Từ khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới 1986 và xây dựng nền kinh tế thị trường, điều này đã có tác động to lớn trong việc kích thích sản xuất tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế, kích thích tiến bộ khoa học kỹ thuật, tác động nhiều mặt lên sự phát triển kinh tế xã hội. Ở nền kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ, khi đó con người sẽ năng động tích cực hơn, khôn ngoan và tỉnh táo hơn, mạnh dạn và linh hoạt, thiện chí mạo hiểm hơn
Nhưng khi “lợi ích cá nhân (đang có xu hướng tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân) lấn át lương tri và đạo đức, năng động, linh hoạt và mạo hiểm, bất chấp đạo lý và pháp luật” [23, 28] thì sẽ xuất hiện hàng loạt những hành vi phi đạo đức như xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, trộm cắp, cướp giật, buôn lậu để làm giàu một cách bất hợp pháp. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh các tham vọng ích kỷ khác nhau nhằm có được thu nhập, vật chất không tương xứng với công sức và năng lực của bản thân vào công việc của xã hội nên tìm mọi cách làm giàu bằng mọi cách, kể cả tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, và đôi khi họ còn xem đó là nghề nghiệp chính, nguồn thu nhập chính của mình. Họ không những đã tiếp tay cho tội phạm mà còn khuyến khích cho bọn tội phạm phạm tội nhiều lần.
72 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3357 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Thông qua các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội phạm, chúng ta xác định được tính chất của tình hình tội phạm.
2.2.2.1 Mức độ nguy hiểm của hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Mặc dù tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số vụ và người được phát hiện, xử lý hình sự hằng năm nhưng mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội lại có xu hướng tăng. Thể hiện:
Hành vi tiêu thụ không chỉ thực hiện ở một địa bàn nhất định mà được thực hiện nhiều huyện trong tỉnh, có móc nối chặt chẽ từ khi có nguồn hàng đến khi tập kết đến nơi tiêu thụ.
Trước đây, việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ phích nước, bàn là, quạt điện, xe đạp…có giá trị từ 500.000đ trở lên và thực hiện ở phạm vi thôn xóm. Nhưng hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và những mặt trái của nó đã kéo theo sự gia nhập của các loại tội phạm. Tính chất hoạt động của tội phạm cũng phức tạp hơn, sự liên kết giữa các đối tượng cũng chuyên nghiệp hơn trong việc hợp pháp hóa các tài sản do người khác phạm tội mà có để đưa đi tiêu thụ. Hoạt động này diễn ra trong thời gian dài mà không bị phát hiện và xử lý.
So với những năm trước, tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thường có tổ chức nhỏ, số lượng người tham gia ít, quy mô nhỏ, phạm vi hẹp, tài sản có giá trị thấp. Nhưng trong những năm gần đây, tội phạm này hoạt động có tổ chức chặt chẽ hơn, số lượng người tham gia đông hơn, có quy mô, tài sản có giá trị lớn hơn gây thiệt hại hàng chục triệu đồng cho các tổ chức, xí nghiệp, và của người dân.
Loại tội phạm này diễn ra phổ biến hơn không chỉ ở địa bàn thôn, xóm, huyện mà còn lan ra các huyện khác trong tỉnh và các tỉnh lân cận gây ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình trật tự trị an xã hội.
2.2.2.2. Thủ đoạn của bọn tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Thủ đoạn của bọn tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có rất đa dạng như: lợi dụng những sơ hở của người dân trong khi trao đổi mua bán, sự kiểm soát thiếu chặt chẽ của cơ quan quản lý trong việc đăng ký phương tiện giao thông cơ giới, móc nối với đối tượng khác ở các tỉnh lân cận để tiêu thụ .Và một điều quan trọng nữa, là tranh thủ đuợc tâm lý hám lợi của một số ít người dân chúng đã tiêu thụ được rất nhiều tài sản phạm pháp. Điển hình cho thủ đoạn tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là thủ đoạn tiêu thụ xe cơ giới có nguồn gốc bất hợp pháp. Thủ đoạn của bọn chúng như sau:
Qua điều tra các vụ án có thể thấy, thủ đoạn gian dối trong đăng ký để hợp thức hóa phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ( PTGTCGĐB) có nguồn gốc bất hợp pháp là các hành vi lắt léo, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót, những khó khăn, bất lợi trong kiểm tra, soát xét thực hiện quy trình, thủ tục đăng ký để làm sai lệch nội dung hồ sơ hoặc tình trạng thực của phương tiện đăng ký nhằm hợp thức các phương tiện giao thông cơ giới có nguồn gốc bất hợp pháp.
Thực tế cho thấy thủ đoạn gian dối trong đăng ký thường được thực hiện dưới một số dạng chủ yếu như: làm giả hồ sơ đăng ký cho phù hợp với tình trạng của phương tiện bất hợp pháp ( ví dụ: lấy cắp, mua bán ấn chỉ rồi điền số máy, số khung của xe gian vào, đóng dấu giả, chữ ký giả để đăng ký), thay đổi đặc điểm, hình dáng hoặc tình trạng kỹ thuật của phương tiện bất hợp pháp cho phù hợp với hồ sơ đăng ký (ví dụ như các đối tượng thường được sử dụng kết hợp với hồ sơ, giấy tờ thật hoặc giả qua mắt lực lượng kiểm tra hoặc đục sửa số máy, số khung nhằm trốn thuế cho xe bằng việc sửa cho phù hợp với mẫu đăng ký xe nội địa), vừa làm giả hồ sơ, sửa chữa, thay đổi nội dung hồ sơ vừa sửa chữa, thay đổi đặc điểm, hình dáng, đặc tính kỹ thuật phương tiện bất hợp pháp cho phù hợp với hồ sơ đăng ký(ví dụ: bọn tội phạm thường sử dụng đăng ký xe giả kết hợp với biển đăng ký xe giả hoặc biển đăng ký xe thật để tiến hành mua bán, sang tên hợp thức). Ngoài ra, bọn chúng lợi dụng sơ hở trong việc cấp lại biển đăng ký xe, giấy đăng ký xe (ví dụ như là báo mất, xin cấp lại đăng ký xe, sau đó tiếp tục báo mất biển đăng ký xe để được cấp lại. Dùng giấy tờ và biển đăng ký đó lắp vào xe lậu, xe gian đã đục lại số máy, số khung phù hợp giấy tờ xe rồi tiến hành tiêu thụ trong khi xe thật vẫn còn nguyên đăng ký cũ. Như vậy, cả xe đăng ký hợp pháp và xe bất hợp pháp đều có đăng ký thật).
Để ngăn chặn tình trạng trên cần phải có các biện pháp đấu tranh mạnh mẽ kịp thời phát hiện phòng chống các hành vi cướp xe máy, trộm cắp xe máy, kịp thời xử lý các hành vi gian dối trong việc hợp thức hóa các phương tiện giao thông bất hợp pháp để tiêu thụ trên thị trường.
2.3. Thực tiễn xét xử tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở tòa án nhân dân huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An
2.3.1. Thực tiễn xét xử tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có qua một số vụ án cụ thể
Thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu có nhiều cố gắng và thực hiện tốt công tác xét xử. Trong 4 năm 2005 đến năm 2008 đã giải quyết 420 vụ án hình sự các loại trên tổng số 448 vụ án đã thụ lý, đạt 93,75 %. Số vụ án còn lại chủ yếu do mới thụ lý còn trong thời hạn xét xử và đang được tiến hành giải quyết. Tỷ lệ hủy án do lỗi khách quan là 1 vụ chiếm 0,22 % , bị sửa nghiêm trọng và để quá thời hạn không có vụ nào. Trong số các vụ án xét xử có thể thấy vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có chiều hướng gia tăng. Năm 2008 có 12 vụ án, tăng 6 vụ so với năm 2007. Trong số các bị cáo bị xét xử trong 4 năm thì phạt tù có 27 bị cáo, phạt tù cho hưởng án treo chiếm 12 bị cáo , cải tạo không giam giữ 9 bị cáo, phạt tiền 5 bị cáo.
Bảng 4: Tỷ lệ xét xử tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong năm 2005-2008
Năm
Tổng số vụ án hình sự được thụ lý
Tổng số vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Tỷ lệ %
Vụ
Bị cáo
Vụ
Bị cáo
2005
96
106
06
10
6,2
2006
100
110
4
8
4,4
2007
120
150
8
16
6,6
2008
132
187
12
21
9,0
Tổng số
448
553
30
54
26,38
( Nguồn:Phòng tổng hợp – TAND huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An)
Đường lối xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không có oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh phí hoạt động nhưng Tòa án đã chủ động phối hợp với cơ quan công an, Viện kiểm sát, đài truyền hình xét xử lưu động 4 vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ở địa bàn phức tạp, nhằm tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân.
Tuy nhiên, con số trên vẫn chưa phản ánh hết thực trạng của tình hình tội phạm, nhất là đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thực tế, con số thống kê của Tòa án cần phải tính đến những sai số của nó, thường là do hai nguyên nhân chính sau: Viện kiểm sát, cơ quan điều tra vì những nguyên nhân nào đó không gửi báo cáo hoặc có gửi nhưng không gửi đúng thời hạn theo quy định nên khi TAND thực hiện việc thống kê còn gặp nhiều khó khăn và bỏ sót tội phạm. Chúng ta biết rằng tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bắt nguồn từ các tội phạm khác. Do đó, một khi chưa phát hiện ra các tội phạm khác thì khó có thể phát hiện, điều tra xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được.
Hơn nữa, việc điều tra tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn gặp nhiều vướng mắc trong việc xác minh nguồn gốc thực của các tài sản đó chính vì vậy số lượng các vụ phạm tội xảy ra, số lượng người phạm tội vẫn chưa bị phát hiện và xử lý hình sự và nó vẫn chưa được thống kê. Thực tế vẫn còn nhiều số lượng tội phạm “ẩn” so với con số thật thống kê được.
Ngoài ra, cần phải kể đến các vụ án và số lượng người phạm tội đã bị phát hiện nhưng không cần thiết áp dụng thủ tục xét xử của tòa án và số tội phạm đã phát hiện song chưa đủ điều kiện để đưa ra xét xử hoặc vì một lý do tiêu cực nào đó mà cho “chìm xuồng” luôn hoặc do chính nguyên nhân người phạm tội (tâm lý sợ trả thù, cho rằng hành vi phạm tội của mình quá tinh vi và không thể bị phát hiện…). Như vậy có thể thấy các con số trên chỉ phản ánh bề nổi của tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (tức tội phạm thực tế) còn lại là con số chưa được thống kê nói lên tình hình tội phạm ẩn của tội phạm này. Đây mới chính là “bức tranh” toàn cảnh về thực trạng tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Hằng năm, số lượng các vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà Viện kiểm sát, tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xét xử và thống kê số liệu còn rất ít so với các loại tội phạm khác cũng như thực tế tội phạm này xảy ra. Điều này cho chúng ta thấy được loại tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đang có chiều hướng gia tăng. Việc này gây ảnh hưởng không tốt tới tình hình trật tự an toàn công cộng, khuyến khích, tác động, cho các tội phạm khác phát triển.
Thực tế xét xử cho thấy, bọn tội phạm thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản có nguồn gốc thường là không rõ ràng từ những vật dụng sinh hoạt thường ngày cho tới những chiếc xe máy…Hầu hết các vụ án xét xử ở tòa án đều xác minh những tài sản này có liên quan tới các vụ án trộm cắp, cướp giật…Số lượng người tham gia vào việc tiêu thụ cũng rất đa dạng. Ngoài ra, ở những vụ án về tiêu thụ xe máy các đối tượng phạm tội thường có sự hứa hẹn trước người cung cấp các công cụ để hợp thức hóa các phương tiện này, số các vụ án còn lại thường ở dạng không hứa hẹn trước. Cụ thể:
Tại bản án số 110/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2008 tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xét xử Nguyễn Văn Đắc (trú tại xóm 4 xã Diễn Quảng huyện Diễn Châu) về tội trộm cắp tài sản, Lê Hữu Sản (trú tại xã Diễn Thái huyện Diễn Châu) và Vũ Văn Kiên (trú tại xã Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Theo bản cáo trạng thì Sản là một đối tượng không ngề nghiệp nhưng liên tục thay đổi nhiều loại xe máy. Qua điều tra xác minh của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Diễn Châu, được biết xe Hon đa Wave RS y đang điều khiển là tang vật của một vụ án trộm cắp xảy ra tại thôn Yên Trung, xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu. Sản khai nhận đã mua chiếc xe máy trên của Kiên với giá 4,2 triệu đồng trong tình trạng không có giấy tờ xe. Sản cho biết y đã mua 4 chiếc xe máy của Kiên với giá từ 2- 2,7 triệu đồng, sau đó, tẩy xóa số khung để đi bán kiếm lời. Kiên khai nhận mua số tài sản trên của Đắc .Đắc khai nhận y có số xe trên là do trộm cắp được. Chiếc xe máy trộm được ở xã Diễn Thái vào tháng 12 năm 2007 y bán cho Kiên với giá 4,2 triệu đồng. Vào tháng 3 năm 2008 y lại trộm được chiếc Hon đa Future màu đỏ tại khu vực cầu Bến Thủy, thành phố Vinh và bán cho Kiên với giá 3,5 triệu đồng. Tháng 5 năm 2008, Đắc lại trộm cắp tiếp 1 chiếc xe máy Hon đa Wave RS bán cho Kiên với giá 2,7 triệu đồng. Những vụ trộm cắp trên đều xảy ra vào lúc sơ hở mọi người xuống ruộng làm đồng.
Và mới đây, tòa án huyện Diễn Châu đã xét xử vụ án đối với bị cáo Nguyễn Văn Hiếu và đồng bọn về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản các hiệu cầm đồ. Hầu hết các xe mà bọn chúng đưa đi cầm đều là xe đắt tiền là tài sản do trộm cắp, cướp được. Từ những tài sản có được, các đối tượng chấp nhận bỏ ra khoản phí để mua giấy tờ đăng kí xe, CMND giả. Tiếp đó chúng đưa những chiếc xe có giấy tờ “hợp lệ”đúng hình họ tên rồi càm với giá 17- 25 triệu đồng. Vào ngày 20/12/2008 chúng đang thực hiện hành vi trên thì bị công an huyện Diễn Châu bắt quả tang.
Như vậy, thông qua hoạt động xét xử của tòa án chúng ta có thể thấy được thực chất hành vi tiêu thụ tài sản ngày càng trở nên phức tạp, thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi hơn gây khó khăn nhiều hơn trong việc xác minh chứng cứ phạm tội và giải quyết đúng đắn vụ án nhằm thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
2.3.1.1. Đặc điểm nhân thân của tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Tính chất nghiêm trọng của tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thể hiện ở các đặc điểm về nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội, chúng có ảnh hưởng nhất định tới quá trình thực hiện tội phạm. Xác định được nhân thân người phạm tội giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng rõ một số chi tiết liên quan đến vụ án từ đó giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ.
Bảng 3: Nhân thân người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ năm 2005 đến năm 2008
Năm
Công nhân viên chức
Tái phạm
Tiền án, tiền sự
Nữ
Từ 18-30 tuổi
Người chưa thành niên
2005
2
1
1
6
9
0
2006
0
2
0
2
6
1
2007
1
1
2
3
8
2
2008
2
3
3
5
12
4
(Nguồn: phòng tổng hợp –TAND huyện Diễn Châu năm 2005-2008)
Qua bảng thống kê trên chúng ta có thể thấy rằng, đối tượng phạm tội về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bao gồm nhiều tầng lớp và thành phần tham gia khác nhau đủ mọi lứa tuổi. Trong 54 bị cáo phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xét xử sơ thẩm hình sự trong 5 năm (từ năm 2005- 2008) cho kết quả sau:
Về giới tính
Trong thực tiễn xét xử các vụ án về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì nữ giới chiếm tỷ lệ khoảng 18,5 %. Họ thường tập trung tiêu thụ ở các cửa hàng bán đồ phụ tùng ô tô xe máy, các cửa hàng bán thịt chó, các cửa hàng bán đồ gia dụng…lớn hơn là các cửa hàng bán điện thoại di động và máy tính xách tay…Các đối tượng này khi mua đồ không có nguồn gốc thì không khai báo cho cơ quan chức năng để xử lý mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi mua bán vì những đồ dùng này rất rẻ và khi bán lại trên thị trường với giá cao. Ví dụ như trường hợp mua máy tính xách tay, người chủ cửa hàng sau khi đã thỏa thuận giá cả xong, bảo đối tượng mở mật mã, nhưng người đó không biết. Trong trường hợp này, chỉ cửa hàng biết đó là đồ gian nhưng vì ham lợi nhuận nên biết đó là đồ gian mà vẫn chấp nhận mua.
Nữ giới tham gia các hành vi này chủ yếu ở tuổi từ 18 đến 55, chiếm vị trí cao nhất. Đối tượng vừa thực hiện hành vi trộm cắp vừa thực hiện hành vi tiêu thụ thường xuyên thấy ở những người thất học, không có nghề nghiệp và gia cảnh khó khăn.
Người chưa thành niên tham gia vào việc tiêu thụ tài sản phạm pháp cũng có xu hướng tăng lên chiếm khoảng 12,9 % , thể hiện ở việc cấu kết tiêu thụ tài sản với người lớn. Các đối tượng này thường là những đứa trẻ lang thang được lớn lên trong gia đình làm ăn bất chính, buôn bán gian lận, nghiện hút, trộm cắp…
b) Tuổi
Thanh niên từ 18 đến trên 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao khoảng 64,8 % và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2006 trở lại đây. Đa số những người này là thất nghiệp và làm việc bán thời gian, làm việc ở các trạm sửa xe, bảo hành…
Các đối tượng là công nhân, viên chức làm việc cho các nhà máy sản xuất phụ tùng xe các loại, họ thường trộm cắp các loại tài sản này rồi tìm nơi tiêu thụ lấy tiền tiêu xài. Hiện tượng này diễn ra khá phổ biến ở các khu công nghiệp.
Tiền án, tiền sự
Tỷ lệ các đối tượng có tiền án, tiền sự chiếm khoảng 14,8 %. Các đối tượng thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thường có tiền án về tội trộm cắp, cướp giật, các tội về chiếm đoạt tài sản như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,…hoặc các đối tượng này đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tái phạm
Tỉ lệ tái phạm chiếm khoảng 12,9 % và tăng cao nhất trong năm 2008. Thực tế xét xử cho thấy, phần lớn người thành niên phạm tội nhiều lần và tái phạm rất lớn vì cải tạo xong ra trường lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội vì chúng không được sự quan tâm của gia đình và xã hội.
Như vậy, đặc điểm nhân thân người phạm tội về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự thay đổi đáng chú ý ở một số điểm như: số người thành niên tham gia lớn, nữ giới và người chưa thành niên cũng có xu hướng tăng. Phần lớn các đối tượng này phạm tội vì động cơ vụ lợi, động cơ thỏa mãn nhu cầu nghiện hút, còn lại là có động cơ và mục đích khác.
2.3.1.2. Hậu quả của tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra đối với xã hội.
Nghiên cứu các dấu hiệu hậu quả của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta nhận thức đầy đủ về tình hình tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Như chúng ta đã phân tích ở các mục trên, hậu quả của loại tội phạm này gây ra thể hiện trước hết ở số lượng gia tăng các vụ án trộm cắp, cướp giật và kéo theo đó là số lượng người phạm tội trong xã hội tăng lên dần theo cấp số nhân đặc biệt là giới trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước. Điều này gây mất ổn định trật tự trị an trong thôn xóm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân cũng như sự phát triển bền vững của xã hội. Đồng thời, nó còn là nhân tố thuận lợi cho các tệ nạn xã hội khác cũng như tội phạm phát triển.. Nhiều thanh thiếu niên vì thoả mãn những nhu cầu thường ngày mà thực hiện hành vi trộm cắp đưa tài sản đi bán lấy tiền chơi game, cờ bạc…nó làm cho nhân cách của các em bị tụt dốc, làm suy thoái đạo đức, ảnh hưởng tới sự phát triển tương lai các em sau này.
Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn gây thiệt hại trực tiếp đến trật tự quản lý nhà nước đối với tài sản do người khác phạm tội mà có, ảnh hưởng tới việc điều tra, phát hiện tội phạm, tạo điều kiện khuyến khích những người khác đi vào con đường phạm tội, có trường hợp làm cho việc điều tra phát hiện bị bế tắc phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra vì không thu hồi được tài sản do người khác phạm tội mà có.
Thiệt hại gây ra ở đây chính là số lượng tiền, tài sản của người dân bị mất cắp cũng như tài sản của nhà nứơc bị xâm phạm làm cho người dân mất lòng tin vào sự quản lý đúng đắn của nhà nước đối với xã hội. Ngoài ra, còn phải kể đến toàn bộ chi phí của nhà nước và xã hội cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự an toàn xã hội nói chung cũng như tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng. Do đó, thiệt hại này không thể thống kê đựơc. Không những thế, loại tội phạm này đã ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương vì số tiền chi phí trên đáng lẽ phải được sử dụng cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở địa phương cũng như thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, giúp người dân vay vốn để tăng gia sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống giúp người dân tránh xa với các tệ nạn xã hội thì nay lại chi phí cho hoạt động ngăn chặn tội phạm này.
2.4. Những vướng mắc trong thực tế xét xử tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Bộ luật hình sự là công cụ sắc bén của nhà nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, kết quả tổng kết 8 năm qua thi hành BLHS trong các ngành công an, kiểm sát, quốc phòng cũng như kết quả khảo sát tình hình thi hành BLHS tại một số địa phương cho thấy, BLHS năm 1999 đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần được phải được khắc phục. Tiêu biểu trong số các tội phạm được nêu ra trong BLHS năm 1999 có tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (điều 250).
2.4.1. Về cách hiểu và vân dụng điều luật
Điều luật này do chưa có hướng dẫn cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nên thực tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã có những cách hiểu và vận dụng khác nhau. Chúng ta có thể thấy điều này qua một số ví dụ sau đây:
Ví dụ1 A chưa đủ tuổi chịu TNHS, trộm cắp chiếc xe mô tô trị giá 6 triệu đồng, bán cho B, B biết rõ là xe do A trộm cắp nhưng vẫn mua với giá là 3 triệu đồng.
Ví dụ 2 C đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích, sau đó C lại trộm cắp chiếc đồng hồ đeo tay trị giá 800.000 đồng bán cho D với giá 300.000 đồng
Ở ví dụ 1 có hai cách hiểu như sau:
Cách hiểu thứ nhất: do A chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên A không phạm tội. Vì vậy hành vi tiêu thụ tài sản của B không cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Cách hiểu thứ hai: tuy về điều kiện chủ thể của tội phạm chưa thoả mãn, nhưng đã thoả mãn các dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản. Do đó, tuy A không phạm tội trộm cắp tài sản, B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Ở ví dụ 2 cũng có hai cách hiểu như sau:
Cách hiểu thứ nhất: mặc dù giá tri tài sản dưới 500 nghìn đồng nhưng C đã bị kết án, chưa được xoá án tích về tội chiếm đoạt nên C sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Cách hiểu thứ hai : vì giá trị tài sản mà C chiếm đoạt dưới 500 nghìn đồng, nên chưa thoả mãn cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, D không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do nguời khác phạm tội mà có.
Vướng mắc nữa là điều 250 BLHS không có quy định giá trị tài sản tiêu thụ là bao nhiêu nên chưa đồng bộ với các tội danh khác mà người có tài sản đó thực hiện. Chính vì không quy định cụ thể giá trị tài sản tiêu thụ là bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm hình sự (như một số tội có tính chất chiếm đoạt khác như tội chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp, tội lừa đảo, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…). Do vậy, còn có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị tài sản tiêu thụ để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Trần Văn A mua một xe đạp Trung Quốc trị giá 400.000 đồng của Hoàng Văn Q do phạm tội "cướp" mà có, nhưng Q nói với A là do trộm cắp được nên bán với giá rẻ là 200.000 đồng.Và A đã mua.
Ý kiến thứ nhất cho rằng : hành vi của A đã đủ yếu tố cấu thành tội "tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ", vì chiếc xe đạp mà A mua của Q là do phạm tội mà có.
Ý kiến thứ hai cho rằng: “trường hợp này chưa đủ yếu tố cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bởi lẽ như sau: A biết là tài sản phạm pháp nhưng tham rẻ nên đã mua, nhưng lại tưởng đó là xe đạp do Q "trộm cắp " được chứ không hề biết do Q phạm tội "cướp " mà có. Giả sử, nếu Q trộm cắp chiếc xe đạp đó, thì bản thân Q cũng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà chỉ xử lý hành chính”[27,20]. Do vậy, cũng chỉ áp dụng xử lý hành chính đối với A, chứ chưa thể truy cứu trách nhiệm hình sự được.
Trong trường hợp đối với tội danh này, việc quy định giá trị tài sản tiêu thụ mức tối thiểu để định tội hay xác định "tài sản, vật phạm pháp có giá tri lớn" hay "rất lớn" để định khung là rất khó khăn và sẽ có nhiều bất cập, vì các tội danh khác nhau có quy định về giá trị tài sản, vật phạm pháp rất khác nhau.
Ví dụ: + Tội cướp tài sản khoản 1 điều 133 BLHS thì không quy định giá trị tài sản nhằm chiếm đoạt;
+ Tội trộm cắp tài sản khoản 1 điều 138 BLHS quy định tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội;
+ Tội buôn lậu khoản 1 điều 153 BLHS quy định vật phạm pháp phải có giá từ 100 triệu đồng trở lên mới xử lý hình sự. Do vậy, không thể quy định một cách cứng nhắc, định lượng về giá trị tài sản tiêu thụ để định tội hay định khung đối với hành vi "tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" mà phải căn cứ theo quy định về giá trị tài sản, vật phạm pháp của tội danh mà chủ thể đã phạm tội này để có được tài sản, vật phạm pháp đem đi tiêu thụ.
Ví dụ : đối với tài sản do phạm tội cướp tài sản mà có, thì chủ thể tiêu thụ tài sản này bị xử lý hình sự khi giá trị tài sản này là rất nhỏ, nhưng tiêu thụ tài sản do "trộm cắp tài sản" mà có thì phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên,và tiêu thụ tài sản do "buôn lậu" mà có thì phải có giá trị trên 100 triệu đồng mới bị xử lý hình sự.
Điều chúng ta cần lưu ý ở đây là phải làm rõ nhận thức chủ quan của người phạm tội, biết tài sản đó do người khác phạm tội gì mà có để xử lý cho thoả đáng chứ không phải căn cứ vào giá trị tài sản tiêu thụ.
Quay lại trường hợp của Trần Văn A ở trên, theo ý kiến của cá nhân, A chỉ bị xử lý hành chính là đúng với nhận thức chủ quan của A.
Trong BLHS hiện hành, một số quy định không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện nay cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện mới, nhất là các quy định về mức định lượng tối thiểu về giá trị tài sản để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
2.4.2. Về mặt pháp luật
BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập. Do vậy, nó chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là các tội phạm mang tính quốc tế như: khủng bố, buôn bán người hay tội phạm rửa tiền là một tội phạm được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm.
BLHS năm 1999 có hai điều luật quy định về hai tội phạm liên quan trực tiếp đến “rửa tiền”. Đó là điều 250 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHOA LUAN LAN ANH.doc