MỤC LỤC
Lời nói đầu 5
Chương I: Tiến trình hội nhập quốc tế của kinh tế Việt nam và những
cơ hội, thách thức đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng 8
1. Định hướng mục tiêu tiến trình hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước 8
2. Tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt nam trong thời gian qua 10
2.1. Vài nét về quá trình hội nhập của Việt nam 10
2.2. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, cam kết gia nhập WTO, cam kết
theo AFTA và những cam kết cụ thể của Việt nam liên quan
đến lĩnh vực tài chính ngân hàng 12
2.2.1. Hiệp định thương mại Việt Mỹ 12
2.2.2. Các cam kết cơ bản khi gia nhập WTO 16
2.2.3. Các cam kết theo AFTA 18
3. Mục tiêu và phương châm của các ngân hàng trong quá trình hội nhập 18
3.1. Mục tiêu 18
3.2. Phương châm 19
4. Cơ hội và thách thức của ngân hàng trong quá trình hội nhập 19
4.1. Cơ hội 19
4.2. Thách thức 22
4.2.1. Thị trường tài chính Việt Nam còn lạc hậu so với các nước
trong khu vực. 22
4.2.2. Việt Nam vẫn còn tụt hậu về thể chế thị trường, hệ thống pháp luật
kém minh bạch và tính thực thi kém 23
4.2.3. Hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém 25
4.2.4. Hệ thống tài chính Việt Nam với các ngân hàng thương mại
quốc doanh là chủ đạo 28
Chương II: Thực trạng những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến
hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua 30
1. Vài nét về hệ thống ngân hàng Việt Nam và đánh giá chung về hoạt động
trong tiến trình hội nhập quốc tế 30
1.1. Ngân hàng Nhà nước 30
1.2. Ngân hàng thương mại 32
2. Đánh giá chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt nam trong
tiến trình hội nhập quốc tế 33
3. Thực trạng những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành
ngân hàng Việt nam 40
3.1 Tác động tới hệ thống pháp luật có liên quan. 40
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các văn bản không còn phù hợp. 40
3.1.2. Xây dựng các văn bản luật chưa có 54
3.2. Tác động đến môi trường kinh doanh 56
3.3. Tác động đến tư duy kinh doanh và chiến lược kinh doanh. 58
3.4. Tác động tới công nghệ ngân hàng 62
3.5. Tác động tới vấn đề quản lý nhân sự của ngân hàng 64
3.6. Tác động tới vấn đề cơ cấu lại NHTM 65
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng những tác động của
hội nhập kinh tế quốc tế đến hệ thống ngân hàng Việt Nam 68
1. Giải pháp đối với ngân hàng Nhà nước 68
1.1. Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ mới 68
1.2. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán bù trừ 69
1.3. Cơ cấu lại hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng 69
1.4. Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống NHNN 70
2. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại 71
2.1. Nhóm giải pháp thị trường 71
2.1.1. Về sản phẩm ngân hàng 71
2.1.2. Giải pháp về giá cả và dịch vụ 75
2.1.3. Các giải pháp xúc tiến 76
2.1.4. Giải pháp cho hệ thống phân phối 76
2.2. Nhóm giải pháp về cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh 77
2.2.1. Xây dựng tôn chỉ hay quy ước chung của từng ngân hàng 77
2.2.2. Ban hành và áp dụng các phương thức tiên tiến phù hợp về
quản trị và điều hành 78
2.2.3. Thay đổi mô hình tổ chức của ngân hàng cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ mới 79
2.2.4. Xây dựng chỉ tiêu kinh doanh 80
2.3. Giải pháp chung về công nghệ 80
2.3.1. Các giải pháp 80
2.3.2. Công tác tổ chức thực hiện 83
2.4. Giải pháp chung về con người 84
2.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại 85
2.6. Đổi mới hoạt động kiểm soát, kiểm tra, kiểm toán nội bộ 86
Kết luận 88
Danh mục tài liệu tham khảo 90
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2973 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động của hội nhập quốc tế đến ngành ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy định về vốn điều lệ, dự trữ bắt buộc, thành phần cổ đông, ... cấp phép cho các ngân hàng hoạt động tràn lan, không tính đến các tiêu chuẩn về vốn, năng lực điều hành. Trong số 31 ngân hàng cổ phần đô thị đã đựoc NHNN cấp phép hoạt động, có tới 19 ngân hàng được điều chỉnh nâng cấp từ các quỹ tín dụng cũ (các quỹ tín dụng thành lập và lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả những năm 1989-1990).
Công tác kiểm tra thanh tra của NHNN chưa kịp thời phát hiện những sai phạm trong hoạt động của các ngân hàng, kể cả NHTM quốc doanh. Rất nhiều sai phạm của các NH không phải do thanh tra NHNN phát hiện mà do cơ quan điều tra phát hiện, điển hình là vụ NHTM cổ phần Minh Phụng EPCO. Việc cung cấp thông tin, dự báo và phòng ngừa rủi ro chưa được thực hiện hiệu quả, mặc dù đã thiết lập trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng đặt tại NHNNTW và các chi nhánh NHNN.
Hệ thống tổ chức, cơ cấu còn bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa thực sự hiệu quả cho vai trò tự chủ của NHNN, chức năng của các cục, vụ cần được thay đổi lại.
THỰC TRẠNG NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
3.1 Tác động tới hệ thống pháp luật có liên quan.
Luật pháp và kỉ cương là nền tảng cơ bản cho sự ổn định và sự phát triển bền vững của một quốc gia. Tuy nhiên xét một cách tổng quát thì hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, thiếu ổn định, quá chung chung, chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Nhận thức pháp luật của người dân chưa cao, năng lực thực thi pháp luật mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương, còn ở cấp thấp hơn rất hạn chế. Đặc biệt việc diễn giải pháp luật của Việt Nam không nhất quán, việc điều hành chủ yếu bằng các văn bản pháp luật, mà trong hệ thống pháp luật còn có quá nhiều văn bản chưa phù hợp cần phải rà soát, bãi bỏ, sửa đổi và bổ sung. Theo thống kê của Bộ Nội vụ, đến thời điểm hiện nay đã phát hiện trong 7.000 văn bản pháp luật của Chính phủ và các bộ có trên 2.000 văn bản huỷ bỏ, trên 1.000 văn bản cần bổ sung và sửa đổi; trong số 54.000 văn bản của chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 10.000 văn bản cần huỷ bỏ và xấp xỉ 1.300 văn bản cần bổ sung, sửa đổi.
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các văn bản không còn phù hợp.
Hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực ngân hàng trong HĐTM Việt - Mỹ, WTO và AFTA đòi hỏi công tác rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về ngân hàng cần sớm được tổ chức và triển khai để kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản cho phù hợp với các cam kết trong HĐ. Đây là một tác động lớn nhất, bao trùm đến hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Giáo sư luật David A.Gant (trường ĐHTH Arizona, Hoa Kỳ) đã nhận xét rất xác đáng rằng: “so với một vài nước khác, Việt Nam có nhiều khó khăn hơn trong việc tiến hành sửa đổi luật pháp của mình”. Ở Hoa Kỳ và Mehico, Nghị viện (Quốc hội) có thể ban hành một đạo luật đơn lẻ mới, trong đó sửa đổi tất cả các đạo luật hiện hành có yêu cầu phải sửa đổi để thực thi một HĐTM, ví dụ Luật thi hành Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ Hoa Kỳ. Hoặc cũng có thể đưa vào luật một điều khoản quy định: “Luật này thay thế bất kì luật nào được ban hành trước đây mà nay không còn phù hợp”. Ngược lại, do tính chồng chéo của các văn bản pháp luật hiện hành, Việt Nam phải sửa đổi riêng rẽ từng đạo luật có yêu cầu phải sửa đổi để đảm bảo phù hợp với một HĐTM.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 5069/VPCP-TCQT ngày 21/11/2000 v/v yêu cầu các Bộ, ngành, tổ chức rà soát toàn bộ văn bản pháp luật, kể cả văn bản pháp quy hiện hành về quan hệ kinh tế- thương mại thuộc lĩnh vực mình quản lí, NHNN đã tiến hành rà soát các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực ngân hàng và đối chiếu với các cam kết của ta trong HĐTM Việt - Mỹ, cam kết trong AFTA và WTO, từ đó kiến nghị những văn bản cụ thể cần sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới phục vụ cho viêc hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở các kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng, tháng 4/2002, NHNN Việt nam đã xây dựng “Kế hoạch sửa đổi, bổ sung các văn bản theo những cam kết trong hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với ngành ngân hàng và dịch vụ tài chính”. Bản kế hoạch này bao gồm nội dung các công việc cụ thể để các vụ, cục có liên quan trong ngân hàng nhà nước tiến hành triển khai công tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc soạn thảo các văn bản mới có liên quan hoặc dự thảo các văn bản gửỉ các Bộ, Ngành có liên quan đến các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng theo lộ trình của HĐTM Việt - Mỹ và các cam kết khác trong AFTA và bản lời chào trong WTO.
Công tác rà soát văn bản pháp luật là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của NHNN và của các cơ quan quản lí nhà nước. Vừa qua NHNN đã thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ 168 văn bản do NHNN ban hành từ ngày 1/10/1999 đến hết năm 2001 (theo công văn số 282/NHNN ngày 21/3/2002).
Hiện nay có một số văn bản pháp luật hiện hành đang điều chỉnh hoạt động ngân hàng cần phải chỉnh sửa, bổ sung và đã được các chi nhánh NHNN kiến nghị.
3.1.1.1. Luật NHNN Việt Nam.
NHNN đang xem xét và trình Quốc hội, Chính phủ chỉnh sửa một số nội dung của luật NHNN trên các mặt sau:
- Về việc thực hiện chức năng của NHNN:
Pháp lệnh NHNN Việt nam, Pháp lệnh Ngân hàng- Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, ban hành theo lệnh số 37 và 38 - LCH/HĐNN 8 ngày 24/5/1990 của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đánh dấu một bước cải tổ cơ bản từ hệ thống ngân hàng một cấp của nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyển qua hệ thống ngân hàng hai cấp hoạt động theo cơ chế thị trường. Đến ngày 25/12/1997 lệnh 01-L/cTN của Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Luật NHNNVN và luật các TCTD nhằm nâng cao tính pháp lý để hoạt động. Hai luật này tuy được quy định nhiều điều hơn hai Pháp lệnh (Luật NHNN có 63 điều/ Pháp lệnh 55 điều; Luật các tổ chức tín dụng có 131 điều) trong đó có không ít điều lan man không cần thiết, vẫn còn dáng dấp của nền kinh tế kế hoạch tập trung với chính sách ưu đãi xin cho, thiếu các yếu tố pháp lý về tạo lập một môi trường bình đẳng để làm động lực phát triển cho một nền kinh tế và chưa phù hợp với yêu cầu hội nhập thương mại quốc tế.
Trong thực tế, vai trò của NHNN trong luật NHNN so với trong pháp lệnh bị thụt lùi, rõ nhất là việc xoá bỏ một hội đồng quyền lực, tại điều 4, Pháp lệnh NHNN: “Việc quản trị NHNN do hội đồng quản trị đảm nhiệm...”. Điều 11 Pháp lệnh NHNN: “Hội đồng quản trị quyết định theo đa số phiếu...”. Theo thông lệ quốc tế, NHTW ở các nước đều có một Hội đồng có quyền lực, mỗi nước gọi tên Hội đồng này khác nhau: Hội đồng chính sách tiền tệ: Hội đồng ngân hàng; Uỷ ban chính sách tiền tệ; Hội đồng quản trị... Quốc hội và Chính phủ giao quyền cho NHTW không chỉ giao một mình thống đốc mà giao cho cả một tập thể lãnh đạo có trí tuệ để hoạch định chính sách tiền tệ tín dụng, có đủ năng lực ứng phó kịp thời trước những diễn biến phức tạp của thị trường. Lúc này, Chính phủ nên rút bớt sự can thiệp quá sâu vào hoạt động ngân hàng cho phù hợp với nội dung cải cách hành chính của Chính phủ, nhất là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra khẩn trương.
Loại bỏ những điều đã ghi trong Luật NHNN theo kiểu hành chính như một bộ chủ quản, để trở về với vai trò của một NHTW thật sự, đặt mình là thành viên của thị trường để sử dụng các phương tiện sẵn có biến nó trở thành các công cụ chính sách uyển chuyển để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ một cách sắc bén nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn. NHTW phải luôn luôn đứng ở vị trí là người can thiệp cuối cùng, chuyển phương pháp quản lý trực tiếp hành chính sang phương pháp quản lý gián tiếp. Đi sâu vào một số điều trong luật NHNN lại thấy dáng dấp cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trở lại, trong tổng số 63 điều của luật NHNN thì đã có 19 điều do Chính phủ quyết định. Điều 3.1 trong luật NHNN Quy định: “Quốc hội quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này ...”; Điều 15.1: “Trách nhiệm NHNN... xây dựng kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ ...”; Điều 15.2: “... thực hiện đưa tiền ra lưu thông, ... theo tín hiệu thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã được chính phủ phê duyệt”, ... Nội dung của các điều này là sản phẩm của nền kinh tế chỉ huy tập trung, các quyết định từ trên xuống như các chỉ tiêu pháp lệnh, bắt buộc cấp dưới bất kỳ tình huống nào cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh. Nay nó không còn phù hợp nữa bởi cơ chế kinh tế thị trường phải quyết định từ bên dưới, chính thị trường là người quyết định nên phải tuân thủ theo quy luật của nó, thực tế các điều quy định trong Luật NHNN nêu trên đây không còn phù hợp. Có chăng chỉ để cho nhà in ngân hàng chuẩn bị việc in ấn tiền hàng năm mà thôi, liệu có quan trọng tới mức phải đưa ra Quốc hội để quyết định? Cũng theo điều 15, 16 luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam” nhưng trên thực tế NHNN chủ yếu thực hiện chức năng quản lí nhiều hơn là thực hiện chức năng của một ngân hàng Trung ương, bởi vì NHNN Việt Nam chưa độc lập trong việc quyết định chính sách tiền tệ do vẫn chịu sự tác động của Chính phủ trong khi lại phải chịu trách nhiệm chính về việc thực hiện chính sách tiền tệ. NHNN vẫn phải ổn định tỉ giá đồng Việt Nam, đảm bảo thanh toán xuất nhập khẩu nhưng nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu tài nguyên lại do Bộ Tài chính quản lí. Vì vậy cần phải chỉnh sửa nội dung này để NHNN có thể thực hiện đúng chức năng của một Ngân hàng Trung ương.
- Về việc điều chỉnh lãi suất:
Từ cuối năm 2002 đến giữa năm 2002, lãi suất huy động nội tệ của các ngân hàng thương mại đã liên tục tăng trưởng, như là một cuộc chạy đua gay gắt về lãi suất giữa các ngân hàng thương mại. Việc lãi suất liên tục bị đẩy lên cao có tác động trực tiếp đến sự an toàn và hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Điều này chứng tỏ việc quyết định thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận VND của chính phủ có lẽ vội vàng, song có lẽ điều đáng nói hơn cả là khả năng can thiệp bằng các công cụ gián tiếp của NHNN còn rất yếu kém. Việc điều tiết cung- cầu về vốn thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu... hiệu lực thấp do thị trường tiền thứ cấp còn sơ khai, hàng hoá của thị trường tiền tệ còn thiếu và kém đa dạng... Chính vì vậy, khi lãi suất thị trường tăng cao, trong điều kiện lãi suất cơ bản đã được tự do hoá, NHNN tỏ ra thụ động và rất thiếu sự can thiệp kịp thời. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính tham khảo, không có tác động đến việc xác định lãi suất của các NHTM. Muốn tiến tới tự do hoá lãi suất cần có những bước đi thích hợp và thận trọng, đặc biệt là phải gắn liền với sự phát triển của thị trường tiền tệ và khả năng sử dụng hiệu quả các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Vậy nên, các NHNN tỉnh và thành phố kiến nghị NHNN Việt Nam nên công bố lãi suất tái cấp vốn để điều hành chính sách lãi suất thay cho việc công bố lãi suất cơ bản như hiện nay bởi vì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ là cơ sở để tham khảo cho việc quyết định mức lãi suất thoả thuận của mình chứ chưa thực sự là lãi suất điều hành nền kinh tế theo chính sách tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt, đồng thời cần hoàn thiện và nâng cao khả năng sử dụng các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, xây dựng chính sách tiền tệ mới có khả năng điều tiết thị trường ổn định hơn trước đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về hoạt động thanh toán:
Từ ngày 6-5-1951, thành lập Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng (TCTD), Chính phủ đã ban hành 4 nghị định về thanh toán :
Nghị định 04-CP ngày 7-3-1960 của Chính phủ về thanh toán qua NHNN;
Nghị định 80-HĐBT ngày 27-5-1987 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) uỷ quyền cho Tổng giám đốc (nay là thống đốc NHNN) ban hành các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt;
Nghị định 91-CP ngày 25-11-1993 của Chính phủ về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt;
Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20-9-2001/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Việc thay đổi liên tiếp các nghị định điều chỉnh vấn đề thanh toán là do có sự vận động đi lên của ngành ngân hàng nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của đất nước và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật NHNN và luật các TCTD có hiệu lực từ 1-10-1998, khoản 1, Điều 35, Luật NHNN viết : “NHNN tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”; Khoản 2, điều 66, luật các tổ chức tín dụng viết: “Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước”. Trong khi đó khoản 2, Điều 1, Nghị định 64/2001/NĐ-CP viết : “Nghị định này áp dụng cho các hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”, có hiệu lực từ ngày 1-1-2001, là không phù hợp với luật NHNN và luật các TCTD.
Thanh toán mậu dịch quốc tế, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải tuân thủ quy định về thanh toán quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ban hành. Chính phủ các nước không thể ra văn bản quy phạm pháp luật về thanh toán quốc tế, để các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực thi. Bởi vậy, khoản 4, Điều 35, Luật NHNN có viết: “ NHNN ký kết và thực hiện các thoả thuận về thanh toán với ngân hàng nước ngoài và tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế theo quy định của pháp luật”. Hai bên ký hợp đồng thương mại quốc tế phải tham chiếu các điều kiện thương mại quốc tế trước khi ký kết, để tránh rủi ro tỷ giá tiền tệ, hợp đồng thương mại quốc tế còn chọn loại tiền tính toán và loại tiền thanh toán. Các doanh nghiệp nhập khẩu nước ta không thể dùng VND để thanh toán quốc tế vì VND chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi. Hai bên mua bán thống nhất thời hạn trả tiền, địa điểm trả tiền, có thể là nước người mua, nước người bán hoặc là nước thứ ba. Thanh toán thương mại quốc tế gồm ba phương thức: Chuyển tiền, nhờ thu và thư tín dụng. Một số phương tiện thanh toán viết trong điều 12, Nghị định 64/2001/NĐ-CP như tiền mặt, ủy nhiệm chi thì không thể là phương thức thanh toán quốc tế. Như vậy, Chính phủ không nên gộp thanh toán trong nước với thanh toán quốc tế vào nghị định 64/2001.
Mặt khác, Khoản 2, Điều 3, Nghị định này lại viết: “Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là NHNN Việt Nam, ngân hàng, tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán”. “Kho bạc nhà nước (KBNN) các cấp là tổ chức khác được cung ứng dịch vụ thanh toán”. Trong khi đó Kho bạc nhà nước các cấp là tổ chức khác được cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt . Điều 12, nghị định 64/2001/NĐ-CP chưa đề cập đến phương tiện thanh toán Kho bạc nhà nước (Séc KBNN), phương tiện thanh toán của Tổng công ty bưu chính viễn thông (thẻ điện thoại). Thể thức thanh toán không dùng tiền mặt và hệ thống thanh toán nội bộ của KBNN chưa đề cập đến. Thiết nghĩ, Chính phủ nên uỷ quyền cho Thống đốc NHNN, Bộ trưởng Bộ tài chính, các bộ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ có tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (séc, thẻ) và thể thức thanh toán không dùng tiền mặt của ngành đó.
Theo luật NHNN Việt Nam thì NHNN có chức năng “tổ chức hệ thống thanh toán ngân hàng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Tuy nhiên cần chỉnh sửa chính xác nội dung quy định chức năng của NHNN như sau “NHNN tổ chức thực hiện hệ thống thanh toán ngân hàng, cung cấp và là đầu mối tổ chức, thực hiện các loại hình dịch vụ thanh toán hiện đại”
- Về hoạt động ngoại hối:
Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối ra đời ngay 17/8/1998 đã đưa ra một khung pháp lý hoàn chỉnh đối với việc quản lý và sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế, đánh dấu một bước tiến trong công tác quản lý ngoại hối và khẳng định mục tiêu quản lý ngoại hối cũng như chủ quyền của Đồng Việt nam trên lãnh thổ Việt nam. Nội dung của Nghị định quản lý ngoại hối đã có nhiều đổi mới theo hướng tự do hoá, mở cửa và hội nhập tạo môi trường thuận lợi khuyến khích sự phát triển các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các TCTD. Tuy nhiên, Thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày 16/04/1999 của NHNN hướng dẫn thi hành nghị định này lại quá tỉ mỉ, chi tiết, trong khi thực tế rất đa dạng, phức tạp, các cấp thi hành không thể thi hành một cách dập khuôn được. Có rất nhiều điều mà nhà quản lý không thể bao quát hết, do đó vẫn còn một số vướng mắc, ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM, các tổ chức, cá nhân như vấn đề về quyền mua bán ngoại tệ, chuyển tiền ra nước ngoài của cá nhân và tổ chức, kiểm tra chứng từ khi thu và chi trên tài khoản tiền gửi... Ngoài ra, cần phải chỉnh sửa Nghị định 63/CP về quản lí ngoại hối và Thông tư 01/NHNN hướng dẫn Nghị định 63/CP về quản lí ngoại hối theo hướng cho phép các tổ chức và cá nhân Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ được gửi tiền, vay vốn, thuê tài chính và thực hiện các dịch vụ khác tại các ngân hàng Hoa Kỳ để phù hợp với những cam kết của ta trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ .
3.1.1.2. Luật các TCTD
- Về việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động: Điều 22, mục 1: “Cấp giấy phép thành lập và hoạt động”, luật các TCTD có viết: “Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng gồm có:
a). Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động;
b). Có vốn quy định tại điều 83 của luật này;
c). Thành viên sáng lập là tổ chức cá nhân có uy tín và năng lực tài chính....
Theo đó, điều kiện “Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động” là không cần thiết, vì vậy cần sửa đổi nội dung này trong luật tổ chức tín dụng và các nghị định khác có liên quan như nghị định 13/1999/NĐ-CP và thông tư 08/2000/TT-NHNN
- Về chính sách tín dụng: NHNN nghiên cứu chỉnh sửa chính sách tín dụng theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong những quy định về vốn, điều kiện vay để đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại hoá công nghệ thông tin, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh.
- Về hoạt động thanh toán: Chương II, nghị định 64/2001/NĐ-CP với tiêu đề “ Mở và sử dụng tài khoản thanh toán”, trong khi đó, luật các tổ chức tín dụng không có tài khoản thanh toán .
Khoản 3, Điều 66, Luật các tổ chức tín dụng viết: “Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép”. Theo các chuyên gia ngân hàng, NHNN Việt nam chỉ biên dịch các quy định thanh toán quốc tế do Phòng Thương mại quốc tế quy định hiện hành ra tiếng Việt, cho các NHTM được thanh toán quốc tế tham chiếu là đủ. Tất nhiên, doanh nghiệp và NHTM vẫn phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại tệ của Chính phủ.
- Về dịch vụ ngân hàng:
Theo Luật tổ chức tín dụng ở nước ta, các TCTD được thực hiện 5 dịch vụ:
Một là, dịch vụ thanh toán, điều 66, Luật các tổ chức tín dụng viết:
Cung ứng các dịch vụ thanh toán ;
Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép;
Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do NHNN quy định.
Hai là dịch vụ ngân quỹ, điều 67, luật các TCTD viết : “TCTD được thực hiện dịch vụ thu phát tiền mặt cho khách hàng”.
Ba là, dịch vụ bảo hiểm, khoản 2, điều 74, luật các tổ chức tín dụng viết: “NH được cung ứng các dịch vụ theo quy định của pháp luật”.
Bốn là, dịch vụ tư vấn, điều 75, luật các TCTD viết: “Ngân hàng được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính , tiền tệ cho khách hàng”.
Năm là, các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, điều 76, luật các TCTD viết: “TCTD được cung ứng các dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ, két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật”. Căn cứ vào khoản 5, điều 66, luật các TCTD và nghị định số 32/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thương phiếu, ngày 19/10/2001 Thống đốc NHNN ban hành quyết định 1346/2001/QĐ-NHNN, quy định nhờ thu thương phiếu qua ngân hàng, như vậy, ngoài 5 dịch vụ trên, NHTM mới có thêm một dịch vụ thứ 6 là nhờ thu thương phiếu, như vậy là quá khiêm tốn so với các ngân hàng nước ngoài. Trong tác phẩm “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” của David Cox giới thiệu khái quát về hệ thống ngân hàng của Anh thì ngân hàng Anh có tới 31 loại dịch vụ ngân hàng. Tiến tới hội nhập quốc tế, chúng ta nhất thiết phải xây dựng một lộ trình thực hiện dịch vụ ngân hàng theo hướng ngày càng đa dạng hoá và hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng.
- Quy định về cổ đông, cổ phần, về hội đồng quản trị, tổng giám đốc cũng phải được sửa đổi cho hợp lí.
3.1.1.3. Một số văn bản, quy chế hoạt động ngân hàng.
Quy chế bảo lãnh được ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN 14 ngày 25/08/2000 cần mở rộng đối tượng bảo lãnh áp dụng cho công ti mẹ ở nước ngoài để thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, ngoài ra cần bổ sung đối tượng được bảo lãnh là cá nhân trong quy chế này.
Việc cầm cố, chiết khấu chứng từ có giá cần được chỉnh sửa theo hướng trao quyền tự chủ, năng động và tự chịu trách nhiệm cho các TCTD trong việc quyết định nội dung chiết khấu, cầm cố... Quy chế cho vay cũng cần nghiên cứu cho phép các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận thế chấp quyền sử dụng đất của các công ti có vốn đầu tư nước ngoài.
Về quy chế phát hành và sử dụng séc, được ban hành theo nghị định 30 CP ngày 09/05/1996 và có hiệu lực thi hành từ 01/07 /1996. Từ ấy đến nay đã qua thử nghiệm hơn 6 năm, thế nhưng trên thực tế tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng, séc rất ít được khách hàng sử dụng, thường chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong tổng khối lượng thanh toán. Nguyên nhân từ đâu?
Thứ nhất, theo điều 11 của nghị định thì hiệu lực thanh toán tờ séc chỉ có 15 ngày và theo thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của thống đốc NHNN hướng dẫn thì thời hạn này kể từ ngày séc được ký phát hành cho tới khi séc được nộp vào đơn vị thanh toán hoặc đơn vị thu hộ. Thời hạn này bao gồm cả ngày chủ nhật và ngày nghỉ lễ. Nếu ngày kết thúc của thời hạn là ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ thì thời hạn được lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ đó. Thời hạn qui định rất ngắn đã khiến cho người phát hành séc rất lúng túng trong sử dụng nhất là trong những trường hợp người phát hành séc sử dụng séc để thanh toán tiền mua hàng ngoài huyện, ngoài tỉnh, thành phố.
Thứ hai, séc chỉ phát hành từ tài khoản tiền gửi thanh toán. Cũng chính vì quy định đó mà thông tư 07 cũng hướng dẫn: “ Đơn vị thanh toán chỉ bán séc cho những khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại đơn vị mình”. Quy định như vậy là hoàn toàn cứng nhắc, ở các nước khác không nhất thiết phải như vậy. Có thể chưa có tài khoản thanh toán nhưng khách hàng có thể nộp tiền mặt vào một tài khoản nào đó tại ngân hàng là có thể trở thành người phát hành séc.
Thứ ba, điều 23 của nghị định qui định: “ Đơn vị thanh toán có quyền từ chối thanh toán séc trong trường hợp tài khoản tiền gửi không đủ tiền để thanh toán tờ séc”. Thế nhưng, hiện nay theo nghị định 64/2001 về hoạt động thanh toán đã cho phép người sử dụng dịch vụ thanh toán chi vượt số tiền mình có trên tài khoản thanh toán trên cơ sở đã thoả thuận thấu chi với tổ chức thanh toán.
Thứ tư, vấn đề bảo lãnh thanh toán séc chưa được đề cập trong nghị định. Điều 14 chỉ có đề cập “người phát hành séc được quyền yêu cầu đơn vị thanh toán bảo chi tờ séc sẽ phát hành” tức là người phát hành séc phải làm thủ tục lưu ký số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng tại đơn vị thanh toán để chi trả cho người thụ hưởng, do vậy vấn đề bảo lãnh cần được bổ sung vào trong nghị định.
Thứ năm, điều 3 của nghị định quy định: “người phát hành séc, người chuyển nhượng séc, người thụ hưởng séc là cá nhân hoặc đại diện pháp nhân”. Nhưng giới hạn cá nhân, pháp nhân đến đâu thì thông tư 07 không hướng dẫn thêm gì về điều đó. Vậy thì cá nhân, pháp nhân người nước ngoài có thuộc diện điều chỉnh của điều 3 hay không trong điều kiện đã hội nhập khu vực và thế giới? Xuất phát từ thực tế có quá nhiều điều cần sửa đổi về sử dụng séc, các chi nhánh NHNN đã đề xuất Quốc hội kiến nghị ban hành Luật séc trên cơ sở sửa đổi về phạm vi thanh toán, thủ tục luân chuyển, thời gian hiệu lực... của tờ séc được quy định trong Nghị định 30/CP và Thông tư 07/TT.
Các chi nhánh cũng kiến nghị ban hành Luật thương phiếu thay cho Pháp lệnh thương phiếu số 17/1999/PL- UBTVQH10 ngày 24/12/1999 trên cơ sở khắc phục, chỉnh sửa những tồn tại của Pháp lệnh, tạo được tính pháp lí cao hơn, thống nhất người kí phát hối phiếu. Nghị định 178 của Chính phủ về đảm bảo tiền vay TCTD cần xem xét, điều chỉnh các nội dung như:
Cho phép thế chấp, cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay đối với cho vay ngắn hạn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng và TCTD thực hiện quy định bảo đảm tiền vay.
Về việc định giá tài sản để đảm bảo khoản vay: ngân hàng nên quy định “cho phép TCTD và khách hàng thoả thuận giá trị của tài sản đảm bảo phù hợp với thực tế tại thời điểm vay và TCTD tự chịu trách nhiệm về giá trị tài sản đảm bảo này”.
Về thủ tục công chứng tài sản: theo quy định các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng có thể có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, trong trường hợp tài sản có đăng kí quyền sở hữu thì phải có công chứng hoặc chứng thực. Như v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của hội nhập quốc tế đến ngành ngân hàng việt nam.doc