MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTTT 1
I/ Tổng quan về TTTT 1
1. Khái niệm TTTT 1
2. Chức năng, vai trò và đặc điểm của TTTT 1
2.1_Chức năng của TTTT 1
2.2_Vai trò của TTTT 2
2.3_Đặc điểm của TTTT 3
3. Phân loại TTTT 4
3.1_Căn cứ vào đối tượng giao dịch 4
3.1.1_TTTT sơ cấp 4
3.1.2_TTTT thứ cấp 4
3.2_Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch 5
3.2.1_TTTT liên ngân hàng 5
3.2.2_TTTT mở rộng 5
3.3_Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá giao dịch 6
3.3.1_Thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn 6
3.3.2_Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn 6
4. Chủ thể của TTTT 7
4.1_Ngân hàng Trung Ương 7
4.2_Ngân hàng thương mại 8
4.3_Kho bạc Nhà nước 8
4.4_Người đầu tư 9
4.5_Người môi giới và kinh doanh 9
5. Các công cụ trên TTTT 10
5.1_Tín phiếu kho bạc 10
5.2_Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng 10
5.3_Thương phiếu 10
5.4_Chấp phiếu ngân hàng 11
5.5_Hợp đồng mua lại 11
5.6_Eurocurrency 12
II/ Tổng quan về TTTT Quốc tế 13
1. Khái niệm TTTT Quốc tế 13
2. Đặc trưng của TTTT Quốc tế 14
3. Ưu và nhược điểm của TTTT Quốc tế 15
3.1_Ưu điểm 15
3.2_Nhược điểm 16
4. Công cụ trên TTTT Quốc tế 17
4.1_Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency 17
4.2_Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng 18
4.3_Chứng chỉ và chi phiếu Eurocurrency có lãi suất thả nổi 18
4.4_Khả năng phát hành chi phiếu 19
4.5_Hoạt động ngân hàng hải ngoại của ngân hàng nội địa 19
4.6_Hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất 19
4.7_Các hợp đồng kì hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất 20
CHƯƠNG II: TTTT VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ 21
I/ Thực trạng TTTT Việt Nam 21
1. Quá trình hình thành và phát triển của TTTT Việt Nam 21
2. Tình hình TTTT Việt Nam 22
2.1_Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng 22
2.2_TTTT liên ngân hàng 28
2.3_Thị trường tín phiếu kho bạc 33
II/ Tác động của các diễn biến trên TTTT Quốc tế đến TTTT
Việt Nam 35
1. Tác động của chính sách lãi suất 35
2. Tác động của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 38
3. Tác động của sự ra đời đồng Euro 40
III/ Đánh giá về mức độ phát triển và hội nhập Quốc tế của TTTT
Việt Nam 42
1. Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách 42
1.1_Môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTTT 42
1.2_Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với TTTT 44
2. Các công cụ trên TTTT 45
2.1_Tín phiếu kho bạc 45
2.2_Tín phiếu NHNN 46
2.3_Các giấy tờ có giá ngắn hạn do TCTD phát hành 47
2.4_Thương phiếu 49
2.5_Hợp đồng mua lại 49
3. Cơ chế lãi suất 50
4. Mức độ hội nhập của TTTT Việt Nam 57
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN TTTT VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP TTTT QUỐC TẾ 60
I/ Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc phát triển
và hội nhập TTTT Việt Nam trong thế kỉ 21 60
II/ Các yêu cầu đặt ra đối với việc hội nhập TTTT 64
III/ Các giải pháp nhằm phát triển TTTT Việt Nam trong điều kiện hội nhập TTTT Quốc tế 65
1. Các giải pháp về môi trường pháp lý và cơ chế chính sách 65
1.1_Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTTT 66
1.2_Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ 67
2. Các giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của TTTT 68
2.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 68
2.1.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp 68
2.1.2_Hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 68
2.2_Hoàn thiện các loại hình TTTT hiện có ở nước ta hiện nay 70
2.2.1_Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng truyền thống 70
2.2.2_Hoàn thiện TTTT liên ngân hàng 73
2.2.3_Hoàn thiện thị trường mua bán các loại chứng khoán
ngắn hạn 74
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên 78
3.1_Ngân hàng Nhà nước 78
3.2_Ngân hàng thương mại 80
3.3_Tổ chức môi giới 81
3.4_Công ty tài chính 82
4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ mới của TTTT 82
4.1_Các hợp đồng mua lại 83
4.2_Các công cụ khác 84
5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực 84
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
85 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và khả năng hội nhập của thị trường tiền tệ Việt Nam vào thị trường tiền tệ Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tiền tệ quốc gia cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn của những biến động trên TTTT, từ đó, đòi hỏi phải sử dụng linh hoạt các công cụ tiền tệ để điều chỉnh. Ngoài ra, số lượng ngân hàng Hoa Kỳ gia tăng cũng sẽ làm tăng khối lượng công việc của đội ngũ thanh tra Nhà nước, nhất là về giám sát và thanh tra tại chỗ.
Khi thực hiện HĐTMVM, sức ép cạnh tranh sẽ tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực sau: Thứ nhất, thị trường tín dụng: cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt khi các ngân hàng nước ngoài hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết, trong đó, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động tái cấp vốn, chiết khấu từ NHNN sau 3 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực sẽ giúp họ bù đắp một phần vốn huy động còn bị hạn chế bởi lộ trình; Thứ hai, giao dịch thanh toán và chuyển tiền: đây là lĩnh vực có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài cả về loại hình và chất lượng dịch vụ, sau khi có uy tín, các ngân hàng này sẽ thu hút một lượng đáng kể khách hàng Việt Nam; Thứ ba, dịch vụ tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ: lĩnh vực này cũng sẽ thu hút sự quan tâm của khách hàng Việt Nam. Ngoài ra, sự cạnh tranh gay gắt còn tập trung vào việc mở rộng đối tượng khách hàng là dân cư dưới các hình thức hoạt động: tăng vốn huy động VND thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi tạm thời của tổ chức phi kinh tế, mở rộng hoạt động mới, nhất là dịch vụ thu phí như thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, môi giới, lưu ký…
Tuy nhiên, những sức ép như vậy chính là động lực để đẩy mạnh công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo đà cho TTTT phát triển theo xu hướng của TTTT thế giới. Các ngân hàng Việt Nam đã phải tự điều chỉnh và hoàn thiện theo xu hướng đó.
Hoạt động đa dạng của các TCTD Mỹ theo Hiệp định đã đặt ra những yêu cầu mới với NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và giám sát, thanh tra hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Việc quản lý Nhà nước với các ngân hàng sẽ phức tạp hơn hiện nay và đòi hỏi phải có sự phối hợp quản lý của nhiều cơ quan, không chỉ riêng NHNN.
Thêm nữa, việc thực hiện HĐTMVM là một cơ hội lớn cho ngành ngân hàng Việt Nam để các ngân hàng trong nước tích cực tham gia cạnh tranh, tiếp cận các dịch vụ mới, gia tăng sự hợp tác giữa các ngân hàng Việt Nam với ngân hàng Mỹ. Ngân hàng Việt Nam hiện có lợi thế là mạng lưới rộng, tiếp cận với cách thức quản lý và kinh doanh của các ngân hàng Quốc tế hoạt động tại Việt Nam. Hiện NHNN Việt Nam đã có chương trình triển khai thực hiện HĐTMVM trong ngành ngân hàng. NHNN đã hoàn tất công tác rà soát các quy định của pháp luật hiện hành của ngân hàng so với nội dung cam kết liên quan đến lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của HĐTMVM. Trong 2 năm qua, NHNN đã tiến hành sửa đổi quy chế cho vay với khách hàng của các TCTD, bổ sung quy định cho phép các cá nhân và pháp nhân nước ngoài được vay vốn tại các TCTD hoạt động tại Việt Nam theo đúng cam kết trong HĐTMVM. Riêng năm 2003, theo chương trình xây dựng văn bản pháp luật của ngân hàng, các văn bản pháp luật cần xây dựng và ban hành có liên quan đến HĐTMVM là 13 văn bản. Một định hướng sửa đổi Luật các TCTD cũng đang được xem xét để tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các TCTD tại Việt Nam.
3. Tác động của sự ra đời đồng Euro:
Tháng giêng năm 1999, đồng Euro ra đời với tư cách là đồng tiền chính thức đại diện cho khối các nước thuộc Liên minh châu âu, đến ngày 1/1/2002, đồng Euro chính thức được phát hành rộng rãi trên lãnh thổ 12 nước châu âu. Nó tiềm ẩn một sức mạnh chung của các nước Châu âu và kỳ vọng vào khả năng phá vỡ thế độc tôn của đồng đôla Mỹ và đồng Yên Nhật. Việc hình thành đồng Euro gây ra sự biến động lớn trong cơ cấu tiền tệ thế giới.
Đồng Euro đã có những ảnh hưởng nhất định đối với TTTT Quốc tế trên cả phương diện giao dịch và tổng dự trữ ngoại tệ của NHTW. Các NHTW Canada, Trung Quốc, Đài Loan đang hướng tới đồng Euro, chính phủ các vùng lãnh thổ và các nước như Hồng Kông và các nước Đông Âu đều đang tăng tỷ trọng đồng Euro trong tỷ lệ dự trữ. Cũng theo tình hình chung, đồng Euro xuất hiện trên thị trường tiền tệ Việt Nam đã mang lại cho TTTT nước ta những thay đổi nhất định. Euro ra đời tạo cơ hội cho Việt Nam bắt tay vào chương trình quản lý một cách tích cực sự đa dạng hoá tiền tệ trong các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Lâu nay, trong quan hệ xuất-nhập khẩu, vay-trả nợ, cơ cấu dự trữ quốc gia cũng như việc mua bán, chuyển đổi đầu tư vào ngoại tệ của dân cư, đồng đôla đều được quan tâm đặc biệt bởi đôla chiếm thị phần áp đảo trong thanh toán buôn bán, vay-trả nợ Quốc tế, trong dự trữ quốc gia. Tuy nhiên, kể từ khi xuất hiện đồng Euro và khi đồng Euro bắt đầu vươn dậy thì sự chuyển hướng sang đồng Euro đã bắt đầu. Trước tình hình đó, tại Việt Nam, nhiều người đổ xô đi mua đồng Euro làm phương tiện dự trữ và kinh doanh. Tỷ trọng giao dịch đồng Euro trong tỷ trọng giao dịch ngoại tệ của ngân hàng với khách hàng tăng vọt từ mức 3% lên mức 20%1 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 15/6/2003, trang 29.
.
Bảng 10: Tình hình giao dịch bằng đồng EURO so với USD của Techcombank (Từ tháng 1 đến ngày 15/12/2003)
Tổng lượng bán
Tổng lượng mua
EURO
278.707.200 USD
288.000.000 USD
USD
468.352.670 USD
474.670.000 USD
Nguồn: Bản tin nội bộ của Techcombank
Như vậy, tại ngân hàng này với tỷ lệ giao dịch đa số là đôla Mỹ trước đây còn Euro chiếm rất ít thì hiện nay, tỷ lệ giao dịch bằng Euro là khoảng 50% so với đôla Mỹ.
Ngoài quan hệ thương mại, việc Euro ra đời còn ảnh hưởng đến quan hệ vay-trả. Từ đó, khách hàng có thể cân nhắc, lựa chọn đồng tiền thanh toán và lựa chọn ngân hàng để thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn ngoại tệ.
Hơn nữa, việc ra đời đồng Euro còn tác động đến dự trữ ngoại tệ đang chiếm chủ yếu là đồng USD và đưa ra cho Việt Nam cơ hội theo đuổi một cách có hệ thống hơn và tích cực hơn việc quản lý đa dạng đồng tiền trong các quan hệ Quốc tế. Bằng việc xem xét sức mạnh của đồng Euro và tham chiếu các nước châu âu và sự thịnh vượng của các công cụ tiền tệ cho kho bạc và quản lý dự trữ, chúng ta có thể giảm thiểu biến động và góp phần ổn định TTTT.
iII/ Đánh giá về mức độ phát triển và hội nhập Quốc tế của thị trường tiền tệ Việt Nam
1.Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách
1.1_Môi trường pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên TTTT
Với việc ban hành Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính vào tháng 5/1990, lần đầu tiên Việt Nam có một hệ thống văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng tương đối toàn diện và tiến bộ. Kết quả triển khai pháp lệnh, đổi mới trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng là chúng ta cơ bản tạo dựng được hệ thống ngân hàng hai cấp hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; bên cạnh đó cũng tạo dựng được hệ thống TTTT dù còn sơ khai, chưa đồng bộ nhưng đã bắt đầu đi vào hoạt động.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới, phát triển trong thời kỳ đổi mới thì 2 pháp lệnh và cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động, quản lý trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng tỏ ra tụt hậu, bộc lộ một số hạn chế cản trở tiến trình phát triển, đổi mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập cụ thể:
- Cơ sở pháp lý chưa đồng bộ, thống nhất, thậm chí có mâu thuẫn nội tại, vừa thiếu vừa chồng chéo và chủ yếu là các văn bản dưới luật-điều này không phù hợp với việc hình thành hệ thống ngân hàng hiện đại, nhất là trong thời kỳ hội nhập.
- Cơ sở pháp lý gắn với việc xác lập chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán còn nhiều bất cập và tỏ ra lạc hậu xa với các nước trong khu vực.
- Việc xác định địa vị pháp lý, quyền tự chủ tài chính, chức năng của các tổ chức tín dụng chưa đầy đủ và chưa thực sự rõ ràng; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN chưa tương xứng với vị thế của NHTW.
- Một số quy chế, văn bản quá lạc hậu, không còn phù hợp cần phải được huỷ bỏ và thay thế, bổ sung.
Để tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng tiếp tục phát triển trong giai đoạn mới, ngày 12/12/1997, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật NHNN và Luật các TCTD, hai luật này chính thức có hiệu lực từ tháng 10/1998.
So với hai Pháp lệnh ngân hàng, hai Luật ngân hàng đã có những bước tiến bộ đáng kể. Việc ban hành hai Luật mới này cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển và hội nhập TTTT Việt Nam. Điều này thể hiện:
- Tạo cơ sở pháp lý để trực tiếp nâng cấp, kiện toàn và phát triển các chủ thể tham gia và quản lý TTTT.
- Cơ sở pháp lý trực tiếp và có liên quan đến hoạt động, tổ chức và vận hành TTTT về cơ bản là được nâng cấp.
- Cơ sở pháp lý mới cũng tạo điều kiện phát triển các công cụ chủ yếu của TTTT.
Ban hành hai luật cũng là bước tiến mới, song cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn những tồn tại cần phải tiếp tục bổ sung, điều chỉnh trong thời gian tới để tạo môi trường pháp lý cho sự hoàn thiện và hội nhập của TTTT:
- Xét tổng thể môi trường pháp lý cho hoạt động của các TCTD, cho việc quản lý, giám sát của NHNN đối với lĩnh vực tiền tệ-tín dụng cũng như cơ sở pháp lý cho việc phát triển TTTT lên một tầm cao mới vẫn còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ. Ví dụ như:
+Đối với TTTT, theo Khoản 2, điều 9 Luật ngân hàng thì: TTTT là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Như vậy, khái niệm này đã tách một bộ phận quan trọng là thị trường tín dụng truyền thống và thị trường vay mượn liên ngân hàng ra khỏi TTTT.
+Hiện nay, việc huy động tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm của các TCTD theo khoản 3 Điều 30 Luật các tổ chức tín dụng thì “không cấm” nhưng tại khoản 2 Điều 45 Luật này thì lại “không cho phép”.
- Việc hướng dẫn thi hành luật quá chậm
- Một số nội dung của hai luật đã tỏ ra không phù hợp, chưa chuẩn xác, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung.
1.2_Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với TTTT:
TTTT chính là môi trường cho NHNN thực thi chính sách tiền tệ, TTTT phát triển sẽ giúp cho NHNN thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn. Mặt khác, chính sách tiền tệ lại có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển và hội nhập của TTTT.
Chính sách tiền tệ bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: Chính sách cung ứng tiền; Chính sách lãi suất, tín dụng; Chính sách đối với ngân sách Nhà nước. Sự đổi mới của mỗi bộ phận chính sách tiền tệ đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự hình thành và phát triển các loại hình và công cụ của TTTT.
Trong thời gian qua, do điều kiện hệ thống NHTM chưa phát triển, chưa thực sự tự chủ kinh doanh và do thị trường tiền tệ Việt Nam còn manh nha, việc sử dụng các công cụ trực tiếp vẫn là chủ yếu, thậm chí có lúc buộc phải dùng các biện pháp hành chính để can thiệp vào lĩnh vực tiền tệ-tín dụng. Các công cụ trực tiếp được sử dụng điều tiết lượng tiền cung ứng là hạn mức tín dụng, lãi suất (trần lãi suất). Bên cạnh các công cụ trực tiếp, đã có việc chuyển hướng sang sử dụng các công cụ gián tiếp như: thông qua cơ chế tái cấp vốn để đưa tiền vào lưu thông, sử dụng linh hoạt hơn chính sách dự trữ bắt buộc để tác động đến việc cung ứng vốn của NHTM, từng bước tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, khi hệ thống TTTT đã mở rộng, quá trình tự do hoá nền kinh tế, mở cửa hội nhập kinh tế được tăng cường thì hiệu quả của các công cụ trực tiếp không chỉ suy giảm mà còn có tác động tiêu cực, làm méo mó môi trường tiền tệ, tín dụng, lãi suất, không đáp ứng yêu cầu giao lưu về vốn trong nền kinh tế và yêu cầu hội nhập.
Trong chính sách tín dụng, NHNN vẫn tác động một cách trực tiếp bằng cách cho vay chỉ định qua kênh tái cấp vốn để hỗ trợ cho các chương trình chỉ định vốn hay áp dụng việc cho vay đối với các TCTD tạm thời mất khả năng chi trả khi được Thủ tướng chính phủ chấp thuận. Việc làm này vẫn còn tồn tại bất cập, bởi lẽ, khoản tín dụng này sẽ ảnh hưởng đến lãi suất liên ngân hàng làm sai lệch thước đo lãi suất. Hơn nữa, tình trạng này còn làm cho các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế phụ thuộc vào các quyết định của Chính phủ.
Trong chính sách lãi suất, NHNN xác định và công bố lãi suất tái cấp vốn. Nhu cầu vay tái cấp vốn của hệ thống ngân hàng rất không nhạy cảm đối với lãi suất tái cấp vốn, bởi vì công cụ tái cấp vốn không được điều hành chặt chẽ theo những nguyên tắc của thị trường: khối lượng cho vay tái cấp vốn được ấn định bởi hạn mức và chủ yếu nhằm bổ sung vốn khả dụng cho các NHTM Nhà nước thực hiện các chương trình, dự án kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ.
Việc tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp không chỉ làm cho việc thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, hiệu quả hơn mà còn tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng phát triển, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình hàng hoá, công cụ của TTTT. Việc khai trương nghiệp vụ thị trường mở đánh dấu bước phát triển mới về chất của TTTT, kể từ đây, tín phiếu kho bạc Nhà nước, tín phiếu NHNN và các công cụ tín dụng khác của NHTM không chỉ được phát hành mà còn được mua đi bán lại giữa các thành viên- các TCTD, NHNN, các tổ chức tài chính.
2. Các công cụ trên TTTT
Hàng hoá trên TTTT là công cụ để luân chuyển vốn ngắn hạn, đồng thời nó cũng là công cụ gián tiếp để thực thi chính sách tiền tệ. Sự đa dạng và chất lượng của các công cụ không chỉ là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu lực của chính sách tiền tệ mà nó còn là tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như khả năng hội nhập quốc tế của TTTT Việt Nam.
2.1_Tín phiếu kho bạc
Tuy là công cụ đầu tiên và chủ yếu trên TTTT, nhưng việc phát hành tín phiếu kho bạc trong thời gian qua chủ yếu là nhằm đáp ứng bù đắp thiếu hụt trong nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước, còn về việc đáp ứng mục tiêu tạo hàng cho TTTT thì còn rất hạn chế. Nếu đánh giá dưới góc độ là công cụ của TTTT thì tín phiếu kho bạc vẫn còn một số hạn chế sau:
- Thời hạn phát hành tín phiếu chủ yếu là 1 năm (365 ngày), thời hạn này tuy có tạo điều kiện cho ngân sách Nhà nước nhưng xét dưới góc độ là công cụ của TTTT thì thời hạn này không phải là thời hạn thích hợp, hạn chế khả năng luân chuyển linh hoạt vốn ngắn hạn. Mặt khác, theo khoản 2, Điều 9 và Điều 21 Luật NHNN thì: “TTTT là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm…”, trong khi, từ năm 1999 về trước, chỉ có loại tín phiếu 1 năm (365 ngày). Cho đến nay mới chỉ có chủ yếu 3 loại kỳ hạn là 364 ngày, 365 ngày và 182 ngày.
- Lãi suất tín phiếu kho bạc chưa phản ánh một cách đầy đủ quan hệ cung cầu trên TTTT, còn tuỳ thuộc vào lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính và ý chí chủ quan của người đặt thầu, chưa thực hiện được vai trò định hướng lãi suất trên thị trường( xem bảng 3, phụ lục). Mối quan hệ giữa lãi suất tín phiếu kho bạc với các loại lãi suất khác còn nhiều bất hợp lý. Thời gian gần đây, trong lúc nhiều NHTM thiếu vốn trung và dài hạn phải huy động với lãi suất trên 8%/ năm thì lại phải đầu tư hàng trăm tỷ đồng vào tín phiếu kho bạc Nhà nước với lãi suất trên dưới 6%/ năm, chịu chấp nhận lỗ để giải quyết vấn đề thanh khoản và vốn khả dụng Tạp chí ngân hàng số 10 năm 2003, trang 17
.
- Việc mua bán tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp còn rất hạn chế. Tín phiếu trúng thầu chủ yếu vẫn được nắm giữ đến khi đáo hạn, chưa được mua bán, chiết khấu trên TTTT .
- Khối lượng mua bán tín phiếu kho bạc vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Do công tác tổ chức và chỉ đạo đấu thầu còn nhiều tồn tại nên năm 2001, số tín phiếu bán được chỉ đạt khoảng 60% kế hoạch, 2 phiên chỉ bán được 10 tỷ đồng so với kế hoạch mỗi phiên một trăm tỷ đồng Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2002, trang 27
2.2_Tín phiếu NHNN
Ngày 8/10/1999, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN1 ban hành “Quy chế phát hành tín phiếu NHNN” nhằm chuẩn bị công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Tín phiếu NHNN là giấy tờ có giá ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm) do NHNN phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của NHNN với chủ sở hữu tín phiếu. NHNN phát hành tín phiếu nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và phát triển TTTT. Tín phiếu NHNN có độ rủi ro thấp. Việc sử dụng tín phiếu NHNN làm công cụ trên thị trường giúp NHNN tăng cường tính độc lập. Tín phiếu NHNN là công cụ linh hoạt để quản lý vốn khả dụng, nhưng sử dụng tín phiếu NHNN cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định giữa NHNN với Bộ Tài chính nhằm tránh trường hợp phân đoạn thị trường với thị trường tín phiếu kho bạc.
Số dư tín phiếu NHNN hiện nay khoảng trên 1200 tỷ đồng, thời hạn thường ngắn 2-3 tháng. Trước đây, tín phiếu NHNN được phát hành chủ yếu để hạn chế gia tăng lạm phát nhưng gần đây được phát hành trên thị trường mở nhằm mục tiêu tạo công cụ cho TTTT, điều tiết nguồn vốn ngắn hạn-bơm tiền ra và hút tiền vào tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hiện mục tiêu này vẫn chưa đạt được. Với nguyên do số dư không lớn và NHNN lại còn phải chịu chi phí phát hành nên mới đây NHNN đã ký thoả thuận với Bộ Tài chính, theo đó, NHNN sẽ mua số tín phiếu kho bạc không được các thành viên mua hết. Khi đó, NHNN có thể chấm dứt việc phát hành tín phiếu NHNN.
2.3_Các giấy tờ có giá ngắn hạn do các tổ chức tín dụng phát hành
Các giấy tờ này bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn…. Từ 1/1/2003, việc phát hành các giấy tờ có giá của các TCTD được thực hiện thống nhất theo Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002. Theo đó, các TCTD phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn là các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD, đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại Quy chế này, bao gồm các TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần của Nhà nước và nhân dân, Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương, các TCTD liên doanh, TCTD nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Công ty cho thuê tài chính không được phép phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Thống đốc NHNN hoặc giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố được uỷ quyền ra quyết định chấp thuận đối với kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong cả năm của TCTD, trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị phát hành và điều kiện phát hành.
Việc phát hành các giấy tờ có giá của các TCTD đã góp phần đa dạng hoá các công cụ huy động vốn và tạo điều kiện phát triển thị trường thứ cấp ở Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, nguồn vốn huy động việc phát hành giấy tờ có giá nói chung và giấy tờ có giá ngắn hạn nói riêng mới chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư của các TCTD. Trong ba năm gần đây, các tỷ lệ này đã tăng đáng kể so với các năm trước, nhưng vẫn ở mức thấp, khoảng 12% và 5% tương ứng. Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu được các TCTD phát hành là kỳ phiếu. Kỳ phiếu chiếm tới 95-98% tổng nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn của các TCTD:
Bảng 11: Tình hình phát hành giấy tờ có giá của các TCTD (Triệu đồng)
12/2000
12/2001
12/2002
Phát hành Giấy tờ có giá (GTCG)
20.841.843
23.012.414
38.162.188
- GTCG ngắn hạn
10.312.983
6.790.012
12.059.572
Trong đó: Kỳ phiếu
10.311.766
6.588.252
11.509.938
- GTCG dài hạn
10.528.859
16.222.402
26.102.616
Trong đó: Trái phiếu
4.682.909
4.412.168
6.158.890
Tỷ lệ GTCG/Tổng nguồn vốn (%)
10,88
9,62
13
Tỷ lệ GTCG ngắn hạn/Tổng nguồn vốn (%)
5,38
2,84
4,11
Nguồn: Tạp chí ngân hàng, số 10 năm 2003, trang 7
Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn là công cụ huy động vốn thông dụng trên thị trường Quốc tế nhưng còn khá mới đối với các TCTD Việt Nam. Đến nay, Thống đốc NHNN mới chấp thuận cho phép Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài như: Deutsche Bank, Standard Chartered Bank, Hongkong Bank….và Công ty cho thuê tài chính quốc tế phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn. Chứng chỉ tiền gửi được phát hành và lưu thông trên TTTT ở Việt Nam là bước đánh dấu sự phát triển nghiệp vụ của NHTM huy động vốn chuyển từ nghiệp vụ tài sản nợ sang nghiệp vụ tài sản có và góp phần tăng thêm hàng hoá lưu thông trên thị trường mở và TTTT liên ngân hàng.
Một số công ty tài chính như Công ty tài chính Sài Gòn, Công ty tài chính Seaprodex đã phát hành tín phiếu thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng với số dư hiện nay chỉ khoảng 40-45 tỷ đồng. Tuy nhiên, số dư tín phiếu phát hành thấp không phải do các công ty này có nhu cầu vốn hạn chế (mỗi đợt đệ đơn, các công ty này thường xin phát hành tới hàng trăm tỷ đồng), mà chủ yếu do họ không đáp ứng đủ các điều kiện của NHNN khi phát hành tín phiếu.
2.4_Thương phiếu
Thương phiếu là công cụ trên TTTT có tính lỏng cao. Sự hình thành và phát triển của nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường thứ cấp, thị trường chiết khấu của NHTM và thị trường tái chiết khấu của NHNN đối với các thương phiếu. Tại các nước có TTTT phát triển, thương phiếu là một công cụ rất quan trọng và thị trường thương phiếu có tốc độ phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, hình thức thương phiếu hầu như chưa được sử dụng tại Việt Nam do đến nay khung pháp lý về công cụ này chưa hoàn thiện. Ngoài pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực từ 1/7/2000 và Nghị định 32 của Chính phủ, NHNN chưa ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn Nghị định này. Hơn nữa, tại chính những văn bản pháp lý hiện hành liên quan đến thương phiếu cũng còn rất nhiều bất cập, như theo pháp lệnh, cá nhân có thể tham gia vào quan hệ thương phiếu nhưng lại bị cấm tham gia quan hệ thương phiếu theo quy định của Nghị định 32. Ngoài ra, những bất cập về chủ thể được quyền phát hành thương phiếu, chuyển nhượng thương phiếu,… cũng đang gây trở ngại cho việc sử dụng thương phiếu tại Việt Nam. Công cụ này cần được chú trọng phát triển để góp phần đưa TTTT Việt Nam phát triển và hội nhập trong tương lai.
2.5_Hợp đồng mua lại (Repo)
Repo là việc bán chứng khoán kèm theo cam kết sẽ mua lại chứng khoán theo một giá cố định vào một thời điểm nhất định nào đó trong tương lai. Thực tế, Repo là việc nhà đầu tư cấp một khoản tín dụng được cầm cố bằng các chứng khoán có thể chuyển nhượng. Tại Việt Nam, Repo chủ yếu được thực hiện trên nghiệp vụ thị trường mở giữa NHNN và các TCTD. Hiện nay, NHNN chưa có văn bản nào hướng dẫn việc thực hiện Repo giữa các TCTD với khách hàng.
Muốn có một TTTT phát triển để đáp ứng được yêu cầu hội nhập thì một trong các yếu tố quan trọng là tạo cho thị trường có nhiều hàng hoá trao đổi. Vì vậy, chính phủ phát hành tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN; các công ty cổ phần đủ điều kiện phát hành cổ phiếu, trái phiếu; doanh nghiệp phát hành thương phiếu; TCTD phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn. Hiện nay, TTTT và thị trường mở ở Việt Nam đã được thực hiện tương đối linh hoạt, đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa của các TCTD trong một số thời kỳ. Chúng ta đã hướng được hoạt động TTTT theo xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá. Tuy nhiên, các công cụ hoạt động trên TTTT còn thô sơ, nghèo nàn về chủng loại, thấp về chất lượng, mới chỉ ở giai đoạn manh nha, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
3. Cơ chế lãi suất
TTTT hiện nay đã mang tính toàn cầu hơn bao giờ hết. Chu chuyển vốn không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà còn vượt ra ngoài phạm vi của quốc gia. Những hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế cũng đang ngày càng bị bãi bỏ. Sự chênh lệch quá lớn về lãi suất trong nước do áp dụng các hạn chế hoặc kiểm soát lãi suất sẽ dẫn đến sự chu chuyển không hiệu quả của các nguồn lực tài chính. Vậy cơ chế lãi suất của chúng ta hiện nay có gì phù hợp và không phù hợp trong điều kiện hội nhập?
Từ năm 91, hệ thống ngân hàng chuyển sang mô hình hai cấp, trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, NHNN sử dụng và điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp mục tiêu ngắn hạn, dài hạn và theo lộ trình tiến tới cơ chế lãi suất thị trường:
- Tháng 8/2000 là bước ngoặt đánh dấu giai đoạn tự do hoá một cách cơ bản. NHNN công bố lãi suất cơ bản, định kỳ mỗi tháng một lần. Các TCTD căn cứ lãi suất cơ bản do NHNN công bố ấn định lãi suất cho vay không vượt quá biên độ 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn.
- Tháng 6/2001, theo Quyết định số 718/2001 về việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ, các TCTD được phép ấn định lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ dựa trên lãi suất thị trường Quốc tế (lãi suất SIBOR) và cung-cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước.
- Tháng 6/2002, theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, cơ chế lãi suất thoả thuận được thực hiện trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Việt Nam đồng của TCTD đối với khách hàng.
Với những bước chuyển đổi như trên, chính sách lãi suất đã có những tác động cả tích cực và tiêu cực đối với TTTT Việt Nam:
*Tác động của tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ
Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ là phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ Quốc tế, khắc phục được những hạn chế của cơ chế quản lý lãi suất theo biên độ trước đây, do đó, sẽ có những tác động tích cực đến TTTT Việt Nam:
- Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ không gây biến động gì đối với TTTT Việt Nam trong điều kiện lãi suất trên TTTT Quốc tế đang giảm bởi lẽ, cung ngoại tệ hiện vẫn đang lớn hơn cầu ngoại tệ.
- Tạo điều kiện mở rộng tín dụng ngoại tệ của các TCTD: Cơ chế này cho phép những dự án mà mức độ rủi ro cao có thể tiếp cận với nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng vì ngân hàng đã được phép cho vay