõ tinh thần nhân đạo và chính sách đại đoàn kết dân tộc của nhà nước ta khi tạo điều kiện cho những người trước đã mất quốc tịch nay có thể trở lại quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, pháp luật quốc tịch cũng thể hiện rõ sự nghiêm khắc, không khoan nhượng đối với những đối tượng thù địch chống phá nhà nước. Theo đó, khoản 2 điều 6 Nghị định 37/HĐBT nêu rõ nếu trong thời gian mất quốc tịch Việt Nam, cá nhân đã có hành động gây phương hại đến an ninh của nước Việt Nam thì không được trở lại quốc tịch Việt Nam.
So với thời kì trước, chế định trở lại quốc tịch thời kì này đã có sự chặt chẽ và hoàn thiện hơn. Đồng thời, nó cũng mang tính nhân đạo cao, thể hiện qua chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và nhà nước mà biểu hiện cụ thể qua khoản b điều 4 và điểm c khoản 1 điều 6 nghị định 37-HĐBT năm 1990. Tuy nhiên, một vài điều kiện còn mang tính cứng nhắc cao, chưa cân nhắc kĩ tâm tư, nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, gây tâm lý hoang mang, thắc mắc đối với cộng đồng Việt Kiều đồng thời chưa tạo ra được sự liên kết bền chặt giữa Nhà nước ta với những người Việt Nam ở nước ngoài.
Giai đoạn từ năm 1998 tới năm 2008
Trong luật quốc tịch năm 1998, chế định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật thời kì trước. Theo đó, một người mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam trong những trường hợp sau đây:
Xin hồi hương về Việt Nam.
Có vợ, chồng, con, cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam.
Có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Có lợi cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một lần nữa Đảng và nhà nước ta đã cụ thể hóa chính sách nhân đạo và đại đoàn kết dân tộc qua các trường hợp được nhập quốc tịch. Tuy nhiên, trong luật năm 1998, tính tự nguyện được đặt ra như một điều kiện bắt buộc khi một cá nhân nhập quốc tịch Việt Nam mà cụ thể là người đó phải có đơn xin trở lại quốc tịch. Quy định này không hề được đặt ra trong pháp luật th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khóa luận hlu- Sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tịch việt nam.doc