Số lượng các nhà tài trợ quốc tế trong Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày càng tăng. Những năm đầu của thập kỷ 90 chủ yếu là các tổ chức Liên Hợp Quốc như UNDP, FAO, UNICEF. Đến năm 1995 có 15 nhà tài trợ; ngoài các tổ chức liên hợp quốc còn có thêm các tổ chức tài chính lớn như: Ngân hàng Thế Giới (WTO), Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB), một số nhà tài trợ song phương, đa phương. Đến năm 2000: đã có 29 nhà tài trợ, trong đó có 9 nhà tài trợ đa phương, 20 nhà tài trợ song phương và một số tổ chức phi Chính phủ.
Cho dến thời điểm hiện nay số lượng các đối tác cam kết tài trợ cho Nông nghiệp đã tăng lên tới con số 72. Tài trợ đa phương đạt 2,19 tỷ, trong đó chủ yếu là nguồn vốn cho vay (78%). Tài trợ song phương lại thiên về viện trợ không hoàn lại với khoản viện trợ đạt 60% trong tổng số vốn cam kết tài trợ 1,5 tỷ USD.
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ chính thức trong phát triển Nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng như tổng số vốn cam kết. Tính cho đến tháng 10/2003 theo số liệu thường xuyên cập nhật bởi Phòng ISG – Vụ hợp tác quốc tế – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì: tổng sỗ dự án dành cho ngành đã lên tới 397 dự án với tống số vốn cam kết đạt 3,72 tỷ USD, trong đó nguốn vỗn ODA tín dụng đạt 2,32 tỷ USD (chiếm 62.4%), nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,4 tỷ USD (chiếm 37.6%).
Biểu 3: ODA theo hình thức viện trợ
Nguồn vốn tín dụng vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết. Tuy nhiên so sánh với tình hình thu hút và sử dụng ODA của toàn ngành kinh tế (84% vốn vay và 16% vốn viện trợ) [i] Tổng quan viện trợ phát triển chính thức. Trang web của bộ KH&ĐT
thì tỉ lệ vốn viện trợ trong Nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao do ngành Nông nghiệp là ngành chiến lược, được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
Biểu 4: ODA theo tình trạng dự án
Nhìn vào Biểu 4 ta có thể hình dung một cách khái quát về tình hình thu hút và sử dụng ODA trong vòng hơn 10 năm qua:
Sỗ dự án đã kết thúc là 176 dự án chiếm một sỗ lượng vốn tài trợ khiêm tốn là hơn 682 triệu USD. Trong khi đó sỗ dự án đang thực hiện là 158 dự án - chiếm trên 1,3 tỷ USD, sỗ dự án chuẩn bị thực hiện là 63 dự án tương dương với tổng nguồn vốn cam kết là 1,723 tỷ USD. Qua đây ta thấy nguồn vỗn ODA trong Nông nghiệp đã không ngừng tăng lên với những dự án có qui mô ngày càng lớn và phạm vi ngày càng rộng. Trong thời gian tới nguồn vốn ODA dành cho phát triển Nông nghiệp đã được các nhà tài trợ cam kết thông qua các hội nghị tài trợ đạt trên 1,7 tỷ USD sẽ là nguồn vốn cực kỳ quan trọng để hiện đại hoá ngành Nông nghiệp
Ngoài ra, trong cơ cấu nguồn vốn tài trợ thì tỷ trọng nguồn vỗn cho vay có xu hướng ngày càng tăng lên:
Với những dự án đã kết thúc, thì vốn ODA viện trợ không hoàn lại chiếm tới gần 45%. Với những dự án đang thực hiện nguồn vốn viện trợ không hoàn lại chiếm xấp xỉ 44%. Trong khi đó với những dự án chuẩn bị thực hiện, nguồn vốn viện trợ chỉ chiếm gần 30%. Sở dĩ có điều này là do vốn ODA cho vay đã tăng đáng kể trong vòng vài năm trở lại đây.
2.3.2 Tổng hợp Viện trợ theo lĩnh vực
Khái niệm ODA trong Nông nghiệp ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Bảng biểu sau đây sẽ cho chúng ta thấy được sự phân bổ nguồn vốn ODA và trong các lính vực khác nhau.
Bảng 3: Phẩn bổ ODA theo lĩnh vực trong Nông nghiệp [i] Phòng ISG-Bộ NN&PTNT
Lĩnh vực
Số dự án
Không hoàn lại
Vay
Tổng tiền
Lâm nghiệp
112
648,703,926.00
218,973,445.00
867,677,371.00
Nông nghiệp
159
261,528,830.41
576,021,328.00
837,550,158.41
PT-NT Tổng hợp
59
166,454,217.00
253,242,380.00
419,696,597.00
Thuỷ lợi
67
321,249,902.00
1,278,008,877.00
1,599,258,779.00
Tổng cộng
397
1,397,936,875.41
2,326,246,030.00
3,724,182,905.41
Những dự án ODA thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bao gồm bốn nhóm đối tượng chính:
Lâm nghiệp
Nông nghiệp
PT-NT tổng hợp
Thuỷ lợi
Trong đó số dự án tương đương với từng lĩnh vực lần lượt là: 112 dự án trong Lâm nghiệp bao gồm các dự án về: trồng và phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, các dự án về giống cây rừng… ;159 dự án trong Nông nghiệp tập trung vào; giống mới trong Nông nghiệp, phòng trừ sâu bệnh, làm vườn, chăn nuôi năng suất cao… ; 59 dự án trong PT-NT tổng hợp ; và 67 dự án về thuỷ lợi nhằm cải tiến công tác tưới tiêu và mạng lưới cấp nước ở Nông thôn…
Về cơ cấu nguồn vốn phân bổ trong các lĩnh vực
Biểu đồ sau đây sẽ cho ta thấy tỷ lệ phân bổ nguồn vốn ODA vào 4 lĩnh vực chính của ngành Nông nghiệp
Biểu 5: Cơ cấu nguồn vốn ODA trong Nông nghiệp
Nhìn vào biểu phân tích cơ cấu nguồn vốn ODA ta sẽ thấy được tỷ lệ ODA phân bổ vào bốn lĩnh vực: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, PT-NT tổng hợp và Thuỷ lợi. Theo đó, Thuỷ lợi được ưu tiên hàng đầu và chiếm tới 43% tổng số vốn tài trợ (648,7 triệu USD), tiếp đến là Nông nghiệp với 22,5% (261,5 triệu USD), lĩnh vực lâm nghiệp chiếm vị trí thứ ba với 23,3% (321,2triệu USD). Cuối cùng là PT-NT chiếm 11,3% tổng nguồn vốn tài trợ (166,5 triệu USD). Trong thời gian tới Thuỷ lợi và Nông nghiệp tiếp tục vẫn là những lĩnh vực trọng điểm của ngành trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
Về hình thức tài trợ
Trên đây, chúng ta đã xem xét sự phân bổ nguồn vốn ODA vào các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên nếu đi sâu phân tích sẽ thấy được rằng tỷ lệ phân bổ nguồn vốn cho vay và nguồn vốn viện trợ không hoàn lại vào các lĩnh vực cũng có sự khác biệt. Làm rõ điều này, chúng ta sẽ thấy được thực trạng sử dụng các loại hình vốn ODA trong Nông nghiệp
Nếu chỉ xét riêng nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại thì lĩnh vực ưu tiên hàng đầu phải kể đến Lâm nghiệp chiếm gần 50% tổng nguồn vốn viện trợ. Những nhà tài trợ lớn cho Lâm nghiệp là các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên như quĩ bảo tồn thiên nhiên WWF, hiệp hội bảo toàn loài và quần thể ZSCSP, mạng lưới rừng châu á, hay quĩ môi trường toàn cầu GEF …Thuỷ lợi cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn viện trợ 23%, tiếp theo là Nông nghiệp 19% và PT-NT tổng hợp chiếm 12%.
Biểu 6: Phân bổ nguồn vốn ODA không hoàn lại
Đối với nguồn vốn ODA cho vay: Riêng Thuỷ lợi đã thu hút tới 55% tổng nguồn vốn ODA tương đương với 1,278 tỷ USD. Tiếp theo là Nông nghiệp 25%. PT-NT tổng hợp và Lâm nghiệp chiếm tỷ lệ khiêm tốn lần lượt là 11% và 9%.
Tóm lại Lâm nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn viện trợ, trong khi đó nguồn vốn cho vay lại tập chung vào thủy lợi. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu khi Lâm nghiệp liên quan đến vấn đề tài nguyên và môi trường của không chỉ một quốc gia mà của toàn thế giới, và nguồn vốn này được cung cấp bởi các nhà tài trợ phi Chính phủ, các quĩ môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên quốc tế. Trong khi đó, Thuỷ lợi lại là tiền đề cho phát triển Nông nghiệp bến vững và đầu tư vào Nông nghiệp đòi hỏi nguồn vốn không phải là nhỏ.
Biểu 7: Phân bổ nguồn vốn ODA cho vay
2.3.3 Tổng hợp theo nhà tài trợ
Số lượng các nhà tài trợ quốc tế trong Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày càng tăng. Những năm đầu của thập kỷ 90 chủ yếu là các tổ chức Liên Hợp Quốc như UNDP, FAO, UNICEF. Đến năm 1995 có 15 nhà tài trợ; ngoài các tổ chức liên hợp quốc còn có thêm các tổ chức tài chính lớn như: Ngân hàng Thế Giới (WTO), Ngân hàng phát triển Châu á ( ADB), một số nhà tài trợ song phương, đa phương. Đến năm 2000: đã có 29 nhà tài trợ, trong đó có 9 nhà tài trợ đa phương, 20 nhà tài trợ song phương và một số tổ chức phi Chính phủ.
Cho dến thời điểm hiện nay số lượng các đối tác cam kết tài trợ cho Nông nghiệp đã tăng lên tới con số 72. Tài trợ đa phương đạt 2,19 tỷ, trong đó chủ yếu là nguồn vốn cho vay (78%). Tài trợ song phương lại thiên về viện trợ không hoàn lại với khoản viện trợ đạt 60% trong tổng số vốn cam kết tài trợ 1,5 tỷ USD.
Bảng 4: Phân bổ ODA theo các tổ chức tài trợ
Nhà tài trợ
Vay
Viện trợ
Tổng số vốn cam kết
Đa phương
1.718.012.322
475.456.315
2.193.468.637
Song phương
608.233.708
923.275.641
1.531.509.349
Những nhà tài trợ lớn nhất hơn 10 năm qua trong ngành Nông nghiệp-PTNT lần lượt: ADB, WB, AFD, DANIDA, các tổ chức Liên Hợp Quốc (FAO, UNDP, UNICEF, FAM, IFAD), Đan mạch, Pháp, Đức, Nhật, EU, Hà Lan, Thụy Điển…Biểu đồ dưới đây sẽ cho ta thấy rõ nét về tình hình cam kết vốn ODA của 10 nhà tài trợ tiêu biểu.
Biểu 8: Mười nhà tài trợ lớn nhất
Ngân hàng Phát triển Châu á là nhà tài trợ lớn nhất trong vòng 10 năm qua với tổng số vốn cam kết lên tới 9,13 tỷ USD phân bổ cho 30 dự án. Tiếp theo là WB với 8,2 tỷ rồi đến các tổ chức của Pháp (AFD), Đan mạch (DANIDA), Liên Hợp Quốc (UNDP), Nhật bản... Nhìn chung các tổ chức tín dụng vẫn là những nhà tài trợ lớn nhất, chỉ tính riêng 2 tổ chức tính dụng WB và ADB đã cam kết dành cho ngành Nông nghiệp gần 1/2 tổng nguồn vốn ODA.
Biểu đồ 9 và 10 sau đây sẽ lần lượt chỉ ra những nhà tài trợ tiêu biểu phân chia theo hình thức viện trợ
Đối với khoản ODA tín dụng: ADB và WB vẫn là những nhà tài trợ hàng đầu với do các khoản tín dụng chiếm lần lượt tới 98,6% và 97,3% tổng nguồn vốn tài trợ của 2 tổ chức này. Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), quĩ Phát triển Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (IFAD) cũng là những nhà tài trợ lớn trong vòng hơn mười năm qua.
Biểu 9: 10 nhà tài trợ lớn nhất (ODA cho vay)
Đối với nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại: Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), đại sứ quán Hà Lan (RNE) là những nhà tài trợ tiêu biểu. Danida tài trợ vào 18 dự án có tổng số vốn đạt 250,475 triệu USD, xếp ngay sau đó là UNDP với 24 dự án và 248,475 triệu USD, JICA và RNE đóng góp một khoản viện trợ lần lượt là 174,904 và 109,845 triệu USD.
Điều này được minh họa rõ nét qua biểu đồ dưới đây về 10 nhà tài trợ vốn ODA không hoàn lại lớn nhất
Biểu 10: 10 nhà tài trợ ODA- viện trợ không hoàn lại tiêu biểu
Nguồn vốn ODA viện trợ nhỏ hơn nhiều so với ODA tín dụng. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu do ODA viện trợ không hoàn lại chủ yếu được cung cấp bởi các nhà tài trợ song phương (các Chính phủ) - các tổ chức - chương trình của Liên Hợp Quốc (UNDP, UNICEF) tập chung vào các chương trình phúc lợi, phát triển Nông nghiệp-Nông thôn như: xoá đói giảm nghèo, nâng cao năng lực sản Xuất và năng suất cây trồng, tạo công ăn việc làm cho nông dân…, trong khi các tổ chức tài chính, tiền tệ lớn lại là những nhà tàì trợ tín dụng cho các công trình dự án phát triển quan trọng đòi hỏi nguồn kinh phí lớn và phạm vi ứng dụng rộng rãi.
Tóm lại:
Trong hơn 10 năm qua, nguồn vốn ODA trong Nông nghiệp và Nông thôn đã không ngừng tăng lên với số nhà tài trợ quốc tế ngày càng đa dạng, phong phú bao gồm các nhà tài trợ song phương, đa phương và các tổ chức phi Chính phủ. Hình thức ODA và cơ cấu dự án được mở rộng đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu Nông nghiệp và phát triển Nông thôn nước nhà.
Những năm đầu của thập kỷ 90, các dự án chủ yếu thuộc loại trợ giúp kỹ thuật, chuyển giao công nghệ với viện trợ không hoàn lại. Từ 1993, khi các tổ chức tài chính lớn nối lại viện trợ cho Việt Nam, và nhất là sau khi chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam bị bãi bỏ, thì ngoài những dự án viện trợ không hoàn lại, ngành Nông nghiệp đã kịp thời chuẩn bị những dự án lớn vay vốn WB, ADB, Nhật Bản như các dự án: “Phục hồi Nông nghiệp”, “Phục hồi thuỷ lợi và chống lũ”, là 2 trong số ít dự án của Việt Nam được ký sớm nhất với WB và ADB sau khi Việt Nam nối lại quan hệ bình thường với hai Ngân hàng này. Sau năm 1995, nhiều dự án lớn Viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi từ các nhà tài trợ song phương, đa phương đã được thực hiện. Gần đây, ngành Nông nghiệp đang chuyển sang cách tiếp cận mới, cách tiếp cận chương trình thay cho tiếp cận dự án.
2.4 Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA trong nn
2.4.1 Tiêu thức đánh giá hiệu quả
Nguồn vốn ODA như chúng ta đã biết, có những đặc trưng khác biệt so với những nguồn vốn khác. Nó là nguồn vốn hỗ trợ mà các quốc gia phát triển dành cho các chương trình phúc lợi xã hội, các chương trình, dự án đầu tư phát triển ở các nước nghèo. Do vậy hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là vấn đề cần hết sức quan tâm để nguồn vốn ODA thực sự phát huy được hết vai trò của nó, đóng góp vào sự đi lên của các quốc gia đang phát triển.
Thông thường, khi nói đến hiệu quả thu hút nguồn vốn ODA người ta thường liên hệ ngay đến tốc độ giải ngân nguồn vốn.
Tốc độ giải ngân ODA
Được thể hiện bằng tỷ trọng giữa nguồn vốn thực hiện so với nguồn vốn cam kết ban đầu từ phía các nhà tài trợ. Tốc độ giải ngân chính là thước đo mức độ sử dụng nguồn vốn ODA, khả năng triển khai vốn vào các chương trình dự án phục vụ phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, tốc độ giải ngân, một mình nó không thể là thước đo để đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn ODA. Bài học thu hút viện trợ từ các quốc gia đang phát triển tiêu biểu là Nam Phi, Brazin, Argentina… đã cho thấy điều này. Các quốc gia trên đã lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, không có khả năng chi trả dẫn tới nền kinh tế suy thoái trầm trọng trong những năm qua một phần là do chạy theo nguồn vốn ODA. Cố gắng thu hút vốn thật nhiều và rồi không thể hấp thụ được nguồn vốn đó. Các nước này cố tình đẩy nhanh tốc độ giải ngân vào các dự án, mà không hề quan tâm các dự án này hoạt động ra sao? Có mang lại lợi ích gì cho nền kinh tế không?
Do vậy khi nói đến hiệu quả thu hút và sử dụng ODA phải quan tâm đến các chỉ tiêu thực tế của dự án, đó là:
Tính ích lợi của các chương trình dự án ODA, thành quả các dự án đem lại cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội ( phát triển ngành, vùng, lãnh thổ…)
Phạm vi, qui mô ảnh hưởng của các chương trình, dự án được triển khai đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đối với từng ngành, từng địa phương
Những tác động của dự án đến các đối tượng khác có liên quan (con người, môi trường…)
Tầm quan trọng của các chương trính, dự án trong chiến lược phát triển chung của từng ngành, từng lĩnh vực và toàn nền kinh tế.
Đây là những chỉ tiêu định tính, rất trừu tượng, khó xác định, đánh giá nhưng lại là chỉ tiêu hết sức quan trọng để đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
2.4.2 Hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong Nông nghiệp
2.4.2.1 Những thành quả đạt được
Cho đến thời điểm hiện nay, ngành Nông nghiệp đã thu hút được 397 dự án ODA với tổng nguồn vốn lên tới 3,724 tỷ USD. Trong đó 176 dự án đã kết thúc, 158 dự án đang tiếp tục thực hiện triển khai trên cả 4 lĩnh vực: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, phát triển Nông thôn tổng hợp. Trải qua hơn 10 năm triển khai, nguồn vốn ODA đã chứng tỏ được vai trò của nó đối với quá trình phát triển Nông nghiệp Việt Nam.
Về trồng trọt, các dự án di truyền Nông nghiệp đã gặt hái được những thành công nhất định. Dự án VIE/87/005 với tổng số vốn cam kết 1,17 triệu USD do UNDP và FAO đồng tài trợ và 7 dự án nhỏ khác đã góp phần quan trọng tạo ra 12 giống quốc gia, trong đó có 7 giống lúa, 1giống ngô, 2 giống đậu tương, 1 giống hoa và 1 giống mía chịu phèn mặn. Bản thân viện di truyền cũng trưởng thành rất nhiều: nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật đầu đàn đã trưởng thành về chuyên môn từ các dự án, chương trình hợp tác quốc tế.
Dự án phát triển cafê ở miền núi phía Bắc và miền Trung do Pháp và một số tổ chức tài trợ đã thay đổi cơ cấu sản phẩm cafê Việt Nam , tăng thị phần của các loại sản phẩm này
Dự án của WB với số vốn vay 32 triệu USD là nhằm phục hồi thâm canh vườn cao su hiện có và khoản vốn 54,6 triệu USD để phát triển cao su tiểu điền ở 12 tỉnh ở khu vực miền Trung và Tây nguyên bước đầu đã thu được kết quả tốt.
Về chăn nuôi, nhiều dự án đã đầu tư, cải tạo một cách cơ bản điều kiện, trang thiết bị nghiên cứu, tạo cơ sở cho các viện phát huy được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Dự án VIE/86/007 về phát triển vịt tại Việt Nam đã tạo ra được giống vịt cao sản, hàng năm cung cấp 120.000 vịt sinh sản bố mẹ cho các tỉnh. Từ đó sản suất được 12 triệu vịt thương phẩm hàng năm. Nhờ thành tựu của dự án này, hàng năm đồng bằng sông Cửu Long sản xuất được từ 12-14 triệu con vịt.
Dự án VIE/86/008 về chăn nuôi bò thịt đã xây dựng được một đội ngũ đông đảo các cán bộ kỹ thuật phụ trách thụ tinh nhân tạo bò ở thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Gia Lai, Bình Định, Quảng Ngãi, Hà Tây và Hà Nội.
Còn trong lĩnh vực lâm nghiệp; Chương trình lương thực thế giới (WFP), Thụy Điển, Đức, Hà Lan, EU, ADB, WB đã và đang tài trợ cho Chính phủ Việt Nam 18 dự án đầu tư cho các hoạt động trồng rừng với tổng số vốn 27,27 triệu USD để trồng 758.215 ha. Số vốn này không chỉ được dùng cho việc trồng rừng mà còn cho các hoạt động gián tiếp phục vụ cho trồng rừng như: phổ cập, đào tạo và tập huấn kỹ thuật lâm sinh, bảo vệ rừng hiện có, xây dựng chính sách giao đất cho các hộ nông dân làm nghề rừng, qui hoạch sử dụng đất, xây dựng hay nâng cấp những công trình cơ sở hạ tầng qui mô nhỏ, thuê chuyên gia nước ngoài mua sắm trang thiết bị.
Ngoài ra, các dự án hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực thể chế, cải cách hành chính đã dần dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho nguồn vốn ODA trong ngành. Tăng cường năng lực cho các cơ quan ở tất cả các cấp đặc biệt là cấp địa phương (tỉnh, huyện, xã, làng, bản) được tiến hành thông qua đào tạo nhăm nâng cao trình độ cán bộ về chuyên môn và về mặt quản lý, tổ chức và thực hiện dự án.
Tóm lại:
Các dự án đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật trong Nông nghiệp đã bổ xung hài hoà cho nhau trong qua trình hoạt động và có những mặt tích cực sau:
Nguồn vốn ODA góp phần thay đổi bộ mặt Nông thôn Việt Nam
Góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo
Các dự án ODA thực hiện trong Nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập cho người nông dân thông qua việc triển khai những chương trình, dự án tại các vùng, địa phương còn nhiều khó khăn.
Thay đổi cơ sở vật chất nông thôn Việt Nam
Như cải thiện hệ thống thuỷ lợi, cầu cống đường xá, các vùng thâm canh, chuyên canh.
ODA góp phần hiện đại hoá ngành Nông nghiệp
Thông qua các dự án ODA trong Nông nghiệp nhiều phương thức canh tác tiên tiến được hình thành, những loại giống mới đem lại sản lượng cao được đưa vào gieo trồng làm cho năng suất, sản lượng Nông nghiệp tăng lên rõ rệt. Nguồn vốn ODA cung cấp các trang thiết bị hiện đại giúp cho quá trình sản xuất được nhiều thuận lợi.
Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ các bộ trong Nông nghiệp
Song song với các dự án ODA hỗ trợ kỹ thuật tập chung vào việc cải tiến năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý, thì quá trình đi sâu, đi sát thực hiện các dự án ODA cũng giúp các cán bộ quản lý của ngành củng cỗ và nâng cao kiến thức về chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý dự án. Các cán bộ của ngành có cơ hội tiếp xúc với các nhà tài trợ và học hỏi được kinh nghiệm quản lý của họ trong quá trình thực hiện dự án. Thực tế cho thấy một lớp cán bộ quản lý trụ cột trong Nông nghiệp đã hình thành từ các chương trình dự án ODA.
Nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác cho người Nông dân thông qua đào tạo phổ cập khuyến nông, khuyến lâm.
2.4.2.2 Tồn tại cần khắc phục và bài học kinh nghiệm
Những vấn đề chung
Thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh cho quản lý và sử dụng ODA
Khác với FDI, có một bộ luật điều chỉnh riêng đó là Luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay khuôn khổ pháp lý điều chỉnh của ODA mới chỉ dừng lại ở các Nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặt khác, những bất cập trong chính sách thuế hay sự thay đổi thường xuyên của các nguồn luật này gây khó khăn lớn cho các nhà tài trợ trong việc cung cấp nguồn vốn.
Thủ tục hành chính còn nhiều bất cập-thiếu tính hài hoà; Qui trình phê duyệt, thẩm định dự án rườm rà, Hiện nay, toàn bộ lượng vốn ODA được Chính phủ Việt Nam quản lý và phê duyệt, Bộ KHĐT chia các dự án có vốn ODA thành 15 loại và sử dụng 15 mẫu hồ sơ khác nhau cho các nhà tài trợ, hoàn tất các thủ tục này sẽ chiếm một khoảng thời gian khá lớn; Tệ quan liêu còn tồn tại ở một số cơ quan quản lý ngành cũng như địa phương dẫn tới một số dự án triển khai vốn chậm hoặc không tận dụng được nguồn tài trợ.
Sự phân cấp quản lý các dự án ODA chưa thật rõ ràng, còn có tình trạng trùng lặp về chức năng giữa các cơ quan quản lý, thiếu sự phối hợp đồng đều giữa các cấp, các ngành với địa phương, quyền hạn của ban quản lý dự án còn nhiều hạn chế, thiếu vắng một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho sự hoạt động và tồn tại của những đơn vị này (liên quan đến tổ chức, biên chế, ngân sách, hoạt động và nhu cầu đào tạo…) dẫn tới hiệu quả sử dụng ODA chưa cao.
Tính công khai, minh bạch tài chính của một số dự án chưa cao. 90% dự án ODA thiếu chỉ tiêu thực tế và chưa đáp ứng thoả đáng mục tiêu phát triển kinh tế (theo phát biểu của ông Klaus Rohland, Giám đốc quốc gia của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam trong cuộc hội thảo “nâng cao năng lực quản lý toàn diện nguồn vốn ODA ngày 17/6/2003”[i] Việt Nam net
Tranh chấp, khác biệt trong qui trình, thủ tục thu hút ODA
Mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và qui định tài trợ riêng biệt. Đa phần các nhà tài trợ có chiến lược hợp tác, phát triển với Việt Nam hoặc các định hướng ưu tiên hợp tác với Việt Nam. Các văn kiện này cũng có sự khác biệt về nội dung và cách tiếp cận. Cùng với thời gian, cả phía cung cấp viện trợ lẫn bên tiếp nhận viện trợ bắt đầu nhận thấy rằng việc tồn tại một lúc quá nhiều các chu trình thủ tục khác nhau này đang tạo ra một gành nặng lớn cho bộ máy hành chính của quốc gia tiếp nhận viện trợ và làm tăng chi phí chung của quá trình chuyển giao viện trợ.
Sự trùng lặp trong tài trợ làm tăng đáng kể chi phí giao dịch. Để thiết kế các chương trình, dự án các nhà tài trợ phải tìm hiểu, xây dựng dự án, trong đó phạm vi các thông tin tìm hiểu trùng lặp rất nhiều dẫn đến việc trùng lặp trong đầu tư nguồn lực, lãng phí thời gian, tiền bạc của tất cả các phía đối tác có liên quan. Đây là mới chỉ nói đến riêng khâu thiết kế, xây dựng dự án mà chưa kể đến khâu thực hiện và quản lý dự án với sự khác biệt trong các qui định pháp luật của nhà nước Việt Nam đối với các nhà tài trợ về các lĩnh vực đấu thầu, mua sắm, kế toán, kiểm toán, theo dõi dự án…, gây khó khăn cho các Ban quản lý dự án, đối tượng chịu sự ràng buộc của cả hai hệ thống này.
Thủ tục giải ngân của Việt Nam và các tổ chức tài trợ không đồng nhất là vấn đề hết sức nan giải. Cơ chế giót vốn của các nhà tài trợ là cơ chế tạm ứng, khi nào quyết toán hết phần tạm ứng mới tiếp tục cấp vốn. Điều này quả không dễ dàng với Việt Nam khi thời hạn qui định quyết toán vốn ngắn. trong khi đó theo qui định của Việt Nam, để có thể sử dụng khoản tiền ứng đó phải làm tất cả các thủ tục từ thiết kế phê duyệt luận chứng kinh tế, tổ chức đấu thầu, thi công cho đến nghiệm thu và quyết toán. Đây là quá trình nhiều công đoạn và rất mất thời gian khó có thể hoàn tất trong khoảng thời gian mà nhà tài trợ cho phép. Đây chính là khó khăn lớn nhất trong vấn đề giải ngân các dự án vốn vay ODA.
Nguồn vốn đối ứng không kịp thời đầy đủ
Đối với các dự án vốn vay, để giải ngân được nguồn vốn thì các dự án này phải lập kế hoạch vốn đối ứng và phải được phê duyệt kịp thời. Trong thực tế các địa phương ngay cả cấp bộ mới chỉ quan tâm đến việc tiếp cận dự án và chưa chú ý đến việc lập kế hoạch vốn đối ứng cho những dự án này. Trong một số dự án vốn vay, địa phương (nơi tiếp nhận dự án) không lo đủ số vốn đối ứng cần thiết để giải quyết các vấn đề tái định cư và giải phóng mặt bằng cho các công trình nên đã ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thực hiện.
Thiếu vốn để thực hiện hỗ trợ kỹ thuật trong các dự án cũng là khó khăn lớn. Thông thường đối với các dự án hỗ trợ không hoàn lại, các nhà tài trợ muốn dùng vốn nước ngoài để thuê chuyên gia tư vấn, còn đối với các dự án vốn vay thì phải dùng vốn Việt Nam. Trường hợp không có vốn để thuê tư vấn thì sẽ ảnh hưởng đến việc chuẩn bị đầu tư, nhất là quá trình xây dựng dự án tiền khả thi và khả thi.
Năng lực quản lý kém
Qua hơn 10 thực hiện các chương trình, dự án ODA. Năng lực quản lý ODA của Việt Nam đã có những bước tiến bộ đang kể. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các ban quản lý dự án đã làm quen và tích luỹ các kinh nghiệm quản lý nguồn vốn ODA.
Tuy vậy, công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam cũng còn những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức nhất là khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá dự án. Điều này là do:
Thiếu sự quản lý điều hành từ Chính phủ: Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong thu hút vận động nguồn vốn ODA. Tuy nhiên công tác triển khai theo dõi tình hình thực hiện từ Chính phủ đến các cơ sở địa phương chưa được thường xuyên và chưa có hệ thống, phân cấp quản lý chưa rõ ràng dẫn tới tình trạng rối ren, thiếu minh bạch đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA
Nguyên nhân quan trọng khiến cho tốc độ giải ngân chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và mong muốn của các nhà tài trợ là do năng lực quản lý của các cấp còn yếu. Hiện trong lĩnh vực này chưa có một hệ thống phát triển đội ngũ cán bộ chuyên môn. Quản lý dự án được coi là một phần việc làm phụ thêm và không thuộc phần trách nhiệm chính của cơ quan chủ quản. Vì vậy, khi dự án kết thúc, các nguồn lực được đào tạo hoặc phát triển trong dự án đều không được sử dụng tiếp.
Bên cạnh đó là những khó khăn trong khâu phê duyệt và thẩm định dự án. Theo đánh giá của các chuyên gia, nếu không kịp thời tăng tốc độ giải ngân, mức vốn ODA vào Việt Nam có nguy cơ giảm và Việt Nam sẽ bị tụt hậu so với những nước công nghiệp mới.
Khả năng đánh giá và hệ thống báo cáo kém
Năng lực theo dõi, đánh giá các chương trình, dự án ODA vẫn còn nhiều hạn chế ở tất cả các cấp đặc biệt là cấp địa phương:
Ban quản lý dự án là cơ quan chính chịu trách nhiệm báo cáo về tình hình thực hiện các dự án. Các báo cáo lập ra, được gửu tới các cơ quan hưu quan như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, cơ quan chủ quản, nhà tài trợ…Do yêu cầu, chức năng của các cơ quan này có sự khác biệt, gây ra khó khăn lớn cho ban quản lý dự án trong quá trình lập các báo cáo.
Hơn thế, hệ thống thông tin liên ngành, liên cấp yếu kém, còn t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B15.doc