Khóa luận Thực trạng pháp luật Việt Nam về cổ phần trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty cổ phần

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU 1

1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2

3. Mục đích nghiên cứu 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 3

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3

7. Kết cấu của đề tài 3

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CTCP VÀ CP 5

1.1. Khái quát về CTCP 5

1.1.1. Khái niệm CTCP 5

1.1.2. Đặc trưng pháp lý của CTCP. 7

1.2. Cổ phần 11

1.2.1. Khái niệm cổ phần. 11

1.2.2. Vai trò của cổ phần 17

1.2.2.1. Vai trò của CP trong CTCP 17

1.2.2.2. Vai trò của CP trong nền kinh tế thị trường 18

CHƯƠNG 2 20

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CP TRONG QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CTCP 20

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về CP. 20

2.1.1. Các loại CP theo Luật doanh nghiệp 2005 20

2.1.1.1. CP phổ thông 21

2.1.1.2.CP ưu đãi 23

2.1.2. Chủ thể có quyền mua CP trong CTCP 25

2.1.3. Những hoạt động cơ bản của CTCP liên quan đến CP 28

2.1.3.1. Chào bán CP 28

2.1.3.2.Chuyển nhượng CP 34

2.1.3.3.CTCP mua lại CP của cổ đông 36

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về CP 38

CHƯƠNG 3 45

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ CP VÀ CTCP 45

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về CP trong CTCP 45

3.2. Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về CP 53

KẾT LUẬN 54

 

 

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4668 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng pháp luật Việt Nam về cổ phần trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và những người không phải cổ đông (trừ các trường hợp ngoại lệ); khi công ty giải thể hoặc phá sản được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng số CP góp vào công ty. Bên cạnh những quyền lợi thì các cổ đông này cũng phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định như thanh toán đủ số CP cam kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được rút vốn đã góp bằng CP phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức trừ khi được công ty hoặc người khác mua lại CP. - CP phổ thông của cổ đông sáng lập: Cổ đông sáng lập là các cổ đông đã tham gia xây dựng, thông qua và ký tên vào bản điều lệ đầu tiên của CTCP. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số CP phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số CP đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty phải thông báo về việc góp vốn CP đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Tính tự do chuyển nhượng CP của cổ đông sáng lập bị hạn chế. Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng CP phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng CP phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập, nếu được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ. Trong trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng CP không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các CP đó và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Sau thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các hạn chế đối với CP phổ thông của cổ đông sáng lập sẽ được bãi bỏ. LDN 2005 đã tiến một bước mới trong việc giải quyết được tình huống phần vốn góp mà người đăng ký mua xong chưa trả hết sẽ được xử lý như thế nào. Luật đã đưa ra thời hạn cụ thể thanh toán số CP đã đăng ký và ba cách xử lý trong trường hợp cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số CP đã đăng ký mua như sau: Các cổ đông sáng lập còn lại góp đủ số CP đó theo tỷ lệ sở hữu CP của họ trong công ty; Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số CP đó; Hay huy động người khác không phải cổ đông sáng lập nhận góp đủ số CP đó, người nhận góp đó đương nhiên trở thành cổ đông của công ty. CP ưu đãi Là loại CP được ưu tiên hơn cổ đông nắm giữ CP phổ thông ở một khía cạnh nào đó. Tuy nhiên các cổ đông nắm giữ những CP ưu đãi này cũng chịu những hạn chế nhất định. Công ty có thể có CP ưu đãi hoặc không, việc có CP ưu đãi hay không là vấn đề không bắt buộc. Người sở hữu CP ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. CP ưu đãi gồm các loại sau: - CP ưu đãi biểu quyết: Là CP có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với CP phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một CP ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ CP ưu đãi biểu quyết. CP này có vai trò đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh quá trình CP hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhà nước có ý định duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua việc nắm giữ CP chi phối và CP đặc biệt. Những doanh nghiệp nhà nước quan trọng, được nhà nước cấp đủ vốn không cần phải huy động nhiều vốn từ dân chúng, thì thông thường khi chuyển đổi thành CTCP, tổ chức được chính phủ ủy quyền sẽ nắm giữ CP ưu đãi biểu quyết trong công ty đó. Tuy nhiên pháp luật chưa có hướng dẫn một cách cụ thể về tổ chức được Chính phủ ủy quyền, nên nếu CTCP phát hành loại CP này thì thông thường chỉ do cổ đông sáng lập nắm giữ. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó CP ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển thành CP phổ thông. Quy định này cũng tạo cơ sở pháp lý cho các cổ đông sáng lập thực hiện các quyền của mình trong hoạt động của CTCP trong một thời gian khá dài. Cổ đông sở hữu CP ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng CP đó cho người khác. Vì giá trị pháp lý của loại CP này mà người sở hữu nó không được quyền chuyển nhượng cho người khác. Quyền chuyển nhượng ở đây không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là việc mua bán mà cần phải hiểu bao gồm cả bán, tặng cho, thừa kế……. Ngoài hạn chế như đã nêu thì cổ đông sở hữu CP ưu đãi biểu quyết có những quyền khác như cổ đông phổ thông. - CP ưu đãi cổ tức: Là CP được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của CP phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của CP ưu đãi cổ tức. Cổ đông sở hữu CP ưu đãi cổ tức có một hạn chế là không được quyền biểu quyết dự họp ĐHĐCĐ, đề cử người vào HĐQT và ban kiểm soát. Ngoài ra, các quyền khác tương tự quyền của cổ đông phổ thông. CP ưu đãi cổ tức là một loại CP rất phù hợp với những nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận. - CP ưu đãi hoàn lại: Là CP sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của CP ưu đãi hoàn lại. Cổ đông sở hữu CP ưu đãi hoàn lại có các quyền hạn như cổ đông phổ thông. Tuy nhiên có một hạn chế là các cổ đông này không có quyền biểu quyết, dự họp ĐHĐCĐ, đề cử người vào HĐQT và ban kiểm soát. Các chủ thể được mua CP ưu đãi cổ tức và CP ưu đãi hoàn lại do điều lệ công ty quy định cụ thể hoặc ĐHĐCĐ quyết định. Có thể thấy, điểm khác biệt cơ bản giữa cổ đông phổ thông với cổ đông sở hữu CP ưu đãi cổ tức và CP ưu đãi hoàn lại là họ có quyền biểu quyết thông qua các quyết định của công ty. Thông thường, những chủ thể mua các loại CP ưu đãi cổ tức và CP ưu đãi hoàn lại là những nhà đầu tư quan tâm nhiều đến lợi nhuận, ít hoặc không có kinh nghiệm quản lý điều hành doanh nghiệp . - CP ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định: Đây là một quy định có tính dự trù của LDN 2005, làm mở rộng khả năng thỏa thuận hình thành các loại CP khác. Tuy nhiên, trên thực tế các CTCP chỉ phát hành các loại CP như trên đã nêu chứ không đưa ra một loại CP ưu đãi mới. Bởi khi chưa có sự hướng dẫn quy định cụ thể của pháp luật, mà phát hành thêm loại CP mới sẽ có thể gây ra những rắc rối không đáng có trong hoạt động kinh doanh. Pháp luật các nước như Thái Lan, Philippin, Malaysia quy định CP ưu đãi trong CTCP có nhiều loại khác nhau được quy định trong điều lệ công ty hoặc thỏa thuận thành lập. CP ưu đãi ở các nước này bao gồm: Ưu đãi cơ bản, ưu đãi bỏ phiếu, ưu đãi không bỏ phiếu, ưu đãi dồn lãi, ưu đãi không dồn lãi, ưu đãi phức hợp, ưu đãi có thể chuyển đổi… Với cách phân chia các loại CP như trên, CTCP đã có một công cụ khai thác nguồn tài chính rất đa dạng, thích ứng được với nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức trên thực tế. 2.1.2. Chủ thể có quyền mua CP trong CTCP Không phải bất kỳ ai cũng có thể mua CP trong CTCP. Chỉ có những chủ thể đáp ứng được những quy định của pháp luật mới được phép mua. Theo Điều 13 LDN 2005, mọi tổ chức cá nhân đều có quyền mua CP trừ các trường hợp sau: - Thứ nhất: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan đơn vị mình. Điều 11 Nghị định 139/2007/NĐ - CP ngày 05 tháng 9 năm 2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp có giải thích như sau: Tài sản nhà nước bao gồm: Tài sản được mua sắm bằng vốn ngân sách nhà nước và vốn có nguồn gốc ngân sách nhà nước; kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước; đất được giao sử dụng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật; tài sản và thu nhập khác được tạo ra từ việc sử dụng các tài sản và kinh phí nói trên. Có thể nhận thấy rằng quy định này ngắn gọn nhưng đầy đủ, bao quát được hết các nguồn tài sản nhà nước. Cụm từ thu lợi riêng cho cơ quan đợn vị mình trước đây đã được ghi nhận trong nghị định số 03/2000/NĐ - CP ngày 03 tháng 2 năm 2000. Nghị định 139/NĐ - CP đã kế thừa quy định đó và giải thích khái niệm này như sau: Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn mua CP vào ít nhất một trong các mục đích sau đây: Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả các cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; Lập hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị. Thứ hai: Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.  Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Theo điều 19 Pháp lệnh cán bộ công chức 1998 được sửa đổi bổ sung năm 2000 và 2003, thì không phải tất cả cán bộ công chức đều bị cấm góp vốn vào CTCP. Chỉ người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước. Tuy nhiên, kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2010 Pháp lệnh cán bộ công chức đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Luật cán bộ công chức năm 2008. Do mới ban hành nên luật còn rất sơ khai. Mặc dù LDN 2005 dẫn chiếu sang Luật cán bộ công chức về các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp, nhưng hiện tại trong Luật cán bộ công chức năm 2010 chưa đề cập đến vấn đề này. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục các nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật cán bộ công chức, để đảm bảo cho việc triển khai thực hiện. Sẽ có 10 Nghị định được ban hành để hướng dẫn thi hành Luật. Thủ tuớng cũng chỉ đạo các cơ quan chủ trì soạn thảo phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cần được tập trung chỉ đạo và dự kiến sẽ hoàn thành trong quý I năm 2010. Các đối tượng không được góp vốn thành lập doanh nghiệp cần thiết phải được ghi nhận trong các Nghị định hướng dẫn. Bởi nếu không quy định vấn đề này sẽ tạo nên “độ vênh” giữa LDN 2005 và Luật cán bộ công chức về vấn đề các chủ thể không được góp vốn vào CTCP. Quy định của LDN 2005 về chủ thể có quyền mua CP của CTCP đã có những thay đổi đáng kể so với các văn bản trước đó. LDN 2005 và nghị định hướng dẫn thi hành ghi nhận: Tất cả các tổ chức là pháp nhân gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không phân biệt nơi đăng ký trụ sở chính và mọi cá nhân không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 4 điều 13 đều có quyền mua CP. Quy định này tạo nên sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết. Đặc biệt là phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc. 2.1.3. Những hoạt động cơ bản của CTCP liên quan đến CP 2.1.3.1. Chào bán CP Luật doanh nghiệp 2005 chia chào bán CP thành hai hình thức gồm: Chào bán CP riêng lẻ và chào bán CP ra công chúng. ● Chào bán CP riêng lẻ Theo điều 4 Nghị định của Chính phủ số 01/2010/NĐ - CP ngày 04/1/2010 về chào bán CP riêng lẻ, thì khái niệm chào bán CP riêng lẻ được định nghĩa như sau: 1. Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán CP hoặc quyền mua CP trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau: a) Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; b) Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Hoạt động chào bán CP riêng lẻ khi thành lập CTCP Khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập tiến hành góp vốn mua CP. Các cổ đông có thể cùng nhau mua toàn bộ CP hoặc chào bán CP ra bên ngoài để đảm bảo góp đủ số vốn cần thiết. Những quy định về hoạt động góp vốn, mua CP, chào bán, thanh toán CP…v. v.. của cổ đông sáng lập khi thành lập công ty đã được LDN 2005 quy định cụ thể. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số CP phổ thông được quyền chào bán và thanh toán đủ số CP đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nếu có cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số CP đã đăng ký, luật có quy định rõ hướng giải quyết. Tuy nhiên, nếu sau 3 năm số CP ấy chưa được đăng ký mua hết thì sẽ được xử lý như thế nào? Điều này LDN 2005 chưa dự liệu được phương án giải quyết. Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì cơ quan có quyền quyết định việc chào bán CP là HĐQT. HĐQT quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán CP trong số CP được quyền chào bán. Giá chào bán CP không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của CP tại thời điểm gần nhất. Tuy nhiên, LDN 2005 cũng đưa ra các trường hợp ngoại lệ sau: Trường hợp 1: CP chào bán lần đầu tiên cho những người không phải cổ đông sáng lập. Quy định này giúp công ty huy động được lượng vốn từ các nhà đầu tư vào quá trình kinh doanh. Do tại thời điểm này chưa xác định được giá của cổ phiếu trên thị trường nên công ty có thể chào bán với giá thấp hơn hoặc bằng mệnh giá cố phiếu. Trường hợp 2: CP chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ CP hiện có của họ tại công ty. Quy định của luật cho phép cổ đông công ty được mua CP với giá thấp hơn giá thị trường, nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông hiện hữu. Trường hợp 3: CP chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể do có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông, nên phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số CP có quyền biểu quyết thì hoạt động chào bán CP đó mới được coi là hợp pháp. Trường hợp 4: Các trường hợp khác do điều lệ công ty quy định. Mức chiết khấu trong các trường hợp này được quy định trong điều lệ công ty. Hoạt động chào bán CP khi công ty CP tăng vốn Trong quá trình kinh doanh nếu công ty có nhu cầu mở rộng sản xuất, mở rộng đầu tư thì có thể chào bán CP để tăng vốn. Nếu công ty phát hành thêm CP phổ thông và chào bán số CP đó cho tất cả cổ đông phổ thông theo tỷ lệ CP hiện có của họ tại công ty, thì công ty đó phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông, theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của họ. Thông báo phải được đăng báo trong 3 số liên tiếp, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày thông báo. Các cổ đông nếu không mua thì có quyền chuyển quyền ưu tiên mua CP cho người khác. CP được coi là đã bán khi được thanh toán đủ và những thông tin về người mua được ghi đúng ghi đủ trong sổ đăng ký cổ đông. Kể từ thời điểm đó người mua CP trở thành cổ đông của công ty, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một cổ đông. Sau khi CP được bán, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người mua tuy nhiên không bắt buộc. Công ty có thể bán CP mà không trao cổ phiếu. Các thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng ký cổ đông là bằng chứng đủ để chứng thực quyền sở hữu CP của cổ đông đó trong công ty. Việc chào bán CP riêng lẻ hiện nay được quy định tại Nghị định của Chính phủ số 01/2010/NĐ - CP ngày 04/1/2010 về chào bán CP riêng lẻ. Các điều kiện để tiến hành chào bán CP riêng lẻ của CTCP gồm: Thứ nhất: Chủ thể là CTCP hoặc các doanh nghiệp chuyển đổi thành CTCP, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành CTCP. Doanh nghiệp nhà nước thực hiện chuyển đổi thành CTCP sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai: Có quyết định thông qua phương án chào bán CP riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của ĐHĐCĐ hoặc HĐQT theo điều lệ công ty hoặc ủy quyền của ĐHĐCĐ cho HĐQT. Phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng CP tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán. Quy định hạn chế chuyển nhượng này trái với Luật doanh nghiệp ở chỗ: Luật doanh nghiệp chỉ hạn chế chuyển nhượng CP với các cổ đông sáng lập, chứ không hạn chế cổ đông phổ thông chuyển nhượng CP trong CTCP. Với quy định này, pháp luật đã can thiệp quá sâu vào hoạt động chào bán của doanh nghiệp. Không có cơ sở nào để hạn chế thời gian chuyển nhượng cổ phiếu phát hành riêng lẻ là một năm. Hạn chế như vậy chắc chắn sẽ làm thu hẹp tính khả thi của phương án chào bán CP, dù là cổ đông hiện hữu hay cổ đông mới, làm mất đi sức hấp dẫn để thu hút cổ đông. CP được chào bán là để huy động thêm vốn phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc có thay đổi cổ đông sau đó do chuyển nhượng không ảnh hưởng gì đến nguồn vốn và hoạt động của công ty. Nhà đầu tư có chuyển nhượng hay không thì tiền từ đợt chào bán CP cũng là tiền của CTCP, nên ai nắm giữ CP rõ ràng không ảnh hưởng đến số tiền đó. Thứ ba: Có hồ sơ đăng ký chào bán CP riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 01/2010/NĐ - CP về chào bán CP riêng lẻ, gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày, trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác Thứ tư: Trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan. Thứ năm: Các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 6 tháng. Quy định này chưa thực sự phù hợp với thực tế. Thời hạn 6 tháng giữa hai đợt chào bán riêng lẻ sẽ hạn chế doanh nghiệp huy động vốn thực hiện các ý tưởng kinh doanh mới. Trong thời gian chờ đợi này, CTCP có thể phải vay vốn ngân hàng để thực hiện kế hoạch kinh doanh, thay vì phát hành cổ phiếu để tăng vốn chủ sở hữu. Thứ sáu: Đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây, việc chào bán CP riêng lẻ của doanh nghiệp không chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước nào. Từ ngày nghị định số 01/2010 về chào bán CP riêng lẻ có hiệu lực, hoạt động này được đưa vào diện quản lý với sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trong trường hợp tổ chức chào bán là tổ chức tín dụng), Bộ Tài Chính (trong trường hợp tổ chức chào bán là doanh nghiệp bảo hiểm CP), UBCKNN (trong trường hợp tổ chức chào bán là CTCP chứng khoán, CTCP quản lý quỹ, công ty đại chúng, (trừ các công ty đại chúng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm)), Sở kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế (trong trường hợp tổ chức chào bán là các CTCP còn lại). Trước và trong khi thực hiện việc chào bán CP riêng lẻ, tổ chức chào bán không được quảng cáo việc chào bán trên các phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp công bố thông tin theo pháp luật về chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc công bố thông tin không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo và mời chào về việc chào bán CP riêng lẻ. Nghị định cũng quy định mức chế tài xử phạt cho các hành vi vi phạm quy định về chào bán CP riêng lẻ. Có thể kể đến như: Vi phạm quy định về hồ sơ, điều kiện và tổ chức việc chào bán phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng và bị áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung; Vi phạm quy định về báo cáo và công bố thông tin sẽ phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng và bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả…. Như vậy, nhìn chung nghị định 01/2010 ra đời tạo cở sở pháp lý cho hoạt động chào bán CP riêng lẻ. Tuy nhiên, còn một vài quy định của nghị định với những điều kiện chặt chẽ về chào bán riêng lẻ đã ảnh hưởng phần nào đến hoạt động phát hành riêng lẻ của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong thời điểm doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn khá lớn để tìm nguồn vốn thay thế nguồn vốn vay ngân hàng với lãi suất cao. ● Chào bán CP ra công chúng: Theo quy định tại khoản 12 Điều 6 LCK 2006: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả internet; Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp; Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định. Điều kiện, phương thức và thủ tục chào bán CP ra công chúng thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Theo quy định của LCK thì để chào bán cổ phiếu ra công chúng CTCP phải đáp ứng các điều kiện sau: - Có mức vốn điều lệ tối thiểu đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; - Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán; - Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được đại hội đồng cổ đông thông qua. Việc chào bán CP ra công chúng của CTCP phải đăng ký với Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) để cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Sau khi nhận được hồ sơ đăng ký có đầy đủ những thông tin theo quy định của pháp luật, UBCKNN sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ để xác minh tính trung thực và đầy đủ về những thông tin mà doanh nghiệp kê khai. Thời hạn để UBCKNN hoàn tất việc thẩm định và cấp giấy chứng nhận là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận, UBCKNN phải nêu rõ lý do trong văn bản từ chối. Sau đó, CTCP phải tiến hành công bố thông tin về đợt phát hành. Việc công bố thông tin được chia hai giai đoạn. Trong thời gian UBCKNN xem xét hồ sơ, CTCP chỉ được sử dụng trung thực và chính xác các thông tin trong bản cáo bạch đã gửi UBCKNN để thăm dò thị trường, trong đó phải nêu rõ các thông tin về ngày phát hành và giá bán CP là thông tin dự kiến. Việc thăm dò thị trường không được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi CTCP được UBCKNN cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng, CTCP phải công bố bản thông báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong 3 số liên tiếp trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày giấy chứng nhận có hiệu lực. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu của CTCP gồm: Giấy đăng ký chào bán, bản cáo bạch, điều lệ của tổ chức phát hành, cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có), quyết định của ĐHĐCĐ thông qua phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng. Việc phân phối cổ phiếu được thực hiện sau khi tổ chức phát hành đảm bảo người mua cổ phiếu tiếp nhận bản cáo bạch của hồ sơ đăng ký chào bán. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức đại lý phải phân phối hết CP trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy chứng nhận đăng ký chào bán có hiệu lực. Nếu tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối CP trong thời hạn này, UBCKNN xem xét gia hạn nhưng tối đa không quá 30 ngày. Chuyển nhượng CP Với số vốn bỏ ra để mua CP của công ty, cổ đông không nhất thiết phải gắn bó lâu dài với công ty nếu họ không muốn. Một trong những điểm nổi bật của cổ đông trong CTCP, thể hiện tính ưu việt của loại hình CTCP đó là cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng CP. Với ưu thế này làm cho cơ cấu cổ đông của công ty thay đổi rất linh hoạt. Quyền chuyển nhượng CP bao gồm mua bán, tặng cho, để lại, thừa kế. Về nguyên tắc, các CP của CTCP được tự do chuyển nhượng trừ hai trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của LDN 2005. Cụ thể như sau: - Trường hợp 1: Cổ đông sở hữu CP ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng CP đó cho người khác. Tức là tổ chức được chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập không được chuyển nhượng CP ưu đãi biểu quyết mà mình nắm giữ cho người khác. Sau thời hạn 3 năm CP ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển thành CP phổ thông. Tuy nhiên, CP ưu đãi biểu quyết của tổ chức được chính phủ ủy quyền thì không có một quy định rõ ràng trong LDN 2005, do đó cần thiết phải có quy định làm sáng tỏ nội dung này. -Trường hợp 2: Đây là một quy định hạn chế việc chuyển nhượng CP phổ thông của cổ đông sáng lập. Trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng CP phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng CP phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập, nếu được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng pháp luật Việt Nam về cổ phần trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty cổ phần.doc
Tài liệu liên quan