MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC 4
I.TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC 4
1. Tình hình tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Trung Quốc 7
2. Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô của Trung Quốc 11
3. Tình hình phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc 12
II.CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC 16
1. Định hướng thu hút FDI có trọng điểm 16
2. Xây dựng các đặc khu kinh tế 17
3. Xây dựng 14 thành phố mở cửa ven biển 21
4. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi 21
4.1. Chính sách cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng 21
4.2. Tạo dựng môi trường luật pháp cho FDI 23
5. Chính sách ưu đãi thuế với hoạt động FDI 29
6. Chính sách khuyến khích đầu tư của Hoa Kiều 33
7. Chính sách khuyến khích của các công ty xuyên quốc gia và các nhà tư bản lớn 37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC 40
I. SỐ DỰ ÁN, SỐ VỐN VÀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC 40
1. Lượng vốn và lượng dự án qua các năm 40
2. Quy mô đầu tư 48
3. Hình thức đầu tư 50
II. CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC 52
1. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực 52
2. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ 54
3. Cơ cấu đầu tư theo đối tác đầu tư 55
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC 60
1. Những thành tựu đạt được trong thu hút FDI 60
1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 60
1.2. Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đất nước 61
1.3. Thúc đẩy xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ 63
1.4. Taọ điều kiện phát triển công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý 64
1.5. Thúc đẩy việc hình thành thị trường các yếu tố sản xuất 65
2. Những điểm bất cập trong thu hút FDI 67
2.1. Kết cấu ngành nghể của FDI còn chưa hợp lý, ảnh hưởng đến kết cấu ngành nghề chung của cả nước 67
2.2. Quá trình thu hút FDI tao ra sự phát triển chênh lệch giữa các vùng của Trung Quốc 68
2.3. FDI tăng cao ảnh hưởng đến kinh tế quá nóng 68
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 70
I. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC 70
1. Những nét tương đồng 70
2. Những nét khác biệt 74
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 76
1. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước 76
2. Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất 79
2.1. Phải có nhận thức đúng đắn về vai trò và xu thế phát triển của các khu kinh tế tự do (KCN, KCX, Khu kinh tế mở –KKTM) trong giai đoạn hiện nay 79
2.2. Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng các KCN, KCX 81
2.3. Hoàn thiện môi trường pháp luật, cơ chế chính sách đối với hoạt động đầu tư vào KCN, KCX, KKTM 82
3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư 86
3.1. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “mềm” 86
3.2. Cải thiện môi trường đầu tư "cứng" 88
4. Khuyến khích đầu tư của TNCs đồng thời phát triển công nghiệp dân tộc trên cơ sở vừa hợp tác vừa cạnh tranh với TNCs 88
5. Xây dựng chính sách thu hút vốn đầu tư từ Việt Kiều 90
6. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới 92
Kết luận 93
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
95 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2176 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn này đối với quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc.
i. Số dự án, số vốn và hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung quốc:
1.1. Lượng vốn và lượng dự án qua các năm:
Nguồn: MOFTEC Statistics
Kể từ năm 1979 tới nay, tình hình thu hút vốn FDI của Trung Quốc có nhiều biến động (Xem biểu đồ 2.1). Tuy nhiên, có thể phân chia quá trình thu hút FDI tại Trung Quốc thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn thăm dò (1979-1985):
Do Trung Quốc một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm dò, mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là các dự án đầu tư vào vùng ven biển của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công trình nhà hàng, khách sạn có khả năng sinh lời cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, thời gian quay vòng vốn ngắn. Tính tới cuối năm 1985, Trung Quốc đã thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD. Các hạng mục công nghiệp sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công cấp thấp hoặc trung bình. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là lợi dụng sức lao động rẻ ở Trung Quốc.
Giai đoạn phát triển ổn định(1986-1991):
Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh trong chính sách đầu tư. Chiến lược thu hút FDI được cựu tổng bí thư Đảng Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy thực hiện chính sách thương mại hướng vào xuất khẩu. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so với chính sách của nhiều nước NICs là thu hút FDI vào sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng thời chuyển đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu đồng thời vẫn thực hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đã làm cho các nhà đầu tư chú ý.
Các nhà đầu tư từ trên 60 nước và khu vực, chủ yếu là từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và các nước phát triển phương Tây đã đến Trung Quốc. Họ chủ yếu đầu tư vào các ngành năng lượng, thông tin, chế tạo máy, điện tử, dệt, công nghiệp nhẹ, hoá chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, xây dựng và ngành bất động sản. Những dự án được chấp thuận ở các tỉnh và thành phố ven biển chiếm 80% tổng số của cả nước. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có sự chuyển hướng từ các ngành kinh doanh dịch vụ sang các ngành công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành công nghiệp tập trung nhiều lao động, sản phẩm được tái xuất qua Hồng Kông phù hợp với chiến lược sử dụng vốn nước ngoài cho mục đích xuất khẩu của Trung Quốc, đã làm tổng sản lượng công nghiệp tăng lên.
Năm 1991, Trung Quốc đã thông qua chính sách vĩ mô, kết hợp khăng khít chính sách ưu đãi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề của đất nước, khuyến khích có trọng điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục theo hướng phù hợp với chính sách ngành nghề, các hạng mục phải có quy mô tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển vững chắc hơn.
Nhìn chung, giai đoạn 1984-1991, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc phát triển ổn định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất ngày càng tăng, (riêng năm 1991 chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và thuộc loại hình xuất khẩu ngày càng nhiều.
Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992-1993):
Bước sang thập kỷ 90, sau chuyến đi thị sát của ông Đặng Tiểu Bình ở các tỉnh phía Nam, tại Đại hội XIV năm 1992, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định đẩy nhanh tốc độ kinh tế thị trường. Cả nước đã hình thành kết cấu mở cửa đối ngoại bao gồm 339 huyện thị với diện tích hơn 50 vạn km2 và hơn 300 triệu ngưòi. Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực đầu tư, quyết định đẩy nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu tư đã nhìn thấy thị trường nội địa rất tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy, họ đã đầu tư ồ ạt vào thị trường trong nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc tăng theo cấp số nhân. Năm 1992, tổng số dự án FDI ký kết trên cả nước là 48.764, tăng 3,75 lần so với 1991, vượt cả tổng số dự án FDI thời kỳ 1979-1991 là 42.027. Vốn đăng ký đạt 58,12 tỷ USD, tăng 4,85 lần so với 1991, vượt qua tổng vốn đăng ký thời kỳ 1979-1991 là 52,54 tỷ USD. Vốn thực hiện là 11,01 tỷ, tăng 2,52 lần so với năm 1991. Năm 1993, số dự án FDI lên tới 83.437, tăng 71,1% so với năm 1992. Vốn đăng ký là 111,44 tỷ USD, tăng 149,95% so với năm trước. Đồng thời nó cũng nhiều hơn tổng vốn đăng ký 14 năm trước đó (1987-1992) là 110,46 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt 27,52 tỷ USD, tăng 2,49 lần so với năm 1992 và tương đương 80% tổng vốn thực hiện 14 năm trước đó.
Nguồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng trưởng của các nước phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc gia (TNCs), các nhà tư bản tam cường Mỹ-Nhật-Tây Âu ngày càng tăng cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
TNCs và các nhà tư bản lớn phương Tây đầu tư vào Trung Quốc mang theo một số loại hình đầu tư mới, quy mô đầu tư lớn, khởi điểm kỹ thuật cao, sản phẩm cao cấp hoá. Các dự án mang tính sản xuất trong kết cấu ngành nghề giảm xuống. Các dự án mang tính phi sản xuất phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt là ngành bất động sản tăng cao, chiếm tỷ trọng trong số các dự án và tỷ trọng trong vốn đăng ký từ 9,3% và 31% năm 1992 lên đến 13,57% và 39,28% năm 1993.
Do đầu tư tăng cao đã gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra tình trạng rối loạn về bất động sản, về mở khu chế xuất, khu khai thác kinh tế kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đã làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Năm 1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng này đã kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất cân bằng ảnh hưởng đến lạm phát.
Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng vốn thực hiện trên vốn đăng ký mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp hơn so với mấy năm trước đó. Tình trạng này xẩy ra một phần do ở nhiều địa phương đã mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà vốn đối ứng trong nước kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên liệu, cung ứng không đủ.
Nhìn chung, FDI những năm 1992-1993 tăng trưởng với tốc độ cao ở Trung Quốc. Đặc trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải thiện kết cấu đầu tư, kết cấu ngành nghề có sự chuyển biến hiện đại hoá.
Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay):
Trước tình trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992-1993, từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hút FDI theo hướng :
+Trọng điểm đưa vốn đầu tư vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang các ngành nghề cơ sở, ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
+Từ tiếp nhận những dự án đầu tư quy mô nhỏ chuyển sang tiếp nhận những dự án vừa và lớn.
+Từ thu hút vốn đầu tư trong ngành chuyển sang thu hút vốn lưu thông quốc tế.
+Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo những doanh nghiệp cũ.
+Từ việc đưa đầu tư vào tương đối bị động chuyển sang đưa vào chủ động, có lựa chọn, chú trọng hơn đến chất lượng của đầu tư.
Những điều chỉnh này đã làm dịu tình trạng kinh tế quá nóng của Trung Quốc trong 2 năm 1992-1993. Trong 6 tháng đầu năm 1994, những cơn sốt về mở khu chế xuất và bất động sản đã dịu xuống. Số lượng dự định mở khu chế xuất, khu phát triển kỹ thuật ở các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Sơn Đông, Phúc kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Liêu Ninh, Hà Bắc đã giảm từ hơn 1.200 khu xuống chỉ còn 200 khu. Kim ngạch dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 143,5% trước đây chỉ còn tăng 43,9%. ở khu vực ven biển, điểm nóng mà thương gia nước ngoài đầu tư, ngoài Thượng Hải tăng một chút 1,5%, với kim ngạch tăng 14,2%, các tỉnh và thành phố khác đều có xu thế giảm đi, trong đó, Giang Tô giảm 55,5%, Sơn Đông giảm 50%.
Nhờ điều chỉnh mà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã có sự chuyển biến rõ rệt từ số lượng sang chất lượng. Từ năm 1994 đến nay, mặc dù vốn đăng ký có xu hướng giảm đi nhưng vốn thực hiện tăng lên. Thượng Hải và Bắc Kinh từng nơi tăng trưởng 2,1 lần và 2,7 lần. Sơn Đông tăng ít nhất cũng đạt 17%. Tính chung cả nước trong năm 1994, số dự án đầu tư được Trung Quốc phê chuẩn là 47.490, giảm 43,09% so với năm 1993. Số vốn đăng ký là 81,41 tỷ USD, giảm 26,95%. Song số vốn thực hiện là 33,75 tỷ USD, tăng 22,78% , chiếm 41,5% trong kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định. Vốn FDI thực tế vào Trung Quốc trong hai năm tiếp theo 1995, 1996 cũng vẫn tăng đều đặn với mức 10%/ năm.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 mà luồng vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998, 1999. vốn thực hiện trong hai năm này lần lượt chỉ đạt 43,7 tỷ USD và 40,3 tỷ USD, giảm 1% và 7% so với những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm giảm thực lực kinh tế của các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông, vốn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (chiếm hơn 75% tổng vốn FDI). Các nước này phải giải quyết những khó khăn nội tại nên giảm đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào Trung Quốc nói riêng. Trung Quốc đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như : duy trì ổn định tỷ giá đồng NDT, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật của các hạng mục. Nhờ vậy, từ năm 2000, FDI vào Trung Quốc bắt đầu phục hồi trở lại mức 62,7 tỷ USD và tăng lên 68,6 tỷ USD vào năm 2001 khẳng định vị trí trong nhóm quốc gia dẫn đầu về thu hút đầu tư (Xem biểu đồ 2.2)
Biểu đồ 2.2: 13 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới
năm 2000 và 2001 Đơn vị : tỷ USD
Nguồn : UNCTAD World Investment Report 2002
Đến hết tháng 11 năm 2002, Trung Quốc đã thu hút được 420753 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 822,2 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 443,2 tỷ USD (xem bảng 2.1).
Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một sự kiện tác động mạnh đến luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nước này trong năm qua. Ngoài việc điều chỉnh, rà soát lại hệ thống luật pháp, Trung Quốc còn thực hiện nhiều nỗ lực thiết lập trật tự thị trường, hạ thấp thuế quan,... Đây là những nhân tố khiến đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng mạnh. Đáng chú ý là nhiều công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty lớn của Nhật như NEC (công nghệ cao), Seilko Epson Corp. (sản xuất máy quét ảnh), Minolta Co.Ltd (sản xuất máy ảnh), Minibea (sản xuất ổ bi)... đã chuyển nhiều vốn đầu tư và các cơ sở sản xuất của họ từ các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines... sang Trung Quốc do ở đây nguyên vật liệu và chi phí lao động rẻ hơn, hơn nữa còn do nhiều khách hàng của các công ty này đã chuyển sang hoạt động ở Trung Quốc. Theo tờ Nihon Keizal Shimbun của Nhật thì trong năm 2001 đã có ít nhất 22 cơ sở sản xuất của Nhật kinh doanh ở Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines đã đóng cửa hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của họ để chuyển sang Trung Quốc.
Bảng 2.1: Tình hình thu hút và sử dụng FDI tại Trung Quốc
(đến hết tháng 11 năm 2002)
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký
(100 tr USD)
Vốn thực hiện
(100 tr USD)
Tổng số
420.753
8222,38
4432,35
1979-1982
920
49,58
17,69
1983
638
19,17
9,16
1984
2.166
28,75
14,19
1985
3.073
63,33
19,56
1986
1.498
33,30
22,44
1987
2.233
37,09
23,14
1988
5.945
52,97
31,94
1989
5.779
56,00
33,93
1990
7.273
65,96
34,87
1991
12.978
119,77
43,66
1992
48.764
581,24
110,08
1993
83.437
1114,36
275,15
1994
47.549
826,80
337,67
1995
37.011
912,82
375,21
1996
24.556
732,76
417,26
1997
21.001
510,03
452,57
1998
19.799
521,02
454,63
1999
17.101
415
404
2000
22.532
627
408
2001
25.772
686,48
467,5
2002
30.728
769
480
Nguồn : MOFTEC statistics
Việc gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết cải thiện môi trường đầu tư, giảm thuế quan,... đã biến Trung Quốc thành một thanh nam châm có sức hấp dẫn cực mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài. Tính đến tháng 9/2002, Trung Quốc đã phê chuẩn hơn 414.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn theo hợp đồng là 813,66 tỷ USD, trong đó số vốn đầu tư thực tế là 434,78 tỷ USD. Riêng Thượng Hải, từ tháng 1 đến tháng 9/2002 đã thu hút được thêm 8,03 tỷ USD, tăng 37,6% với 2.245 dự án tăng 21,7%. Vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc trong cả năm vượt con số 50 tỷ USD. Với mức này, Trung Quốc đã vượt Mỹ, vươn lên thành nước có mức thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới trong năm 2002.
Quy mô đầu tư:
Quy mô đầu tư vào mỗi hạng mục đầu tư nước ngoài biến động không đều qua các năm. Thời kỳ đầu mở cửa, quy mô dự án nhỏ. Giữa thập kỷ 80, quy mô dự án khá cao, xấp xỉ 2 triệu USD một dự án. Tuy nhiên, quy mô này lại giảm vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu hướng tăng lại bắt đầu từ năm 1992 trở lại đây, từ mức 1,2 triệu USD/dự án lên đến gần 3 triệu USD/dự án và duy trì mức trên 2,5 triệu USD/dự án vào những năm gần đây.
Khoảng thời gian đầu, do đầu tư của thương gia nước ngoài còn mang tính thăm dò, nên các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Giữa thập kỷ 80, do đa số các dự án tập trung vào xây dựng các công trình cơ sở nên quy mô đầu tư của hạng mục tương đối lớn, lên tới gần 2 triệu USD/dự án. Từ năm 1986, mục tiêu kinh tế chuyển sang sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu thu ngoại tệ, chính phủ khuyến khích đầu tư vào chế biến hàng xuất khẩu và những ngành thâm dụng nhân công. Để tận dụng những ưu đãi, các nhà đầu tư đã chú trọng vào những ngành như: may mặc, sản xuất đồ điện tử thứ cấp, là những ngành không cần vốn đầu tư lớn. Do vậy, quy mô đầu tư giảm xuống dưới 1 triệu USD /dự án.
Nghiên cứu kỹ hơn, ta sẽ nhận thấy quy mô đầu tư của tư bản người Hoa ở Hồng Kông, Đài loan, Ma Cao luôn nhỏ hơn mức bình quân trong giai đoạn đầu thập kỷ 90 trở về trước. Điều này quyết định tới quy mô nhỏ các hạng mục đầu tư nước ngoài vì Hồng Kông , Ma Cao, Đài Loan luôn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung quốc. Quy mô một hạng mục của Ma Cao chỉ có 1,17 triệu USD, của Đài Loan đạt 0,844 triệu USD. Nguyên nhân là đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều mang tính truyền thống gia tộc là chính.Đầu tư của họ chủ yếu là vào những xí nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, phân tán, quản lý rời rạc, phương thức kinh doanh theo kiểu truyền thống. Theo số liệu điều tra của Trung Quốc năm 1992, những doanh nghiệp quy mô đầu tư dưới 1 triệu USD thường là những doanh nghiệp gia công vừa và nhỏ, loại hình tập trung nhiều lao động. Đối với những doanh nghiệp quy mô trên 1 triệu USD, thì có trên 80% tập trung vào ngành tập trung nhiều lao động như dệt may, giầy da, quần áo, đồ thể thao.
bảng 2.2 : Quy mô bình quân một dự án giai đoạn 1985-2002
Năm
Bình quân dự án
(Triệu USD)
Năm
Bình quân dự án
(Triệu USD)
1985
1,930
1994
1,714
1986
1,892
1995
2,403
1987
1,661
1996
3,000
1988
1,071
1997
2,5
1989
0,969
1998
2,54
1990
0,907
1999
2,6
1991
0,923
2000
2,78
1992
1,192
2001
2,64
1993
1,336
2002
2,51
Nguồn : Tổng hợp từ bảng 2.1
Từ năm 1993, chính sách khuyến khích TNCs phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường ngày càng lôi kéo nhiều TNCs đầu tư vào Trung Quốc. Điểm nổi bật của các dự án đầu tư của TNCs là quy mô lớn hơn của tư bản Hoa kiều rất nhiều. Đặc biệt, các dự án kỹ thuật cao, mới của các khu khai thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10% mấy năm trước lên 30% vào năm 1994, quy mô mỗi dự án tăng từ 1,8 triệu USD năm 1993 lên 2,4 triệu năm 1995. ở Quảng Đông, Bắc Kinh và Thượng Hải, các loại hình lớn tăng lên rõ rệt. Trong năm 1993, ở Quảng Đông có tới 738 dự án được phê duyệt với số vốn trên 10 triệu USD, tăng 527 dự án so với trước. Cũng cùng năm đó ở Bắc Kinh có 202 dự án với trên 10 triệu USD, trong đó có tới 49 dự án đầu tư trên 50 triệu USD. ở Thượng Hải có 146 công ty xuyên quốc gia, đầu tư 281 dự án, vốn đăng ký là 3,722 tỷ USD, bình quân mỗi dự án là 13,5 triệu USD. Đặc biệt ,trong những năm gần đây đã xuất hiện những dự án có số vốn kỷ lục như: khu công nghiệp Tô Châu-Singapore, tổng đầu tư 20 tỷ USD, khu khai thác kinh tế Dương Phố- Hải Nam, tổng đầu tư 130 tỷ USD.
Quy mô các hạng mục đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã làm cho FDI có sự chuyển biến từ số lượng sang chất lượng.Đây là đặc điểm nổi bật của hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc trong những năm gần đây. (Xem bảng 2.2)
Hình thức đầu tư:
Trong những năm đầu của chính sách mở cửa, hầu hết các dự án đầu tư tại Trung Quốc đều dưới hình thức liên doanh với tỷ lệ 50:50. Tới đầu thập kỷ 90, tỷ lệ 60 - 70% trở nên phổ biến và Chính phủ Trung Quốc cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào các dự án lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài thích chọn hình thức 100% vốn hơn vì tránh được những phiền nhiễu có thể xảy ra trong quá trình liên doanh tuy một số ít doanh nghiệp vẫn thích hình thức liên doanh vì họ có quan hệ đối tác tốt đẹp. Năm 1997, số dự án 100% vốn được cấp phép đã nhiều hơn số liên doanh. Năm 1999, số doanh nghiệp 100% vốn chiếm tới 49% trong khi số doanh nghiệp liên doanh chỉ chiếm 41%.
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư
(đến hết năm 2000) Đơn vị: 100 triệu USD
Số dự án
%
Vốn đăng ký
%
Vốn thực hiện
%
Tổng số
364,055
100.00%
6760.22
100.00%
3479.66
100.00%
Doanh nghiệp liên doanh
206,747
56.79%
2904.80
42.97%
1600.19
45.99%
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
49,779
13.67%
1487.36
22.00%
714.18
20.52%
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
107,352
29.49%
2319.86
34.32%
1098.93
31.58%
Hình thức khác
177
0.05%
48.20
0.71%
66.36
1.91%
Nguồn: MOFTEC FDI statistics
Tuy nhiên, xét tổng thể đến hết năm 2000, Liên doanh vẫn là hình thức chủ yếu chiếm trên 50% về số dự án, số vốn đăng ký và vốn thực hiện (Xem bảng 2.3).Cùng với việc Trung Quốc gia nhập WTO, trong vòng 3 đến 5 năm tới, rất nhiều lĩnh vực sẽ được mở ra cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Những lĩnh vực này bao gồm dịch vụ quảng cáo, du lịch, dịch vụ kỹ thuật, đại lý độc quyền phân phối sản phẩm, đại lý vận tải đường biển, khách sạn, tư vấn quản lý và dịch vụ đóng gói. Một số lĩnh vực như viễn thông, bán lẻ, phân phối hàng hoá, bảo hiểm nhân thọ và quản lý quĩ tài chính vẫn chỉ cho phép hình thức liên doanh. Từ năm 1999 Trung Quốc đã nới lỏng qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài, theo đó bên cạnh đầu tư mới dưới hình thức 100% vốn, nhà đầu tư còn có thể mua lại các doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước.
Gần đây, cùng với sự gia tăng đầu tư của các nước tư bản phương tây, nhiều hình thức đầu tư mới cũng xuất hiện ở Trung Quốc, như hình thức doanh nghiệp cổ phần, hình thức hợp đồng BOT,... Tuy nhiên, những hình thức này phát triển chậm chạp vì thiếu những chính sách cần thiết. (Xem bảng 2.4)
Bảng 2.4: FDI tại Trung Quốc theo hình thức đầu tư năm 2001/2000
Đơn vị : triệu USD
TT
Hình thức đầu tư
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
2001
2000
% tăng
2001
2000
% tăng
1
Liên doanh
17.540
20.030
-12
16.250
14.590
11
2
Hợp tác kinh doanh
8.310
8.050
3
6.060
6.500
-7
3
DN 100% vốn nước ngoài
42.980
34.010
26
23.550
19.140
23
4
DN cổ phần đầu tư nước ngoài
330
210
57
460
110
31,8
5
Các hình thức khác
30
350
-91
530
440
20,4
Tổng cộng
69.190
62.650
10
46.850
40.770
15
Nguồn : China Statistical Yearbook 2001
II. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại trung quốc:
1. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực:
Thời kỳ đầu, song song với qui mô FDI vào Trung Quốc nhỏ thì nguồn này cũng chỉ tập trung vào một số ngành như du lịch, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng ( 90% năm 1985) vì những lĩnh vực này có qui mô nhỏ và dễ thu hồi vốn. Năm 1986, chính phủ Trung Quốc ban hành "Những qui định về khuyến khích đầu tư nước ngoài "trong đó dành nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư nếu đầu tư vào những dự án mang tính sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu. Kể từ đó, đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Nếu trong năm 1986, vốn FDI vào ngành công nghiệp chỉ chiếm 27,7% tổng số vốn thì đến năm 1990, tỷ lệ này đã tăng lên 84,4%. Trong các năm 1992, 1993, 1994 tỷ lệ FDI vào ngành này giảm xuống đôi chút song vẫn ở mức cao với các tỷ lệ tương ứng là: 55,3% , 45,9%, và 51,7%. Cho đến năm 2001, tỷ trọng đầu tư vào ngành này đã lại tăng lên 71,6%.
Trong khi thực hiện mở rộng các lĩnh vực đầu tư, Trung Quốc đặc biệt chú ý mở rộng đầu tư vào các ngành dịch vụ bao gồm tài chính, bảo hiểm, ngoại thương, tư vấn, dịch vụ thông tin... Trong 2 năm 1996 - 1997, FDI vào các ngành dịch vụ đều gia tăng. Vào thời điểm cuối năm 1995, Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập 115 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 4 công ty bảo hiểm dùng vốn nước ngoài và một ngân hàng liên doanh chung vốn. Đến nay, Trung Quốc đã có tới 134 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 20 ngân hàng liên doanh và 8 công ty bảo hiểm. Hoạt động của các ngân hàng và các công ty bảo hiểm này đã phục vụ đắc lực cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc.
Mức đầu tư nước ngoài vào ngành bất động sản cũng tăng nhanh, từ chỗ chỉ chiếm 6,9% năm 1986 đã lên tới 30,6% trong các năm 1992 và 1993. Trong năm 1994, do nhiều vụ đầu tư vào bất động sản bị thua lỗ nặng nề nên xu hướng đầu tư vào lĩnh vực này cũng chững lại. Đến năm 1997, tỷ trọng đầu tư vào ngành này chỉ còn trên 17%. Gần đây, mức đầu tư vào lĩnh vực này lại tăng lên nhanh chóng với tốc độ bình quân mỗi năm là 18,6%. Hầu hết các ngành còn lại như xây dựng, giao thông, giáo dục, y tế ... đều có tỷ trọng đầu tư rất thấp so với ngành công nghiệp, hơn nữa tốc độ gia tăng đầu tư lại nhỏ. Tỷ trọng đầu tư vào các ngành này chỉ chiếm từ 2-5% tổng FDI của cả nước. (Xem bảng 2.5)
Bảng 2.5: FDI tại Trung quốc theo lĩnh vực (Đơn vị 1000USD)
Lĩnh vực
2000
1999
1998
Số dự án
Vốn cam kết
Vốn thực hiện
Số dự an
Vốn cam kết
Vốn thực hiên
Số dự án
Vốn cam kết
Vốn thực hiện
Lâm nghiệp, chăn nuôivà thuỷ sản
821
148314
67594
762
147170
71015
876
120420
62375
Nông nghiệp
484
69248
35825
456
76095
36100
0
0
0
Ngành mỏ
162
50640
58328
130
32221
55714
168
85223
57809
Công nghiêp SX
15988
4604809
2751639
12042
2533180
2260334
13477
3082722
2558238
Dệt
801
201541
139165
535
119852
137089
0
0
0
Hoá chất
986
259593
179623
867
175874
191928
0
0
0
Dược
268
91153
52342
198
69262
68441
0
0
0
Máy móc
613
163351
104742
485
90447
97669
0
0
0
Thiết bị chuyên dụng
689
106839
52796
500
74333
50995
0
0
0
Thiết bị điện tử , viễn thông
1529
1137910
462684
922
394271
314572
0
0
0
Điện, than đá, gas và cấp nước
107
122686
224212
116
163519
370274
142
196812
310279
Xây dựng
233
83088
90542
247
109619
91658
318
175011
206423
Địa chất
7
1488
481
10
5397
452
0
0
0
Dịch vụ vận tải, viễn thông
306
144038
104546
205
111401
155114
274
230119
164513
Thương mại
852
143514
85781
825
120413
96513
1184
131352
118149
Tài chính
5
7929
7629
3
3708
9767
0
0
4000
Bất động sản
684
523213
465751
669
417785
558831
834
664752
641006
Dịch vụ XH
2679
425463
218544
1474
301680
255066
1634
301193
296315
Khách sạn
72
29878
43269
61
37952
74286
0
0
0
Y tế, thể thao và phúc lợi xã hội
31
15428
10588
28
6727
14769
40
14174
9724
Giáo dục, văn hoá, truyền hình
19
8332
5446
29
7258
6072
14
2212
6830
Nghiên cứu KH và dịch vụ CN
100
25028
5703
62
13372
11013
0
0
0
Lĩnh vực khác
353
809030
838843
316
148852
75268
669
190598
106752
Nguồn: MOFTEC FDI statistics
Nhìn chung lĩnh vực đầu tư ngày càng được mở rộng, từ hướng về công nghiệp mang tính gia công trước đây đã chuyển sang phát triển các công trình cơ sở và các ngành nghề thứ ba (dịch vụ). Ngành nghề thứ nhất (nông nghiệp) luôn là ngành thu hút được ít vốn đầu tư nhất với mức tỷ lệ bình quân trên tổng lượng FDI qua các năm là dưới 3%, mặc dù Trung Quốc là một nước nông nghiệp. Trong những năm gần đây, do có sự tích cực trong thay đổi chính sách nhất là tạo nhiều hấp dẫn cho nhà đầu tư khi đầu tư vào ngành nông nghiệp mà tỷ trọng vào ngành này có chiều hướng tăng lên từ 1,6% năm 1996 lên 2,1% năm 1997 và gần 5% năm 1998, năm 2001 con số này là 7,3%.
3. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ:
Khu vực thu hút FDI chủ yếu của Trung Quốc là vùng ven biển Đông Nam. Từ năm 1992, Trung Quốc khuyến khích chuyển dịch đầu tư vào sâu trong nội địa, đặc biệt vào miền Trung và miền Tây, tuy nhiên khu vực ven biển Đông Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn về lượng FDI (xem biểu đồ 2.3)
Biểu đồ 2.3: Phân bổ FDI tại Trung Quốc theo lãnh thổ (2000)
Nguồn: WTO
Thời kỳ đầu, FDI tại Trung Quốc chủ yếu đến từ tư bản người Hoa và Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao nên địa điểm lý tưởng nhất cho đầu tư của họ là vùng ven biển Đông Nam. Nơi đây giao thông thuận ti