MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG VÀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 4
1. Lịch sử ra đời, phát triển của ngân hàng 4
2. Quá trình ra đời và phát triển của ngân hàng liên doanh 5
2.1. Sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và sự ra đời của ngân hàng liên doanh 5
2.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước 9
3. Sự hình thành của ngân hàng liên doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam 10
3.1. Sự hình thành ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 10
3.2. Vai trò của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam 13
CHƯƠNG II 15
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM 15
1. Khái niệm về ngân hàng liên doanh 15
1.1. Khái niệm ngân hàng liên doanh 15
1.2. Tính chất pháp lý đặc thù của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam 18
1.3. Phân biệt ngân hàng liên doanh với một số loại hình doanh nghiệp khác 18
1.3.1. Ngân hàng liên doanh trong mối tương quan với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác 18
1.3.2. Sự khác nhau giữa ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài 19
2. Một số nội dung cơ bản về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 20
2.1. Quy chế pháp lý về thành lập, quản trị điều hành, kiểm soát ngân hàng liên doanh 20
2.1.1. Trình tự, thủ tục thành lập 20
2.1.2. Cơ chế quản trị, điều hành ngân hàng liên doanh 24
2.1.3. Quy chế pháp lý kiểm soát đặc biệt, phá sản ngân hàng liên doanh 27
2.2. Quy chế pháp lý về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên doanh 29
2.2.1. Hoạt động huy động vốn 29
2.2.2. Hoạt động cấp tín dụng 34
2.2.3. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng và ngân quỹ 42
2.2.4 .Hoạt động tài chính khác 46
CHƯƠNG III 48
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 48
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN 48
PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 48
1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 48
2. Kinh nghiệm hoạt động của ngân hàng liên doanh tại một số nước 51
3. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 53
4. Một số kiến nghị 57
4.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng liên doanh 57
4.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD 58
4.1.2. Sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2005 59
4.1.3. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005 60
4.2. Hoàn thiện quy chế của pháp luật về hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên doanh 62
4.2.1 Hoạt động huy động vốn 62
4.2.2. Hoạt động cấp tín dụng 63
4.2.3. Hoạt động thanh toán 63
4.2.4. Hoạt động kinh doanh ngoại hối 64
4.3. Các biện pháp hỗ trợ 64
4.4. Cụ thể hoá các quy chế hoạt động của ngân hàng liên doanh theo hướng phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; trước hết là phù hợp với hiệp định BTA, các cam kết của Việt Nam trong WTO 65
KẾT LUẬN 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2271 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền gửi và giấy tờ có giá; vay vốn của tổ chức tín dụng trong và ngoài nước; vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp cần thiết.
Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
Trong các hình thức huy động vốn của ngân hàng liên doanh thì hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi là hình thức quan trọng và nó chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu của nghiệp vụ huy động vốn bằng nhận tiền gửi là việc nhờ bảo quản những đồng tiền vàng. Người chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại những đồng tiền mà họ được giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhận bảo quản đó và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi tiền. Dần dần xã hội phát triển đã tạo điều kiện mà người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ đã gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền.
Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Pháp luật Việt Nam quy định, ngân hàng liên doanh được thực hiện nghiệp vụ huy động vốn dưới hai hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi được khách hàng gửi vào ngân hàng liên doanh để thực hiện các khoản chi trả, thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn có nghĩa là các khoản tiền gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền buổi sáng, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày. Nếu không có nhu cầu sử dụng, anh ta có thể để nửa tháng, một năm sau mới rút. Vì tính bất định về thời gian gửi cùng với địa điểm có thể rút ra bất cứ lúc nào cần nên loại tiền gửi này còn được gọi ở Mỹ là tiền gửi theo yêu cầu hay ở Pháp gọi là tiền gửi theo tài khoản séc. Thông thường, khách hàng gửi loại tiền này sẽ không được trả lãi hoặc được trả mức lãi suất rất thấp nhằm mục đích giúp cho ngân hàng sử dụng vốn huy động đạt hiệu quả cao, đảm bảo khả năng chi trả, hạn chế được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nếu các ngân hàng trả lãi suất cho các khoản tiền gửi không kỳ hạn cao, sự cạnh tranh để thu hút tiền gửi giữa các ngân hàng sẽ dẫn đến việc lãi suất được trả có thể lên rất cao. Khi đó, ngân hàng buộc phải tìm cách dùng tiền gửi không kỳ hạn cho vay nhằm kiếm được lợi nhuận bù đắp cho tiền lãi cao phải trả để tránh thiệt hại. Các khoản cho thị trường vay luôn luôn phải có thời gian nhất định phụ thuộc vào việc kinh doanh của người đi vay. Tiền gửi không kỳ hạn có tính cơ động là người gửi tiền có quyền rút ra bất cứ lúc nào vì đây là khoản tiền đang chờ thanh toán không phải là tiền mà khách hàng để dành nên khách hàng có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu nên nếu dùng khoản tiền này vào việc cho vay dài hạn là rất mạo hiểm. Tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sẽ rất dễ xảy ra. Hơn nữa, khách hàng khi gửi tiền gửi không kỳ hạn không có ý định để dành và không chú trọng đến tiền lãi.
Tiền gửi không kỳ hạn được quản lý ở các ngân hàng liên doanh trên tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản vãng lai. Tài khoản tiền gửi thanh toán là tài khoản dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình. Tài khoản vãng lai, tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách hàng ngoài việc sử dụng số tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do ngân hàng cho vay theo sự thoả thuận trước giữa ngân hàng và khách hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào tổ chức tín dụng trên cơ sở có sự thoả thuận với tổ chức tín dụng nhận tiền gửi về thời gian rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn có nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian gửi tối thiểu theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng, và không được rút ra trước hạn kỳ đã định. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực của cạnh tranh, để thu hút khách hàng gửi loại tiền gửi này, ngân hàng có thể cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn (nếu số tiền rút ra lớn thì phải có sự thông báo trước cho ngân hàng một thời gian hợp lý) trong trường hợp này người gửi tiền được hưởng mức lãi suất thấp. Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định, trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính ổn định nên ngân hàng liên doanh thường chú trọng áp dụng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này bằng việc đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các khách hàng.
Pháp luật hiện hành ở Việt Nam còn quy định các loại tiền gửi và quyền huy động các khoản tiền gửi đối với từng tổ chức tín dụng, quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi.
Liên quan đến hoạt động huy động vốn, pháp luật ngân hàng của Việt Nam hiện nay vẫn chưa cho phép các ngân hàng liên doanh được quyền huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đây chính là một trong những hạn chế của pháp luật cần phải dỡ bỏ đối với ngân hàng liên doanh.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá
Ở Việt Nam, ngoài hình thức tiền gửi, ngân hàng liên doanh còn huy động vốn dưới các hình thức khác nhau để thu hút các khoản tiền để dành của chủ thể trong nền kinh tế bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Điều 46 Luật các TCTD quy định: “ Tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”
Theo Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước ban hành kèm theo quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định: Giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác định nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành gồm giấy tờ có giá ngắn hạn (thời hạn dưới 12 tháng như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và giấy tờ có giá dài hạn (thời hạn từ 12 tháng trở lên như: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, và các giấy tờ có giá dài hạn khác). Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành có thể thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi danh hoặc không ghi danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối với người mua là cá nhân. Hình thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người mua là cá nhân và tổ chức. Hình thức ghi sổ áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng phát hành. Trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, tổ chức tín dụng phát hành phải cấp chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua. Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, tặng cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu giấy tờ có giá có thể dùng làm vật cầm cố.
Ngân hàng liên doanh muốn được huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá phải thoả mãn những điều kiện để phát hành giấy tờ có giá, trình tự thủ tục phát hành giấy tờ có giá, mệnh giá của giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành…và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc người được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước uỷ quyền chấp thuận bằng văn bản. Ngân hàng liên doanh huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải có trách nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá trị và phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định.
Huy động vốn bằng vay vốn giữa các tổ chức tín dụng
Theo quy định của Quy chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì đối tượng vay và cho vay là tất cả các tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động ở Việt Nam theo quy định của Luật các TCTD. Như vậy, ngân hàng liên doanh cũng là đối tượng thực hiện nghiệp vụ huy động vốn bằng vay vốn giữa các tổ chức tín dụng.
Khi thực hiện việc cho vay, đi vay các bên phải bảo đảm nguyên tắc bên vay phải hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay và các loại phí khác đúng hạn cho bên cho vay. Việc cho vay, đi vay giữa các bên phải bảo đảm an toàn, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Các bên có thể thoả thuận về thời hạn cho vay ngắn, trung hoặc dài hạn tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn vay của ngân hàng liên doanh đi vay, tính chất và khả năng nguồn vốn của ngân hàng liên doanh cho vay. Về phương thức cho vay, các bên thoả thuận áp dụng phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức tín dụng hoặc các phương thức khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Các ngân hàng liên doanh được thực hiện cho vay, đi vay lẫn nhau bằng đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ trên cơ sở phạm vi hoạt động ngoại hối của ngân hàng liên doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Về biện pháp bảo đảm, các bên thoả thuận việc áp dụng hoặc không áp dụng hình thức bảo đảm đối với khoản vay trong từng trường hợp cụ thể như: hình thức bảo đảm bằng tài sản, bảo lãnh của một tổ chức tín dụng khác…Ngân hàng liên doanh phải tổng hợp, báo cáo Ngân hàng Nhà nước tình hình thực hiện cho vay và đi vay với các tổ chức tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (trong trường hợp cần thiết)
Một trong những hoạt động cơ bản của ngân hàng liên doanh là nhận tiền gửi và cho vay. Ngân hàng liên doanh cho vay tới mức mà Ngân hàng Nhà nước cho phép để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng cũng đều thuận lợi. Dù thận trọng ngân hàng vẫn có thể có lúc thiếu khả năng chi trả. Trong những trường hợp như thế này, Ngân hàng Nhà nước là cứu tinh của các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước là “bà đỡ” của các ngân hàng thương mại. Pháp luật quy định, ngân hàng liên doanh được vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn. Theo đó ngân hàng được vay ngắn hạn bằng việc tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước thông qua các hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Đây là hoạt động nghiệp vụ tiện dụng của các ngân hàng thương mại, mang lại lợi ích cho hệ thống ngân hàng hai cấp. Đứng về phía ngân hàng liên doanh, việc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước với ngân hàng liên doanh là một dịch vụ hết sức tiện lợi và nhanh chóng giải quyết được khó khăn trước mắt. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng và với tư cách là “ người cho vay cuối cùng” trong nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước luôn luôn là chủ nợ của hệ thống ngân hàng. Vì là chủ nợ, Ngân hàng Nhà nước mới dễ điều khiển và giám sát hệ thống ngân hàng liên doanh. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chỉ được phép cho các ngân hàng liên doanh vay ngắn hạn vì và chỉ như vậy Ngân hàng Nhà nước mới có thể phản ứng nhanh trước những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí cấp vốn.
2.2.2. Hoạt động cấp tín dụng
Nhà kinh tế Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa “ tín dụng như là một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai.” [ 1, tr 131]. Theo Luật các TCTD, hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác (Khoản 8,10 Điều 20). Qua đó có thể thấy, trong khái niệm tín dụng có sự đan xen giữa yếu tố thời gian hiện tại và thời gian tương lai, vì vậy có thể xảy ra sự rủi ro, bất trắc và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau. “Tín dụng” tức là “ tín dùng” - sử dụng với sự tín nhiệm. Từ đặc thù này cho thấy hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính phản ứng dây chuyền. Do vậy, bất kỳ quốc gia nào cũng quy định hoạt động tín dụng trong một hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro mà hoạt động tín dụng có thể gây ra. Pháp luật Việt Nam quy định ngân hàng liên doanh được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá; bảo lãnh ngân hàng.
Cho vay ngắn, trung và dài hạn
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng liên doanh cho khách hàng, theo đó ngân hàng liên doanh giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng liên doanh bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản của một quan hệ cho vay như các yếu tố về chủ thể bao gồm hai bên tham gia là bên vay và bên cho vay, hình thức pháp lý của việc cho vay là hợp đồng cho vay tài sản, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả một số tiền hay tài sản nhất định là các vật cùng loại…Tuy nhiên, với tư cách là một hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng liên doanh hoạt động cho vay của ngân hàng liên doanh còn thể hiện những dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Một là, việc cho vay của ngân hàng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh mang tính chức năng.
Hai là, hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ là một nghề kinh doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện với các điều kiện như điều kiện về vốn pháp định, giấy phép hoạt động ngân hàng, điều kiện về cơ sở vật chất, về trình độ tay nghề…
Ba là, ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của hệ thống văn bản luật ngân hàng, các tập quán thương mại quốc tế về ngân hàng.
Pháp luật ngân hàng quy định ngân hàng liên doanh được quyền cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay của ngân hàng liên doanh đối với khách hàng, trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thoả thuận là dưới một năm. Hình thức cho vay này chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn ngắn. Cho vay trung hạn và dài hạn là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thoả thuận là từ một năm trở lên. Hình thức cho vay này thường được sử dụng để thoả mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định của khách hàng trong kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại.
Khi cho vay, ngân hàng liên doanh phải tuân thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay quy định tại Luật các TCTD như quy định về bảo đảm tiền vay (Điều 52), xét duyệt cho vay, kiểm tra việc sử dụng tiền vay (Điều 53), việc chấm dứt cho vay, xử lý nợ và điều chỉnh lãi suất (Điều 54), quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay (Điều 56); những trường hợp không được cho vay (Điều 77); hạn chế tín dụng (Điều 78); giới hạn cho vay (Điều 79), tỷ lệ bảo đảm an toàn (Điều 81).
Liên quan đến hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng liên doanh, pháp luật ngân hàng của Việt Nam hiện nay còn thiếu những quy định cho phép ngân hàng liên doanh được cho các tổ chức tín dụng nước ngoài hiện đang hoạt động ở nước ngoài vay vốn. Đây là một hạn chế cần sớm khắc phục.
Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu đã có lịch sử hàng trăm năm nay, nó là một kỹ thuật nghiệp vụ cổ điển nhất về huy động các khoản cho vay thương mại và hiện nay nó vẫn là một trong các hoạt động cơ bản của nghiệp vụ ngân hàng. Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá là việc ngân hàng liên doanh mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán (Khoản 14,15 Điều 20 Luật các TCTD).
Theo Luật các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 ngày 29/11/2005 thay thế Pháp lệnh thương phiếu thì công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định. Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng (Khoản 1,2,3 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng). Giấy tờ có giá là những phương tiện chuyển tải và dự trữ giá trị, do những đơn vị được phép phát hành hợp pháp như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu…Những chứng từ này được luật pháp thừa nhận. Chúng được coi là tài sản của người sở hữu. Khi chưa đến hạn thanh toán, người sở hữu chúng có thể đem chúng đến bán tại ngân hàng liên doanh. Việc mua các chứng từ chưa đến hạn thanh toán của khách hàng là nghiệp vụ chiết khấu.
Chiết khấu công cụ chuyển nhượng được xem là một hình thức cấp tín dụng bởi vì nó đem lại cho người chuyển nhượng khoản tiền trước khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán. Ở đây ngân hàng ứng trước trị giá của giấy tờ có giá chưa đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu giấy tờ có giá đó. Vì vậy, ngân hàng sẽ được trả lại khoản ứng trước đây bằng cách truy đòi khi có giấy tờ có giá đến hạn. Đồng thời, trong nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá, có sự hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi cho ngân hàng nhận chiết khấu, có sự tín nhiệm giữa ngân hàng đối với người vay.
Công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá được ngân hàng liên doanh nhận chiết khấu, tái chiết khấu khi có đủ điều kiện là phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng; chưa đến hạn thanh toán; được phép giao dịch; và được thanh toán theo quy định của tổ chức phát hành. Đồng thời, Luật các TCTD cũng quy định giới hạn chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng liên doanh.
Ngân hàng liên doanh và khách hàng được lựa chọn các phương thức chiết khấu và tái chiết khấu sau đây:
Thứ 1, phương thức chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của công cụ chuyển nhượng. Tức là ngân hàng liên doanh thoả thuận “mua đứt” giấy tờ có giá của khách hàng và xác lập ngay quyền sở hữu của mình đối với những giấy tờ có giá đã chấp nhận mua và đã được khách hàng chuyển giao.
Thứ 2, phương thức chiết khấu, tái chiết khấu có thời hạn. Theo phương thức này, ngân hàng liên doanh và khách hàng thoả thuận mua bán giấy tờ có giá nhưng có cam kết điều khoản mua lại sau một thời hạn nhất định, kể từ ngày chuyển giao giấy tờ có giá cho ngân hàng liên doanh. Thời hạn này do các bên thoả thuận nhưng không quá thời hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá được mua bán.
Trong trường hợp khách hàng có công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá nhưng không muốn chiết khấu hoặc ngân hàng không nhận chiết khấu, khách hàng có thể xin vay có cầm cố bằng công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá. Cầm cố là hành vi giao nộp công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác của khách hàng cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ. Nghĩa vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là người đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ đúng theo hợp đồng. Hành vi cầm cố hết hiệu lực khi người đi vay đã hoàn trả đầy đủ các khoản nợ được đảm bảo cầm cố. Cho vay có cầm cố bằng thương phiếu và các giấy tờ có giá khác là một nghiệp vụ vay đơn giản. Khi cầm cố, khách hàng chuyển giao công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác cho ngân hàng quản lý để nhận tiền vay khi đến hạn nợ, khách hàng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại các công cụ chuyển nhượng đã thế chấp.
Như vậy; chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá là một hình thức cấp tín dụng được áp dụng phổ biến trong cơ chế thị trường vì nó đem lại lợi ích thiết thực cho các bên liên quan. Nó tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh lưu động hoá được trái quyền, giải quyết được nhu cầu vốn kịp thời.
Bảo lãnh ngân hàng
Để hiểu được chính xác và đầy đủ nội dung và ý nghĩa của hoạt động bảo lãnh ngân hàng, trước hết cần cắt nghĩa khái niệm bảo lãnh. Theo giải nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “ bảo lãnh” được hiểu là hành vi của một chủ thể tự nguyện cam kết bảo đảm bằng uy tín hoặc tài sản của mình cho hành động, tư cách hoặc nghĩa vụ của người khác. Theo Điều 361 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Hoạt động bảo lãnh được thực hiện một cách thường xuyên, chuyên nghiệp bởi một ngân hàng được gọi là hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Về mặt pháp lý, bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay (Khoản 1, Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/ QĐ-NHNN ngày 26/6/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Do vậy, bảo lãnh ngân hàng bao giờ cũng có ít nhất ba bên liên quan: người bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh trong đó ngân hàng liên doanh là chủ thể tham gia trực tiếp vào hai quan hệ pháp luật là quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng được bảo lãnh và quan hệ giữa ngân hàng với người nhận bảo lãnh. Hệ quả của nó là tạo lập hai hợp đồng, hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng liên doanh sẽ tiến hành ký kết cả hai hợp đồng theo thứ tự hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh được giao kết sau.
Sự ra đời của hoạt động bảo lãnh ngân hàng trong nền kinh tế là nguyên nhân đưa ra nhiều tranh luận, nhiều quan điểm khác nhau về bản chất kinh tế của bảo lãnh ngân hàng, về việc có nên coi bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ tín dụng?
Quan điểm thứ nhất cho rằng, bảo lãnh ngân hàng không thể coi là một nghiệp vụ tín dụng. Bởi lẽ, sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh với bên có quyền, ngân hàng với tư cách là người bảo lãnh chưa chắc chắn rằng sẽ phải ứng trước tiền để trả nợ ngay thay cho người được bảo lãnh. Hay theo quan điểm của tác giả Hà Cúc bảo lãnh ngân hàng chỉ có thể coi là tín dụng gián tiếp: “ Gọi tín dụng gián tiếp vì bảo lãnh là đưa ra những cam kết của ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo dõi ở ngoại bảng chứ thực tế không (hoặc chưa) phải sử dụng ngay vốn để cho vay như tín dụng trực tiếp”. [2 , tr 23]
Quan điểm thứ hai cho rằng, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ cấp tín dụng, bởi lẽ trong hợp đồng bảo lãnh được ký kết với bên có quyền, ngân hàng bên bảo lãnh có cam kết rằng họ sẽ ứng trước tiền để trả nợ thay cho người được bảo lãnh khi người này đã không tự thực hiện được nghĩa vụ của họ đối với bên có quyền vào ngày đáo hạn. Nghiệp vụ cấp tín dụng của bảo lãnh ngân hàng thể hiện rất rõ ở chỗ khi xem xét bảo lãnh, ngân hàng phải tiến hành một loạt các nghiệp vụ tín dụng thông qua việc thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, chấp nhận đề nghị… Khi phát hành bảo lãnh, ngân hàng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp người vay vốn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với người cho vay, tính toán và thực hiện các tỷ lệ dư nợ liên quan đến việc thực hiện các hệ số phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro nhằm bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ cấp tín dụng có điều kiện và trong thực tiễn thương mại quốc tế thì bảo lãnh quốc tế - thông qua các hình thức khác nhau - là một nghiệp vụ tín dụng quốc tế bằng chữ ký. Giáo sư luật học Jean Pierre Mattout (Pháp) cho rằng : “ Những cam kết bằng chữ ký có đặc điểm quan trọng là không đòi hỏi xuất quỹ tức khắc và bao gồm một phần nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đáng kể.” [3, tr 134]
Với chủ trương mở rộng khả năng cấp tín dụng của ngân hàng, đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ bảo lãnh; các loại bảo lãnh ngày càng được mở rộng bao gồm: Bảo lãnh vay vốn; Bảo lãnh thanh toán; Bảo lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm; Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trướ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (90).DOC