- Công ty nghiên cứu và khảo sát kỹ thực tế, thu thập đầy đủ tình hình và số liệu cần thiết để đánh giá rủi ro. Việc đánh giá rủi ro có ý nghĩa hết sức quan trọng, có đánh giá đúng rủi ro mới tìm được tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với rủi ro mà mình sẽ nhận bảo hiểm, cụ thể: đối tượng được bảo hiểm, bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC, hạng sản xuất (nếu đối tượng bảo hiểm là đơn vị sản xuất), loại cơ sở kinh doanh dịch vụ (nếu đối tượng bảo hiểm là cơ sở kinh doanh dịch vụ), mức độ nguy hiểm của tài sản để trong kho, trong cửa hàng (nếu đối tượng bảo hiểm là kho tàng, cửa hàng).
Sau đó, cán bộ công ty điền vào bản câu hỏi đánh giá rủi ro theo mẫu của công ty BHDK, nêu rõ kết luận của cán bộ đánh giá rủi ro.
Công ty xác định quán triệt những nguyên tắc:
- Không chấp nhận bảo hiểm theo lối chọn điểm (ví dụ trong một khu vực nhà máy, chỉ mua bảo hiểm cho những phân xưởng, công đoạn, bộ phận. nhiều rủi ro nhất). Cần phải bảo hiểm toàn bộ tài sản trong một khu vực.
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1909 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bà Rịa với tổng mức trách nhiệm là US$ 102 triệu.
BHDK luôn cố gắng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và phát triển chương trình bảo hiểm trọn gói cho khách hàng. Các đơn bảo hiểm đều được áp dụng theo các mẫu đơn bảo hiểm Quốc tế. Phương châm hoạt động của BHDK là “Đáp ứng, thoả mãn nguyện vọng của khách hàng và cùng hợp tác để phát triển” và mục tiêu chính của BHDK là phục vụ và bảo vệ khách hàng. Vì vậy BHDK luôn luôn cung cấp các dịch vụ bảo hiểm với mức phí cạnh tranh nhất với các điều kiện tốt nhất cho khách hàng.
Cùng với sự phát triển của Tổng Công ty Dầu khí, BHDK đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ tận tuỵ và có năng lực, nhiều cán bộ đã có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực bảo hiểm và được đào tạo tại các trường đại học trong và ngoài nước. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động BHDK đã có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các Công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm nước ngoài có uy tín như: Marsh (Singapore), Jardine Lloyd Thompson (JLT), CIGNA International (USA), Sedgwick Energy and Marine Limited (London), American International Group (USA), Tokyo Marine and Fire Insurance Co.Ltd (Japan), Munich Reinsurance Co. (Germany), John Swire & Sons (London), Zurich Insurance Group (Swithzerland), Lloyd’s Underwriter, TRB (London), AON, Haakon Ltd., (Switzerland), I.R.M (France).v.v.
Là doanh nghiệp bảo hiểm của ngành Dầu khí, một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước có uy tín trên thị trường quốc tế, mối quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi của Bảo hiểm dầu khí còn được thể hiện qua nhiều trường hợp cụ thể. Trong những thời điểm được đánh giá là khó khăn nhất đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, BHDK vẫn vững vàng cùng các doanh nghiệp trong ngành vượt qua khó khăn, việc thu xếp tái bảo hiểm thời hiệu 2001/2002 cho XNLD VietsovPetro (đơn vị có tài sản và giá trị mua bảo hiểm lớn nhất Việt Nam hiện nay) là một điển hình. Trong khi thị trường bảo hiểm quốc tế gần như đóng băng sau thảm hoạ 11/9/2001 tại Mỹ, nhà Môi giới tái bảo hiểm thắng thầu chưa hoàn thành việc thu xếp tái bảo hiểm 50% dịch vụ theo cam kết, dưới sự chỉ đạo của TCT DKVN, Công ty BHDK đã phối hợp chặt chẽ với XNLD VietsovPetro thu xếp thành công chương trình bảo hiểm, tái bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm tốt nhất, bảo đảm an toàn cho các tài sản của XNLD VietsovPetro.
Trong các năm qua, BHDK đã giải quyết bồi thường thành công nhiều vụ tổn thất của khách hàng đặc biệt là các đơn vị như XNLD VietsovPetro, PTSC, PetroMekong, DMC, JVPC và nhiều Công ty ngoài ngành thu hồi bồi thường hàng chục triệu USD từ các nhà nhận TBH quốc tế đảm bảo thực hiện đúng cam kết bồi thường cho các khách hàng của mình.
II. Thực trạng nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở công ty giai đoạn 1998-2003
Giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt được triển khai qua các khâu cơ bản sau: khai thác, giám định và bồi thường tổn thất. Các khâu này đều có tác động qua lại lẫn nhau và có vai trò quan trọng đối với kết quả cũng như hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Việc phân chia thành các khâu cụ thể như vậy sẽ giúp đánh giá chính xác được hiệu quả của từng khâu và nhằm hoàn thiện nghiệp vụ này của công ty. Vào tháng 11/2002 công ty Bảo hiểm Dầu khí đã nhận được chứng chỉ ISO 9001: 2000 về quản lý chất lượng do 2 tổ chức quốc tế là Quacert (úc) và DVN (Na Uy) công nhận. Việc nhận chứng chỉ ISO của 2 tổ chức quốc tế thực sự đã đánh dấu sự trưởng thành của Bảo hiểm Dầu khí trong giai đoạn hội nhập kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường.
Hiện nay tất cả các khâu trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại phòng bảo hiểm kỹ thuật đều được tiến hành theo qui trình ISO 9001:2000. Qui trình này ban hành và được áp dụng ngày 15/07/2002 nhằm mục đích quy định cách thức, các bước tiến hành khai thác- giám định- bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại văn phòng công ty, các chi nhánh, văn phòng đại diện và các đại lý bảo hiểm của Công ty Bảo hiểm Dầu khí.
Công tác khai thác
Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên và rất quan trọng trong quá trình kinh doanh bảo hiểm. Nó quyết định sự thành bại của mỗi công ty nói chung và của từng nghiệp vụ nói riêng đặc biệt là nghiệp vụ mới triển khai như bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam. Bởi vì:
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm dựa trên quy luật số đông bù số ít.
- Sản phẩm bảo hiểm khác hẳn với các sản phẩm thông thường, sản phẩm bảo hiểm không có hình thái vật chất. Khi trả tiền mua bảo hiểm khách hàng chỉ nhận được giấy chứng nhận bảo hiểm như một lời hứa do đó khâu khai thác rất khó khăn. Tuy nhiên chỉ có bán được sản phẩm bảo hiểm thì mới có doanh thu phí bảo hiểm để có thể trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ dùng cho đề phòng và hạn chế sự tổn thất và mục tiêu phát triển lâu dài của công ty.
Như vậy ta có thể thấy khâu khai thác là vô cùng quan trọng đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Công tác khai thác bao gồm:
Đơn bảo hiểm
Quy trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Hồ sơ của quy trình này gồm có:
Tên hồ sơ
Phòng/bộ phận lưu
Thời gian lưu tính từ khi hết hạn bảo hiểm
- Giấy yêu cầu bảo hiểm
- Bản đánh giá rủi ro
- Phụ lục, Hợp đồng (nếu có)
- Mẫu đơn bảo hiểm
- Danh mục tài sản
- Thông báo thu phí bảo hiểm
Phòng KD/CN
(lưu bản gốc)
Phòng KTKH,
KT, TBH,
NVKD (sao)
03 năm
theo từng nghiệp vụ, nhận biết qua tên khách hàng và số HĐ/GCN
01 năm
Đơn bảo hiểm
Một bộ đơn bảo hiểm bao gồm Bản phụ lục bảo hiểm, Mẫu đơn bảo hiểm áp dụng, Thông báo thu phí bảo hiểm, Danh mục tài sản được bảo hiểm (DMTS ghi đầy đủ và rõ ràng, ngoài các chi tiết đã in sẵn trong DMTS, ghi rõ thêm ở mặt sau DMTS những chi tiết sau:
+ Thành phần kinh tế (quốc doanh, hợp tác xã, tư nhân, xí nghiệp liên doanh Việt Nam nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài).
+ Năm xây dựng (đối với nhà cửa công trình)
Trường hợp khách hàng yêu cầu có hợp đồng thì soạn thảo hợp đồng bảo hiểm, các phòng KD/CN có trách nhiệm đánh số (theo đúng quy định đánh mã số đơn bảo hiểm - QĐ.03). Hợp đồng bảo hiểm phải đóng dấu giáp lai vào từng trang hợp đồng. Hợp đồng bao gồm những thông tin sau:
- Số đơn bảo hiểm
- Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm
- Ngành nghề sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản được bảo hiểm
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường (nếu có)
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm
- Mức khấu trừ
- Phương thức thanh toán
- Thời hạn thanh toán
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể kê khai chi tiết trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Vì vậy, kèm theo giấy yêu cầu bảo hiểm có bản danh mục tài sản. Trong bản danh mục tài sản có từng mục tài sản với số lượng, đơn giá, giá trị bảo hiểm của từng loại.
Công ty Bảo hiểm Dầu khí áp dụng mẫu đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt của Bộ Tài chính bằng tiếng Việt và mẫu đơn Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tiêu chuẩn của Munich Re bằng tiếng Anh.
Quy trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Sơ đồ 2: Các bước cơ bản cần có trong quy trình khai thác
CB khai thác, MG, ĐL
CB khai thác, CB GĐ
CB khai thác, CB nghiệp vụ
CB khai thác
CB khai thác
CB khai thác, CB nghiệp vụ
Tiếp thị, nhận YCBH từ K.hàng
Đánh giá rủi ro
Tính toán hiệu quả/Định phí
Chào phí
Cấp Đơn/ Hợp đồng/ GCN
Quản lý Đơn/ Hợp đồng/ GCN
Văn thư, Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD, Phòng TBH, KTKH
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN, Phòng TBH, Phòng/bộ phận KH, KT
kkk
(Nguồn: Phòng bảo hiểm kỹ thuật của PVI)
Sơ đồ khai thác bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt:
Dịch vụ trong phân cấp- Phòng KD/CN ký đơn
Người thực hiện
Các bước công việc
Các bộ phận liên quan
Mô tả công việc
Tiếp thị, nhận YCBH từ K.hàng
Đánh giá rủi ro
Chấp nhận chào phí
Định phí theo biểu phí, chào phí
Ký duyệt Đơn/Hợp đồng/GCN
Đóng dấu, chuyển Đơn/ Hợp đồng/ GCN
lưu nghiệp vụ
Quản lý Đơn/ Hợp đồng/ GCN
Chuẩn bị đơn/Hợp đồng/GCN
CB khai thác, ĐL, MG
CB khai thác
CB khai thác
CB khai thác
CB khai thác
Lãnh đạo Phòng KD/CN
CB khai thác, Văn thư
CB khai thác, CB nghiệp vụ
Văn thư, Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Phòng KD/CN
Văn thư, Phòng KD/CN
Phòng KD/CN, Phòng/ bộ phận KH, KT
Ghi sổ cá nhân
Bản đánh giá rủi ro
Mẫu đơn BH, biểu phí, GYCBH
Mẫu đơn/ HĐ/GCNBH
Quy chế lưu chuyển văn bản
Vào sổ thống kê Theo dõi thu phí, sửa đổi bổ sung, tái tục
Tiếp thị, nhận yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng:
Cũng như một số nghiệp vụ khác, trong những năm qua, việc triển khai nghiệp vụ cháy và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam nói chung và công ty Bảo hiểm dầu khí nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, số đơn vị tham gia ít, số tiền bảo hiểm tham gia nhỏ dẫn đến doanh thu chưa cao.
Nguyên nhân một phần là do khi chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có nhiều công ty xí nghiệp làm ăn thua lỗ nên không có khả năng thanh toán, một số còn ỷ lại vào nhà nước nên không thấy rõ trách nhiệm phải bảo toàn đồng vốn trong kinh doanh. Một nguyên nhân nữa cũng có tác động lớn tới hoạt động khai thác là ý thức của người dân và các cơ quan xí nghiệp, trình độ dân trí và tầm hiểu biết về vai trò và tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn còn kém, rất mơ hồ bởi đây là một nghiệp vụ khá mới so với thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Các nguyên nhân trên làm cho nghiệp vụ bảo hiểm cháy thời kỳ đầu rất khó khăn trong việc triển khai trên địa bàn Hà Nội và cả nước.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, hiểm hoạ cháy nổ xảy ra thường xuyên gây thiệt hạn to lớn cả về người và của. Nhiều vụ cháy, nổ lớn đã xảy ra trong các địa bàn dân cư, các cơ quan xí nghiệp cũng chính là sự tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu về vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Hàng năm, PVI thường phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan để tuyên truyền phổ biến kiến thức về phòng cháy chữa cháy và mục đích tác dụng của bảo hiểm cháy. Không thụ động chờ khách hàng đến mua bảo hiểm, công ty đã chủ động liên hệ với khách hàng thông qua các đại lý, môi giới rộng khắp của mình, cùng họ đi thăm cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ ngơi của họ, nghiên cứu quy trình sản xuất và chỉ ra cho họ thấy những rủi ro có thể gặp và hậu quả của nó. Đồng thời giải thích họ được quyền và nghĩa vụ gì khi họ tham gia bảo hiểm. Trên cơ sở Đơn bảo hiểm, văn bản hướng dẫn, công ty có thể ước tính cho họ thấy số phí họ có thể phải nộp, giải đáp các thắc mắc, giải thích cho họ về sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hoả hoạn, tư vấn cho họ các kiến thức về PCCC, tạo lòng tin cho họ và kích thích, gợi ý về nhu cầu tham gia bảo hiểm. Hàng năm, công ty trích một phần từ doanh thu phí bảo hiểm chi cho công tác quảng cáo, tuyên truyền tài trợ cho các chương trình mang tính xã hội, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm quảng bá thương hiệu, hình ảnh của công ty giúp khách hàng và mọi người biết nhiều và hiểu rõ hơn về công ty.
Công ty cũng ngày càng hoàn thiện hơn mạng lưới đại lý và cộng tác viên, tạo hệ thống chân rết khai thác trên địa bàn Hà Nội cũng như các tỉnh trên cả nước. Tuy nhiên, hướng vận động tuyên truyền nên chủ yếu tập trung vào một số đối tượng có nhiều tiềm lực. Vì thế công ty cũng như phòng bảo hiểm kỹ thuật tập trung chú ý đến các doanh nghiệp có khả năng tài chính để khai thác chính những khách hàng lớn thường đem lại doanh thu cao vì hệ thống đề phòng và hạn chế tổn thất của họ thường rất tốt.
Khi nhận thông tin từ khách hàng công ty yêu cầu khách hàng nêu rõ:
+ Ngành nghề sản xuất của người yêu cầu bảo hiểm
+ Thành phần kinh tế- Nước ngoài, Liên doanh, Nhà nước hay tư nhân
+ Đối tượng cần được bảo hiểm
+ Giá trị tài sản được bảo hiểm
+ Thời hạn bảo hiểm yêu cầu
+ Tình hình tổn thất trong các năm trước
+ Công ty bảo hiểm hiện thời (nếu có)
Công ty cung cấp giấy yêu cầu BH và các tài liệu khác theo yêu cầu của khách hàng. Khuyến cáo khách hàng về việc hợp đồng bảo hiểm/GCN sẽ không có giá trị trong trường hợp khách hàng cung cấp hoặc kê khai sai hoặc không khai báo các chi tiết quan trọng có liên quan đến rủi ro yêu cầu bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Đánh giá rủi ro
Công ty nghiên cứu và khảo sát kỹ thực tế, thu thập đầy đủ tình hình và số liệu cần thiết để đánh giá rủi ro. Việc đánh giá rủi ro có ý nghĩa hết sức quan trọng, có đánh giá đúng rủi ro mới tìm được tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với rủi ro mà mình sẽ nhận bảo hiểm, cụ thể: đối tượng được bảo hiểm, bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC, hạng sản xuất (nếu đối tượng bảo hiểm là đơn vị sản xuất), loại cơ sở kinh doanh dịch vụ (nếu đối tượng bảo hiểm là cơ sở kinh doanh dịch vụ), mức độ nguy hiểm của tài sản để trong kho, trong cửa hàng (nếu đối tượng bảo hiểm là kho tàng, cửa hàng).
Sau đó, cán bộ công ty điền vào bản câu hỏi đánh giá rủi ro theo mẫu của công ty BHDK, nêu rõ kết luận của cán bộ đánh giá rủi ro.
Công ty xác định quán triệt những nguyên tắc:
- Không chấp nhận bảo hiểm theo lối chọn điểm (ví dụ trong một khu vực nhà máy, chỉ mua bảo hiểm cho những phân xưởng, công đoạn, bộ phận... nhiều rủi ro nhất). Cần phải bảo hiểm toàn bộ tài sản trong một khu vực.
Hết sức hạn chế nhận bảo hiểm những đối tượng có hệ thống PCCC yếu.
Xem xét kỹ và hạn chế nhận bảo hiểm các rủi ro bão lụt vì bão lụt thường gây tổn thất hàng loạt trên một diện rộng có khi bao gồm nhiều tỉnh. Chỉ nhận bảo hiểm các rủi ro này với điều kiện có bảo hiểm rủi ro cháy và các công trình được bảo hiểm phải là những công trình kiên cố được xây dựng bằng bê tông cốt thép.
Tính toán hiệu quả, xác định phí, điều kiện, chào phí
* Căn cứ vào các thông tin được cung cấp và kết quả đánh giá rủi ro, Khai thác viên của công ty xác định phí để đưa ra một mức chào phí cho đối tượng được bảo hiểm. Mức phí được xác định dựa trên:
Hướng dẫn nghiệp vụ, kinh nghiệm của CBKT về rủi ro được bảo hiểm
Tình hình thị trường bảo hiểm trong nước và thế giới
Mức độ cạnh tranh với các công ty bảo hiểm khác
Bản thoả thuận về cháy và các rủi ro đặc biệt
* Riêng đối với trường hợp:
Khách hàng đề nghị phạm vi bảo hiểm quá lớn hoặc có số tiền bảo hiểm vượt mức phân cấp khai thác
Khả năng xảy ra rủi ro toàn bộ hoặc mức độ tập trung rủi ro cao
Các trường hợp mà hợp đồng tái bảo vệ của công ty loại trừ không chấp thuận
Phí bảo hiểm khách hàng yêu cầu quá thấp vượt quá quy định của Công ty
Khách hàng yêu cầu bảo hiểm thêm các rủi ro ngoài các rủi ro quy định đơn bảo hiểm do Bộ tài chính ban hành.
Phòng KD/CN sẽ chuyển hồ sơ khai thác về Văn phòng Công ty để các Phòng NVKD, TBH, KH tính toán hiệu quả, xem xét và quyết định phí, điều kiện. Trong trường hợp này, các bước sẽ được tiến hành theo trình tự (I), (II), (III) sơ đồ hướng dẫn khai thác.
Một số trường hợp cần phải mời thầu để thu xếp được bảo hiểm, việc lập hồ sơ mời thầu, xét thầu, lập hồ sơ tham dự thầu tuân thủ theo Quy trình lập hồ sơ tham dự thầu- QT.22, Quy trình nhận tái bảo hiểm QT17.
Trong năm 2003, định mức chi phí giao dịch, bán hàng áp dụng cho các phòng kinh doanh thuộc công ty bảo hiểm Dầu khí như sau:
Bảng 6: Trường hợp khai thác trực tiếp
Khách hàng trong ngành và truyền thống
(% DTTT)
Khách hàng ngoài ngành
Nhận TBH
(% DTTT)
Cháy nổ- TS và thiệt hại
Nghiệp vụ bảo hiểm khác
(% DTTT)
(% DTTT)
Chi phí giao dịch khai thác bảo hiểm + hoa hồng bảo hiểm gốc (*)
1%
12%
11%
1,50%
(Nguồn: phòng bảo hiểm kỹ thuật của PVI)
(*) Các khoản chi thực hiện theo quy định của Bộ tài chính và hướng dẫn của P.TCKT Công ty.
Bảng 7: Trường hợp khai thác qua môi giới, đại lý
Chỉ tiêu
Khai thác qua môi giới
(% DTTT)
Khai thác qua đại lý
(% DTTT)
Cháy nổ - TS và thiệt hại
Nghiệp vụ bảo hiểm khác
Chi hoa hồng bảo hiểm gốc và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm cho môi giới, đại lý (có hoá đơn, chứng từ theo quy định của Nhà nước)
15%
16%
15%
Chi phí quản lý môi giới, đại lý
1,0%
1,0%
1,0%
(Nguồn: phòng bảo hiểm kỹ thuật của PVI)
(**) Định mức khoán khai thác qua môi giới chỉ áp dụng cho các dịch vụ có tỷ lệ thu xếp tái bảo hiểm chỉ định 50% do Giám đốc Công ty duyệt cho từng dịch vụ.
Chuẩn bị Đơn/Hợp đồng/GCN:
Sau khi nhận được thông báo đồng ý tham gia bảo hiểm của khách hàng, CB khai thác chuẩn bị Đơn/Hợp đồng.
Ký duyệt Đơn/Hợp đồng/GCN:
Lãnh đạo Phòng KD/CN ký Đơn/Hợp đồng
Đối với các trường hợp dịch vụ bảo hiểm trên phân cấp, BGĐ ký đơn, Phòng KD/CN phải chuyển dự thảo Đơn/Hợp đồng đến cho Phòng NVKD và/hoặc Phòng KH, Phòng TBH, KT có ý kiến trước khi BGĐ ký
Đóng dấu, chuyển Đơn/Hợp đồng/GCN, lưu nghiệp vụ:
Đơn/Hợp đồng được văn thư đóng dấu
Lưu nghiệp vụ 01 bản gốc: Đơn/Hợp đồng bảo hiểm và các tài liệu có liên quan phải được đính kèm nhau và được lưu trong các tài liệu theo từng năm.
Đơn/Hợp đồng bảo hiểm được luân chuyển như sau:
+ Chuyển 01 bản copy cho Phòng KT/bộ phận KT để theo dõi việc thanh toán phí bảo hiểm, thanh toán hoa hồng bảo hiểm và làm cơ sở xét giải quyết bồi thường nếu có phát sinh, 01 bản copy cho Phòng Kế hoạch/bộ phận thống kê để phục vụ cho công tác báo cáo thống kê nghiệp vụ, công tác tính toán hiệu quả kinh tế và phương án giữ lại, 01 bản copy cho Phòng TBH để thu xếp tái bảo hiểm, 01 bản copy cho Phòng NVKD để phục vụ công tác quản lý.
+ Chuyển cho khách hàng bản gốc.
Quản lý Đơn/Hợp đồng/GCN bảo hiểm
Lưu sổ thống kê: Hợp đồng, bản lưu giấy chứng nhận bảo hiểm phải được vào sổ thống kê của Phòng KD/CN và sổ thống kê của công ty.
Theo dõi việc thu phí, thanh toán hoa hồng: Thời hạn thu phí bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm/ thông báo thu phí bảo hiểm.
Nếu cán bộ khai thác thu phí bằng tiền mặt thì phải nộp tiền vào quỹ trong vòng 24 giờ sau khi thu. Hết thời hạn thoả thuận mà khách hàng vẫn chưa nộp phí bảo hiểm công ty sẽ giục khách hàng nộp phí (qua fax, điện thoại, điện tín, công văn). Quá thời hạn thu phí bảo hiểm 01 tháng mà khách hàng vẫn chưa nộp, cán bộ khai thác báo cáo lãnh đạo Công ty, Phòng/bộ phận KT để có biện pháp giải quyết.
Giải quyết các yêu cầu phát sinh của khách hàng: trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có bất cứ thay đổi nào từ phía Công ty hoặc khách hàng thì cán bộ khai thác có trách nhiệm thống nhất với khách hàng, lập thành văn bản nội dung thay đổi và thông báo tới các bộ phận liên quan. Các thay đổi ảnh hưởng đến rủi ro được bảo hiểm nếu cần sẽ phải tính thêm phí. Bản sửa đổi bổ sung cho các thay đổi này được lưu cùng các tài liệu đã có.
Bảng 8: Công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm cháy
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
2000
2001
2002
2003*
Số đơn vị tham gia BH
Đơn vị
87
155
172
219
238
185
STBH
Triệu
1251489
3017021
3701250
4500415
4610416
3861600
STBHBQ 1 đơn vị
Triệu đồng
14384,9
19464,7
21518,9
20549,8
19371,5
20873,5
Lượng tăng giảm
Triệu đồng
474925
1765532
684229
799165
110001
-748816
Tốc độ phát triển liên hoàn
%
161,16
241,07
122,68
121,59
102,44
83,76
Doanh thu phí
Triệu đồng
2941
7090
8883
10801
11065
9654
(Nguồn: phòng bảo hiểm kỹ thuật PVI)
2003*: Dự kiến công tác khai thác nghiệp vụ cháy năm 2003
Qua bảng trên ta thấy: Số lượng đơn vị tham gia bảo hiểm có chuyển biến và nhìn chung số đơn vị này có xu hướng tăng trong giai đoạn 1998- 2002. Cụ thể: Năm 1998 số đơn vị tham gia là 87 đơn vị, năm 2000 là 172 đơn vị, năm 2001 là 219 đơn vị và đến 2002 số đơn vị tham gia tăng lên 238. Xu hướng tăng dần từ năm 1998 đến 2002 cho ta thấy công tác tiếp cận khách hàng của PVI đạt được kết quả đáng quan tâm. Thương hiệu của công ty ngày càng được quảng bá rộng rãi trong nước và trên thế giới càng tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong công tác khai thác. Về chỉ tiêu số tiền bảo hiểm từ 1998 đến 2002 có xu hướng tăng dần, đặc biệt tăng mạnh trong năm 1999 là 3017021 triệu đồng, tương ứng tăng 141,07%. Từ năm 2000 đến 2001, tốc độ tăng số tiền bảo hiểm duy trì ở mức trên 20%. Đến năm 2002, số tiền bảo hiểm có tăng lên nhưng không đáng kể. Công ty chỉ đạt mức 4610416 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 2,44%. Đây chính là dấu hiệu dự báo về sự giảm sút trong công tác khai thác nghiệp vụ của công ty trong năm 2003. Theo số liệu thống kê của phòng kinh tế- kế hoạch, năm 2003, dự báo công ty sẽ chỉ đạt số tiền bảo hiểm là 3861600 triệu đồng trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, tương ứng với tốc độ phát triển giảm 16,24%. Sở dĩ có kết quả như vậy là do trên thị trường bảo hiểm cháy vẫn đang gặp không ít khó khăn. Khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của thị trường lớn hơn nhu cầu thực tế. Có thêm hai công ty bảo hiểm liên doanh tham gia thị trường là công ty bảo hiểm Samsung-Vina và công ty bảo hiểm Incombank-Asia càng làm cho thị trường này tăng cao tính cạnh tranh. Về phần công ty, trong năm 2003, các dự án lớn do phòng BHKT đảm nhiệm phần lớn là các dự án mới được triển khai trong những giai đoạn đầu tiên như: dự án xây dựng nhà máy lọc dầu số 1, nhà máy đạm Phú Mỹ nên chủ yếu các hợp đồng cấp đều là bảo hiểm xây dựng và lắp đặt.
Ta có thể thấy được số tiền bảo hiểm đi kèm theo nó là hợp đồng bảo hiểm trong những năm gần đây có xu hướng tăng. Chỉ riêng năm 2003 giảm tương đối mạnh nhưng chưa đủ để nói lên thị phần bảo hiểm cháy của công ty bị thu hẹp do công ty có rất nhiều những dự án chắc chắn và tiềm năng đang được thi hành ở những giai đoạn đầu và dự báo sẽ tăng mạnh doanh thu bảo hiểm nghiệp vụ này trong những năm sắp tới.
Số tiền bảo hiểm có xu hướng tăng làm cho doanh thu phí bảo hiểm tăng. Năm 1998 doanh thu phí bảo hiểm là 2941 triệu VNĐ nhưng đến năm 1999 doanh thu phí bảo hiểm tăng cao là 7090 triệu VNĐ. Năm 2001 doanh thu phí là 10801 triệu đồng, tăng 1918 triệu VNĐ so với năm 2000. Năm 2002 doanh thu phí tăng 2,44% so với năm 2001, đạt 11065 triệu đồng. Dự báo năm 2003, doanh thu phí của nghiệp vụ này chỉ đạt 9654 triệu đồng.
Để có một cái nhìn tổng quát về nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn của công ty, chúng ta sẽ xem xét tốc độ tăng trưởng doanh thu của một số nghiệp vụ chính của PVI trong năm 2001- 2002:
Bảng 9: Tốc độ tăng trưởng doanh thu của một số nghiệp vụ chính
Đơn vị: Triệu đồng
Nghiệp vụ
Năm 2001
Năm 2002
% tăng trưởng
BH sức khoẻ và tai nạn con người (Health and PA Ins)
6492
11587
78,48
BH hàng hoá vận chuyển (Cargo Ins)
11063
30884
179,16
BH xe cơ giới (Motor Vehicle Ins)
6060
8807
45,33
BH thân tàu và Trách nhiệm dân sự của chủ tàu (Hull and P&I Ins)
27760
88182
217,66
BH trách nhiệm chung (Public Liability Ins)
1873
2630
40,42
BH cháy (Fire Ins)
10801
11065
2,44
(Nguồn: phòng kinh tế - kế hoạch của PVI)
Một thực tế là thị phần nghiệp vụ bảo hiểm cháy của PVI chiếm tỷ lệ không cao trên thị trường. Trong công ty, tốc độ tăng trưởng của nghiệp vụ này năm 2002 còn thấp, chỉ đạt 2,44%. Có rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tuy nhiên có một nguyên nhân quan trọng là công tác khai thác chưa tốt. Một nguyên nhân khác nữa là các công ty bảo hiểm liên doanh và 100% vốn nước ngoài bắt đầu đi vào hoạt động. Các công ty này có nhiều lợi thế khi tham gia khai thác nghiệp vụ tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là nghiệp vụ hoả hoạn vì đây vốn là một nghiệp vụ đã được triển khai từ khá lâu trên thế giới nhưng còn mới tại Việt Nam. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam mang theo kinh nghiệm được tích luỹ hàng trăm năm của các công ty mẹ, trình độ quản lí tiên tiến, khả năng tài chính hùng mạnh.
Những lí do đó đã tạo niềm tin và uy tín với người tham gia bảo hiểm, vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn các công ty như UIC, VIA, Allianz đã chiếm được thị phần khá lớn, điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với PVI cần phải có những giải pháp hợp lí để cạnh tranh trên thị trường.
Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao, vốn đầu tư và số lượng công trình, dự án đầu tư vào Việt Nam là khá lớn, số lượng các công ty, các xí nghiệp tăng trong khi nghiệp vụ bảo hiểm cháy là nghiệp vụ mang tính bắt buộc. Chính vì vậy đây là một nghiệp vụ rất có tiềm năng phát triển. Thông qua các số liệu về doanh thu phí bảo hiểm, số đơn vị tham gia, số tiền bảo hiểm, tốc độ tăng trưởng qua các năm gần đây của PVI chứng tỏ công tác khai thác chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, chưa tương xứng với tiềm năng của nghiệp vụ này.
Một lý do nữa dẫn đến công tác khai thác chưa đạt được hiệu quả là do tâm lý. Thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cháy ở Việt Nam là các xí nghiệp liên doanh, văn phòng đại diện hoặc một số công ty xí nghiệp bị bắt buộc phải mua bảo hiểm cháy khi vay vốn ngân hàng, còn lại rất ít tham gia tự nguyện, ngay cả với những doanh nghiệp có nguy cơ gặp rủi ro cao. Nhiều khách sạn, nhà hàng, đại lý Gas, khu vực triển lãm, chợ chưa tham gia bảo hiểm. Tình trạng cháy các toà nhà công cộng, cháy nhà tư nhân vẫn thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng như: vụ cháy toà nhà Trung tâm Thương mại quốc tế tại TP Hồ Chí Minh ngày 29/10/2002. Tuy nhiên việc triển khai tới các đối tượng này còn gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu là do tâm lý bất cần, do trình độ hiểu biết về vai trò và tác dụng của bảo hiểm còn hạn chế.
2. Công tác giám định và bồi thường:
2.1. Giám định
Giám định và bồi thường là khâu kế tiếp của quá trình triển khai của một sản phẩ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- b10.doc