Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I. một số vấn đề lí luận chung về thực thi điều ước quốc tế và thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại dịch vụ 3
1. Một số vấn đề lí luận chung về thực thi điều ước quốc tế. 3
1.1. Nguyên tắc Pacta sunt servanda 3
1.1.1.Cơ sở pháp lý của nguyên tắc. 3
1.1.2.Nội dung nguyên tắc. 3
1.1.3. ý nghĩa của nguyên tắc. 5
1.2. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia trong thực thi Điều ước quốc tế. 6
1.2.1. Một số học thuyết về mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. 6
1.2.2. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. 6
1.2.3.Vấn đề chuyển hoá (nội luật hoá) Điều ước quốc tế và vấn đề áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế. 7
1.2.4. Một số vấn đề khác liên quan đến thực thi Điều ước quốc tế 8
2. WTO và vấn đề thực thi các cam kết của thành viên WTO. 9
3. Cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ. Yêu cầu của WTO về thực thi các cam kết về dịch vụ. 10
3.1. Khái niệm Thương mại Dịch vụ. 10
3.2. Cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ 10
3.2.1. Cam kết chung về Thương mại Dịch vụ 10
3.2.2.Các cam kết cụ thể 11
3.3. Yêu cầu của WTO về thực thi các cam kết Thương mại Dịch vụ của Việt Nam 14
Chương II. Cơ hội và thách thức đối với việt nam trong thực thi cam kết về thương mại dịch vụ với wto trong giai đoạn hiện nay 16
1.Tổng quan về cơ hội và thách thức đối với Việt nam khi là thành viên WTO. 16
1.1. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam theo bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. 16
1.1.1.Những cơ hội cơ hội đối với Việt Nam khi là thành viên WTO. 16
1.1.2.Những thách thức đối với Việt Nam khi trở thành thành viên WTO. 18
1.2.Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi trở thành thành viên WTO theo quan điểm của nghị quyết số 08-NQ/TW 20
1.2.1. Những cơ hội đối với Việt Nam 20
1.2.2.Những thách thức đối với Việt Nam. 21
2. Một số cơ hội và thách thức cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay 22
2.1. Một số cơ hội cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay. 22
3.2. Một số thách thức cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay. 25
3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc thực thi cam kết dịch vụ với WTO. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. 30
Chương III. Phương hướng và giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình thực thi các cam kết thương mại dịch vụ của việt nam với wto trong giai đoạn hiện nay 36
1. Phương hướng tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình thực thi cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam với WTO trong giai đoạn hiện nay 36
2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình thực thi các cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam với WTO trong giai đoạn hiện nay 40
Kết luận 44
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3442 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ, những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
1.1.2.Những thách thức đối với Việt Nam khi trở thành thành viên WTO.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Cùng với bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nghị quyết số 08 – NQ/TW tại hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 10 về một số chủ trương chính sách lớn để phát triển bền vững khi Việt Nam gia nhập WTO7 Nghị quyết số 08/2006/NQ-TW hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa10 về một số chủ trương, chính sách lớn để phát triển bền vững khi Việt nam gia nhập WTO.
cũng đã nêu lên những thách thức và cơ hội của Việt Nam khi trở thành thành viên WTO.
1.2.Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi trở thành thành viên WTO theo quan điểm của nghị quyết số 08-NQ/TW
1.2.1. Những cơ hội đối với Việt Nam
Theo quan điểm của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, chúng ta có những cơ hội trong việc thực thi các cam kết về Thương mại Dịch vụ như sau:
Một là: Chúng ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu vào các nứơc thành viên của tổ chức Thương mại thế giới với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và theo các mức thuế các thành viên WTO cam kết. Đây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Hai là: Thực hiện các cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, thể chế kinh tế chính trị ở nước ta ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thuận lợi, thúc đẩy mạnh mễ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong đó có các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến, đóng góp ngày càng quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Ba là: Gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng to lớn của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sẽ hiệu quả hơn; tăng trưởng kinh tế sẽ nhanh và bền vững hơn.
Bốn là: Là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới, nước ta có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các thành viên khác, hạn chế những thiệt hại xảy ra đối với Việt nam.
Năm là: Chúng ta có những thuận lợi mới để thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng: “ Việt nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phát huy vai trò của nước ta trong các tổ chức khu vực và quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng với các nước trên thế giới.
Ngoài ra, khi là thành viên Tổ chức thương mại thế giới, người tiêu dùng trong nước sẽ có thêm sự lựa chọn và hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào với giá cạnh tranh hơn, dịch vụ hỗ trợ tiện lợi hơn, có chất lượng hơn, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh.
1.2.2.Những thách thức đối với Việt Nam.
Theo quan điểm của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, bên cạnh những cơ hội khi trở thành thành thành viên WTO chúng ta cũng đồng thời gặp những thách thức trong việc thực thi các cam kết về Thương mại Dịch vụ như sau:
Thứ nhất: Nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước. Chính phủ ta phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong việc cải thiện môi trường thu hút đầu tư.
Cùng với việc được tiếp cận thị trường tại các nước thành viên khác của WTO, chúng ta cũng phải mở cửa thị trường cho các nước thành viên khác. Điều đó sẽ tạo ra thách thức cho chúng ta trong việc cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh môi trường thu hút đầu tư với các quốc gia khác.
Thứ hai: Gia nhập tổ chức thương mại thế giới, tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng, miền đất nước; có những bộ phận doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể tăng lên; khoảng cách giàu nghèo, mức sống giữa nông thôn và thành thị và có thể cách biệt lớn hơn, từ đó có thể dẫn đến những yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Thứ ba: Với sự hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ không kiểm soát được thị trường, có thể gây ra rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế, tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Thực thi các cam kết của WTO, nền kinh tế nước ta chắc chắn bị ảnh hưởng bởi những cam kết và quy luật của nền kinh tế thị trường, mở cửa thị trường, giảm thuế sẽ làm cho sản phẩm và sự đầu tư của các quốc gia khác vào Việt Nam một cách ồ ạt. Điều đó sẽ tác động mạnh mẽ tới các doanh nghiệp, có thể làm các doanh nghiệp Việt Nam phá sản, gây rối loạn kinh tế.
Thứ tư: Đội ngũ cán bộ, công chức nước ta (bao gồm cán bộ quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp và chuyên gia trong các lĩnh vực còn thiếu và yếu cả về năng lực và chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt, chúng ta còn thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế và ngoại ngữ để giả quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ trọng lớn, số lao động không có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều.
Thứ năm: Cùng với những thách thức trong lĩnh vực kinh tế, quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức lớn đối với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và việc giữ vững định hướng xá hội chủ nghĩa, việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững đất nước.
2. Một số cơ hội và thách thức cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay
2.1. Một số cơ hội cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay.
Khi thực hiện các cam kết về dịch vụ với WTO, khả năng tiếp cận thị trường cạnh tranh được mở rộng đối với nền kinh tế Việt Nam thể hiện ở hai khía cạnh:
• Khía cạnh thứ nhất là mở rộng quy chế tối huệ quốc (MFN-The most favored nation) và đối xử quốc gia (NT - Nation treament) lâu dài và vô điều kiện gắn liền với quy chế thành viên của WTO. Dịch vụ của Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia đa phương vô điều kiện và ổn định, có quyền tự do quá cảnh tới hơn 150 nước thành viên.
• Khía cạnh thứ hai là khi thực thi các cam kết với WTO thì Việt Nam sẽ tránh được những biện pháp trong các hành động chống phá giá của các đối tác thương mại. Thực tiễn cho thấy rằng các biện pháp chống bán phá giá thường được áp dụng mạnh hơn cho đối với những nước chưa phải là thành viên WTO so với những nước là thành viên của WTO.
Các quy định của Hiệp định chung về dịch vụ thương mại của WTO yêu cầu các nước thành viên từng bước mở cửa thị trường dịch vụ, bao gồm các ngành dịch vụ: dịch vụ thương nghiệp, tiền tệ, điện tín, du lịch, giáo dục... trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử. Với nguyên tắc như vậy, khi trở thành thành viên của WTO, thực thi các cam kết về thương mại dịch vụ, Việt nam sẽ từng bứơc mở cửa thị trường dịch vụ của mình cho nước ngoài và như vậy sẽ thúc đẩy thị trường trong nước phát triển và có tính cạnh tranh hơn. Sự cạnh tranh sẽ thúc đẩy chi phí về dịch vụ giảm và nâng cao chất lượng dịch vụ từ đó nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Khi chính thức trở thành thành viên WTO, vấn đè xuất khẩu, doanh nghiệp, hàng hoá của Việt Nam sẽ không bi bó hẹp trong các Hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu; không bị phân biệt đối xử so với hàng hoá và doanh nghiệp của các quốc gia khác. Việc giảm bớt hàng rào thương mại sẽ thúc đẩy thương mại tăng trưởng đối với nước ta.
Bên cạnh đó, khi thực hiện yêu cầu về việc minh bạch hoá hệ thống chính sách quốc gia theo yêu cầu của WTO, Việt Nam sẽ tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, tăng khả năng thu hút vốn, tạo ra ngoại lực cho đất nước phát triển.
Môi trường thương mại quốc tế đã trở nên thông thoáng hơn sau nhiều nỗ lực của WTO. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế trong thương mại quốc tế. Đó là những rào cản thương mại ẩn dưới các công cụ được WTO cho phép. Tranh chấp thương mại là điều khó tránh khỏi mà phần thua thiệt thường thuộc về các nước nhỏ. Gia nhập WTO, thực thi các cam kết chúng ta được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi của mình, đảm bảo được đối xử bình đẳng như các quốc gia thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ có một vị thế bình đẳng như các thành viên khác, được tham gia hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội bảo vệ lợi ích của đất nước mình.
Thực thi các cam kết có nghĩa là việt nam phải có những thay đổi phù hợp với tình hình mới của đất nước, là động lực để Việt Nam tiến hành cải cách các đường lối, chính sách đối nội cũng như đối ngoại, tạo ra nguồn nội lực, và các điều kiện giúp việt nam tránh sự tụt hậu khi tham gia vào tiến trình hội nhập của cả thế giới. Việc thực hiện các cam kết của WTO đòi hỏi đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính của Việt Nam, Chính phủ và các cơ quan nhà nước phải đổi mới phương thức hoạt động phù hợp với đòi hỏi của WTO. Những cản trở, vướng mắc trong quản lý hành chính sẽ được bãi bỏ, nhiều dịch vụ hành chính công sẽ ra đời, tạo điều hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người dân trong quá trình phát triển.
Là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong WTO về quản lý kinh tế , cách thức tiếp thị, phục vụ khách hàng nhất là trong thương mại dịch vụ vì hiện nay trong lĩnh vực thương mại dịch vụ việt nam còn yếu kém trong chất lượng dịch vụ, cũng như cách thức tiến hành cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.
Thực thi các cam kết về thương mại dịch vụ, Việt nam sẽ tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vì để thực thi các cam kết Việt nam bắt buộc phải cải cách các chính sách, thể chế để đảm bảo thực thi đúng các quy định như đã cam kết với WTO về thương mại dịch vụ. Việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chắc chắn sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ, đem lại những cơ hội lớn cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, khi mở cửa thách thức từ những yếu tố của qua trình hội nhập đối với chúng ta cũng là rất lớn.
3.2. Một số thách thức cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay.
Khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO và bắt đầu hưởng các quyền lợi và có nghĩa vụ thực hiện các cam kết gia nhập WTO thì bên cạnh thời cơ là những thách thức và khó khăn.
Mặc dù có một số thời gian chuyển tiếp nhất định, nhưng việc thực thi các cam kết gia nhập WTO là thách thức rất lớn đối với Việt nam.
Thách thức trong việc thực hiện các cam kết về không phân biết đối xử và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng.
Không phân biệt đối xử-được thể hiện qua hai quy chế MFN và NT- là nguyên tắc nền tảng của WTO cũng như của các tổ chức, thể chế kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, Việt nam đã thực hiện nhiều biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại quốc tế. Chính phủ đã từng bước giảm và tiến tới hủy bỏ các quy định có tính chất phân biệt đối xử giữa dịch v ụ của Việt Nam và nước ngoài.
Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh tại Việt Nam còn chưa đồng bộ và chồng chéo. Cho đến nay vẫn chưa có văn bản chung điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ. Các hoạt động kinh doanh dịch vụ chủ yếu do từng bộ ngành hữu quan phụ trách ngành dịch vụ ban hành. Môi trường pháp lý chúng ta chưa thật đồng bộ và có điểm chưa đầy đủ theo thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu mới. Đây là thách thức không chỉ ảnh hưởng đến việc thực hiện đầy đủ các cam kết khi gia nhập WTO, mà còn là vướng mắc đối với các Doanh nghiệp nước ta.
Nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước. Chính phủ ta phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong việc cải thiện môi trường thu hút đầu tư.
Thách thức đối với năng lực cạnh tranh quốc gia:
*Độ mở cửa: sẽ gia tăng khi vấn đề bảo hộ, trợ cấp không còn và theo đó, vấn đề xây dựng các hàng rào kỹ thuật sẽ phải chú trọng để bảo vệ thị trường trong nước. Chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với vấn đề mở cửa mạnh về thương mại trong khi mở cửa về đầu tư thấp, chưa đa dạng hoá các nguồn đầu tư vẫn tăng đầu tư nhà nước và FDI, các nguồn đầu tư khác còn kém. Nguồn lực trong nước, đặc biệt là từ khu vực tư nhân huy động chưa hiệu quả.
*Môi trường kinh tế vĩ mô: Hệ thống thuế chưa hoàn chỉnh, nhất là chưa có giải pháp hiệu quả về thuế giá trị gia tăng, thuế đất. Cũng tương tự như vậy, vấn đề thuế nhập khẩu giảm mạnh khiến cho chúng ta phải đối mặt với các thách thức về nguồn thu và quản lý ngân sách. Các chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái… chưa linh hoạt cũng có thể cản trở lớn đối với việc huy động và phân bổ các nguồn lực trong và ngoài.
*Công nghệ yếu kém: Cùng với việc chưa có môi trường cạnh tranh và thị trường khoa học công nghệ, việc tiếp nhận công nghệ mới để tạo bứt phá cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
*Kết cấu hạ tầng: Thiếu đồng bộ, đầu tư phân tán về nguồn lực, tính kết nối thấp trong hội nhập khu vực và thế giới, trong khi đây là tiền đề đầu tiên để tạo ra đột phá trong phát triển, đáng chú ý là về xây dựng đường cao tốc, hạ tầng mềm và các điều kiện hỗ trợ phát triển khác.
*Lao động và nguồn nhân lực: Chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng thấp và thiếu tính linh hoạt trên thị trường lao động. Vẫn chưa có cơ chế tốt để phát huy được các nguồn nhân lực Việt Nam ở trong và ngoài nước.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp yếu: Hiện nay cả nước ta có hơn 230.000 doanh nghiệp nhưng chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau 20 năm đổi mới không có các tập đoàn lớn (trong những năm gần đây, đang có xu hướng thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh, nhưng sự hình thành của chúng chưa thực sự tương thích với các nguyên tắc thị trường). Tính minh bạch về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thấp. Thách thức càng lớn hơn trước yêu cầu tham gia vào nền kinh tế thế giới. Nguy cơ phá sản các doanh nghiệp trong nước và thất nghiệp sẽ tăng cao dưới tác động của dòng hàng hó, dịch vụ nhập khẩu ồ ạt từ nước ngoài.
- Năng lực cạnh tranh của một số ngành và sản phẩm chủ chốt thấp:
*Những ngành sử dụng nhiều lao động có kim ngạch xuất khẩu lớn nhng có giá trị gia tăng thấp như da giày, dệt may, thuỷ sản, điện tử, chế biến nông phẩm… sẽ có nguy cơ lớn về việc mất thị trường, kể cả thị trường nội địa. Do mức thuế quan và các hàng rào phi thuế giảm mạnh trong thời gian ngắn, nên sự cạnh tranh về các sản phẩm này trên thị trường rất quyết liệt. Nguy cơ bị đặt trước các vụ kiện bán phá giá có thể xảy ra ở những ngành này. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cần chú trọng đến việc có kế hoạch và biện pháp phòng hộ về chống bán phá giá. Các ngành này dễ bị thu hẹp trớc áp lực của các nhà đầu tư bên ngoài và bị lệ thuộc, nếu nội lực của ta quá yếu.
*Những ngành mới và có giá trị gia tăng cao nhưng lại mang tính độc quyền sẽ bị thách thức lớn trước sự giảm mạnh của trợ cấp, bảo hộ sau WTO như: dịch vụ viễn thông, ngân hàng-tài chính, dịch vụ phân phối…
*Những ngành công nghiệp nền tảng vốn được phát triển chủ yếu dựa vào chính sách bảo hộ cao của nhà nước như xi măng, sắt thép, hoá chất… sẽ có nguy cơ bị mất chỗ đứng ngay trên cả thị trường nội địa.
Sản phẩm của tất cả các ngành này đều bị thách thức về chất lượng giá cả, thương hiệu và khả năng tham gia vào hệ thống phân phối. Cũng tương tự như vậy, WTO cũng sẽ buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế trong khi vẫn duy trì được tính cạnh tranh của sản phẩm.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã phải cam kết điều chỉnh, bổ sung hệ thống luật pháp, chính sách về quản lý kinh tế trong các lĩnh vực khác nhau, (trong đó có lĩnh vực dịch vụ) phù hợp với những quy tắc của WTO cũng như các thể chế kinh tế thương mại quốc tế mà Việt nam tham gia. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp, chính sách của kinh tế so với các vấn đề trên còn chưa hoàn chỉnh và còn nhiều bất cập so với quy định quốc tế, của WTO đặc biệt là còn thiếu tính minh bạch và ổn định, không nhất quán để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh lành mạnh.
Còn nhiều khoảng trống và bất cập trong hệ thống luật pháp, chính sách điều tiết thị trường dịch vụ: tài chính tiền tệ, chứng khoán, ngân hàng...Đó là một thách thức khi chúng ta phải thực thi các cam kết với WTO về thương mại dịch vụ.
Ngành dịch vụ của nước ta phát triển chưa cao, mới chiếm 40% GDP( trong khi đó bình quân chung của thế giới là hơn 60%). Sức cạnh tranh của dịch vụ còn quá yếu, do chất lượng thấp, giá thành cao, chưa đáp ứng sự phát triển đa dạng về thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều Doanh nghiệp chậm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đổi mới phương thức quản lý, đổi mới công nghệ. Một số Doanh nghiệp chưa coi trọng quảng bá thương hiệu, chưa tìm cách phát huy lợi thế so sánh; còn thụ động trong chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp dịch vụ khoa học, nghiên cứu thị trường, tiếp thị, thiết kế ... mới được hình thành, khả năng cạnh tranh thấp sẽ có nguy cơ bị các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh ngay khi mở cửa thị trường.
Gia nhập WTO có nghĩa là chúng ta dần xóa bỏ hoàn toàn sự trợ giúp của nhà nước đối với các doanh nghiệp, các ngành sản xuất trong nước, mở rộng thị trường, các doanh nghiệp phải “tự thân vận động” để không bị đào thải khỏi nền kinh tế thị trường. Sự phân phối lợi ích giữa khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, giữa vùng đô thị và nông thôn, giữa các khu vực địa lý sẽ không đồng đều vì theo cơ chế mới. Có thể một bộ phận người dân sẽ không được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa vì ảnh hưởng của những quy luật của nền kinh tế thị trường. (Ví dụ: Khi xóa bỏ trợ cấp và ưu đãi cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp này sẽ phải có kế hoạch đầu tư vào những địa bàn có thể thu được lợi nhuận để đảm bảo sự tồn tại của mình. Lúc đó, người dân ở những địa bàn miền núi, vùng sâu… sẽ khó có thể được hưởng những lợi ích mà quá trình toàn cầu hóa đem lại).
Việt Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ trong đó cho phép sự xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài khi gia nhập WTO, cơ cấu thị phần tiền tệ sẽ có nhiều thay đổi. Việc hình thành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ chiụ tác động chi phối của những thay đổi kinh tế xã hội toàn cầu. Sự biến động tỉ giá và đầu tư quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn có và gia tăng rủi ro trong các hệ thống Ngân hàng
Thực thi các cam kết đồng thời với việc nguồn thu ngân sách bị suy giảm: Việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách trong giai đoạn đầu. Thâm hụt cán cân thanh toán sau khi gia nhập WTO là vấn đề lo ngại của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng
Khi thực thi các cam kết với WTO, nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng và bao trùm nhiều thách thức lớn. Các cán bộ Việt Nam thường bị hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức kinh tế thị trường, ngoại ngữ và đặc biệt là kỹ năng đàm phán; để có thể thực thi các cam kết chúng ta phải đào tạo lại cho các cán bộ để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đồng thời vấn đề an sinh xã hội: Giải quyết việc làm cho người lao động dư thừa do cải tổ ngành sản xuất trong nước để phát triển... cũng là những thách thức không nhỏ khi chúng ta thực hiện cam kết dịch vụ với WTO
Cùng với việc thực thi các cam kết với WTO, tuân thủ triệt để các quy chế của WTO, Việt Nam phải tiếp tục thực hiện những cam kết đa phương, song phương với các quốc gia và tổ chức quốc tế khác. Cần phải có sự cân bằng trong việc thực thi các cam kết để dung hòa lợi ích, quyền lợi, nghĩa vụ của chúng ta mà không xảy ra các mâu thuẫn và bất lợi trong quá trình thực thi.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế – thương mại, Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trờng cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập.
Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa. Đây là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ.doc